Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Những điều chỉnh trong quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong bối cảnh Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hình thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.83 KB, 18 trang )

NHỮNG ĐIỀU CHỈNH TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH HIỆP ĐỊNH
ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) HÌNH THÀNH
ThS. Nguyễn Bích Ngọc
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Tóm tắt
Trước sự trỗi dậy thần kỳ của nền kinh tế Trung Quốc, cùng với sự suy
thoái kéo dài của nền kinh tế Nhật Bản đã dẫn đến những nghi hoặc về một sự
hoán vị sức mạnh trên phương diện kinh tế chính trị quốc tế đang diễn ra tại khu
vực châu Á. Điều này đã khiến Nhật Bản lo lắng về sự lấn át của Trung Quốc
trong cuộc chạy đua giành phần thống trị châu Á. Nhật Bản ngay lập tức chuyển
hướng trọng tâm vào các liên kết song phương và khu vực biểu hiện thông qua
FTA/EPA với mục tiêu hướng đến hội nhập Đông Á thông qua một số đề xuất gia
nhập TPP hay RCEP. Bài nghiên cứu tập trung phân tích q trình tham gia TPP
của Nhật Bản, và vai trò TPP trong Chiến lược liên kết khu vực của Nhật Bản?
Trong chiến lược liên kết khu vực, ASEAN, Việt Nam là chìa khóa quan trọng
trong việc tạo dựng tầm ảnh hưởng của Nhật Bản trong khu vực châu Á, cũng
được hưởng lợi từ mối liên kết kinh tế chặt chẽ với Nhật Bản. Vậy cơ hội và thách
thức đối với quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong bối cảnh hình thành
TPP là gì?

1. Nhật Bản trong xu thế chuyển dịch từ chiến lược liên kết đa
phương sang liên kết khu vực
1.1. Nguyên nhân/bối cảnh hình thành chiến lược liên kết khu vực của
Nhật Bản
Q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa rõ ràng đem đến nhiều lợi ích cho các
quốc gia tham gia. Điều quan trọng của tự do hóa thương mại khơng chỉ ở góc độ
mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế mà hơn thế là những
thay đổi trong cách ứng xử của các quốc gia, cách tạo ảnh hưởng của các cường
quốc trong khu vực và trên thế giới. Nhật Bản đóng vai trò một nền kinh tế đứng


271


thứ hai thế giới nhưng là nước đi sau trong tiến trình tham gia xu hướng liên kết
khu vực tại châu Á. Quá trình chuyển hướng từ chiến lược liên kết đa phương
sang liên kết khu vực của các nước châu Á nói chung và Nhật Bản nói riêng đều
có nguyên do.
Trong thập niên 1990, thế giới kinh ngạc trước sự trỗi dậy thần kỳ của nền
kinh tế Trung Quốc, cùng với sự suy thoái kéo dài của nền kinh tế Nhật Bản đã
dẫn đến những nghi hoặc về một sự hốn vị sức mạnh trên phương diện kinh tế
chính trị quốc tế đang diễn ra tại khu vực châu Á. Trung Quốc nổi lên và có tầm
ảnh hưởng rất lớn tại khu vực sau khi tung ra gói hỗ trợ tài chính cho các nước
Đơng Nam Á vượt qua khủng khoảng tài chính năm 1997. Điều này đã khiến
Nhật Bản lo lắng về sự lấn át của Trung Quốc trong cuộc chạy đua giành phần
thống trị châu Á. Nhật Bản đã ngay lập tức chuyển hướng chiến lược hội nhập
kinh tế quốc tế, xoay hướng trọng tâm vào các liên kết song phương và khu vực
biểu hiện thông qua FTA (Hiệp định Thương mại tự do) và EPA (Hiệp định Đối
tác Kinh tế toàn diện). Nhận thức được tầm quan trọng của liên kết khu vực,
tháng 1/1997, Thủ tướng Nhật Hashimoto đã tun bố chính sách Đơng Nam Á
hay còn gọi là Học thuyết Hashimoto với tiêu đề “Biến kỷ nguyên mới của Nhật
và ASEAN thành quan hệ đối tác rộng rãi và mật thiết hơn”. Thể hiện rõ vị trí là
nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản
khơng chỉ thể hiện tâm lý cảnh giác mà cịn tỏ rõ tính tương hỗ lẫn nhau về lợi ích
kinh tế, chính trị. Mặt khác, những bắt buộc cắt giảm thuế quan thông qua FTA
cũng tạo bước đột phá trong cải cách các vấn đề trong nước, điều chỉnh Nhật Bản
- một thị trường vốn “khép kín” trở nên mở cửa hơn và vượt qua giai đoạn suy
thoái của nền kinh tế Nhật Bản. Tham vọng mở rộng cơ hội kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhật Bản trong khu vực và trên thị trường thế giới cũng là một
động lực chính thúc đẩy q trình liên kết khu vực của Nhật Bản. Bên cạnh đó,
Nhật Bản ln thể hiện mong muốn tạo dựng một khung pháp lý với những cam

kết ở cấp độ cao nhằm bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Nhật Bản khi
thực hiện đầu tư hoặc trao đổi thương mại với các nước và hạn chế tối đa những
phiền nhiễu, cũng như những rủi ro chính trị tại thị trường nước ngoài. Qua
nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rất nhiều nguyên nhân của quá trình chuyển hướng
chiến lược liên kết của Nhật Bản, nhưng có thể thấy áp lực cạnh tranh về mặt
kinh tế và chính trị với đối thủ Trung Quốc tại khu vực Đông Á được coi như là
lực đẩy chính.

272


Trong các Hiệp định Thương mại tự do hay Hiệp định Đối tác Kinh tế mà
Nhật Bản đã ký kết thể hiện rõ 3 đặc trưng cơ bản:
- Tính tồn diện, linh hoạt và có tính lựa chọn cao
Tính chất này được thể hiện rõ ràng trong Hiệp định Thương mại tự do đầu
tiên của Nhật Bản ký kết với Singapore (tháng 11/2002). Tên gọi chính thức là
Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện Nhật Bản - Singapore (JSEPA). Hiệp định
này không chỉ dừng lại tại các cam kết cắt giảm và xóa bỏ thuế quan như tính
chất cơ bản của hình thức Hiệp định Thương mại tự do (FTA) mà hơn thế, nó cịn
đi đến tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài, các vấn đề tạo thuận lợi hóa trong
thương mại đầu tư, các cam kết hỗ trợ kỹ thuật đối với đa dạng lĩnh vực như phát
triển nguồn nhân lực, hệ thống công nghệ thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ, phát triển du lịch. Điều này cho thấy, Nhật Bản coi trọng việc thực hiện các
liên kết mang tính tồn diện nhằm tác động rõ ràng đến các khía cạnh của hoạt
động kinh tế trong đó hàng hóa, nhân lực, vốn, thơng tin được tự do chuyển dịch.
Định hướng chiến lược chính của Nhật Bản là tăng cường lợi ích của các
doanh nghiệp trong hoạt động thương mại quốc tế và giảm thiểu những tác động
tiêu cực đến ngành nông nghiệp. Căn cứ vào định hướng trên, Nhật Bản có những
tiêu chí riêng trong việc lựa chọn đối tác chiến lược. Nhật Bản ưu tiên lựa chọn
các quốc gia có nhu cầu trao đổi thương mại lớn nhưng không phải là những nước

xuất khẩu chính các sản phẩm nơng nghiệp và các nước xuất khẩu dầu mỏ như
Saudi Arabia, Kuwait và Kazakhstant. Về mặt nội dung của các hiệp định liên kết
song phương, Nhật Bản tập trung vào 3 nội dung chính bao gồm: tự do hóa
thương mại, tăng cường và thúc đẩy hoạt động đầu tư quốc tế đồng thời bảo vệ
lợi ích nhà đầu tư, thiết lập hệ thống luật pháp.
- ASEAN là trọng tâm trong chiến lược liên kết khu vực Đông Á
Khởi nguồn từ Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1992, liên
kết và kết nối kinh tế ASEAN không ngừng mở rộng và tạo ra sức mạnh cộng
hưởng cho nền kinh tế khu vực năng động. ASEAN là một thị trường chung của
hơn 625 triệu dân với tổng GDP là 2.600 tỉ USD, tổng thương mại đã tăng từ mức
1.600 tỉ USD lên mức 2.500 tỉ USD (giai đoạn 2007 - 2013); đầu tư trực tiếp vào
ASEAN tăng từ 84 tỉ USD lên 122 tỉ USD (mức cao nhất so với toàn cầu trong
năm 2013). Tiếp đà phát triển này, ASEAN là nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới hiện
nay sẽ kỳ vọng trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới vào năm 2050. Chính từ
nội lực phát triển mạnh mẽ của ASEAN nên khu vực này trở thành sức hút lớn và
273


trọng tâm liên kết của các nước. Cả Nhật Bản và Trung Quốc đều xây dựng kịch
bản liên kết khu vực Đông Á khác nhau. Trong chiến lược liên kết của Trung
Quốc đã vượt trước Nhật Bản khi thực hiện ký kết hiệp định thương mại tự do với
ASEAN trong năm 2002. Một ngày sau khi Trung Quốc - ASEAN ký kết hiệp
định, Nhật Bản đã đề xuất đàm phán với ASEAN. Thực tế, tiến trình đàm phán
giữa Nhật Bản và ASEAN gặp khá nhiều khó khăn và kéo dài thời gian, nguyên
do chính là từ sự khác biệt trong điều kiện kinh tế và xã hội giữa các nước thành
viên của ASEAN. Vì vậy, Nhật Bản đã quyết định đàm phán và liên kết song
phương với từng nước thành viên của ASEAN như FTA Nhật Bản - Malaysia
(2004), Philippines (2006), Indonesia (2007), Thailand (2007), Brunei (2007),
Vietnam (2008). Cuối cùng, quá trình đàm phán với ASEAN cũng kết thúc và đi
đến ký kết FTA Nhật Bản - ASEAN (2008). Tuy nhiên, khơng dừng lại ở đó,

Nhật Bản có thể được hưởng lợi nhiều nhất với vai trò nhân tố chung trong kịch
bản hình thành liên kết khu vực Đơng Á như RCEP hay ASEAN + 6 (ASEAN,
Úc, Trung Quốc, Ấn độ, Nhật Bản, Niu-di-lân, Hàn Quốc), cũng như Hiệp định
Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Biểu đồ 1. Quy mô kinh tế của Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản và
nhóm nền kinh tế mới nổi châu Á (ASEAN, Trung Quốc, Ấn độ)

Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)

274


Trong đó: PRC - Cộng hịa nhân dân Trung Quốc, ASEAN - Hiệp hội các
nước Đông Nam Á. Số liệu trên được đo bằng GDP danh nghĩa
- Sử dụng FTA/EPA như một phương thức trợ giúp các nước đang phát triển
Các nước đang phát triển như Philippines, Việt Nam đã được hưởng lợi rất
lớn từ các hiệp định ký kết với Nhật Bản. Đối với Việt Nam, VJEPA là hiệp định
song phương đầu tiên Việt Nam ký kết kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Hiệp
định quy định đầy đủ các cam kết trên mọi lĩnh vực như thương mại hàng hóa
dịch vụ, di chuyển lao động, đầu tư, sở hữu trí tuệ, cải thiện mơi trường đầu tư,
thuận lợi hóa thương mại, tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp vệ sinh an toàn thực
phẩm, giải quyết tranh chấp và các nội dung hợp tác kinh tế khác. Đặc biệt, đây
cũng là lần đầu tiên Chính phủ Nhật Bản khẳng định sẽ hợp tác chặt chẽ với Việt
Nam để sớm cơng nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường đầy đủ, xác
lập quan hệ thương mại bình đẳng giữa hai nước. Song song với việc ký kết Hiệp
định VJEPA, hai bên đã ký kết Biên bản ghi nhớ về việc Nhật Bản hỗ trợ Việt
Nam phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất linh kiện của Nhật Bản đầu tư tại Việt
Nam, đồng thời mở rộng cơ hội liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam
và doanh nghiệp Nhật Bản trong lĩnh vực này. Hiệp định này sẽ có tác động về

kinh tế, xã hội và một số các tác động khác tới Việt Nam.
Bên cạnh xu hướng phát triển FTA+1, mục tiêu chung lớn nhất của Nhật
Bản cũng như Trung Quốc là hướng đến hội nhập Đơng Á, hình thành khu vực
thương mại tự do Đông Á, cụ thể bằng một số kịch bản như ASEAN + 3 và
ASEAN + 6 (RCEP). Đặc biệt, Trung Quốc sốt sắng với một loạt sáng kiến mang
tính đối trọng mà khơng có sự góp mặt của Hoa Kỳ như “Quan hệ đối tác kinh tế
toàn diện khu vực RCEP”, Ngân hàng đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB) và dự án
“Một vành đai, một con đường”. Tuy nhiên, bức tranh hội nhập của châu Á trở
nên sôi động hơn khi Hoa Kỳ đề xuất tham gia đàm phán mở rộng Hiệp định Hợp
tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương được ký kết giữa các nước P4
(Singapore, Chile, NewZealand, Brunei) vào ngày 3/6/2005 và kêu gọi nhiều
nước khác ngồi P4 cùng tham gia. Có thể nói Hoa Kỳ sử dụng Hiệp định Đối tác
Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) như một bước mở đường cho việc thiết
lập khu vực thương mại tự do châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP) nhằm tạo ảnh
hưởng đến các nền kinh tế đầy tiềm năng phát triển tại Châu Á. Với những kịch
bản liên kết của RCEP và TPP, vai trị của Nhật Bản trong tiến trình đàm phán
275


đều có ý nghĩa quan trọng và tạo đối trọng nhằm tái cân bằng quyền lực trên bản
đồ địa chính trị thế giới. Năm 2013, Nhật Bản chính thức tham gia vào TPP và
sự thành công trong việc đàm phán ký kết hiệp định thương mại tự do thế kỷ
XXI (TPP) vào tháng 10/2015 có vị trí như thế nào trong chiến lược hội nhập
của Nhật Bản?
Biểu đồ 2. Bức tranh tồn cảnh về các hình thức hội nhập khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương

2. TPP bước đi quan trọng trong chiến lược hội nhập của Nhật Bản
Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương mang tính
khác biệt về trình độ phát triển giữa các nền kinh tế (từ các nền kinh tế thu nhập

trung bình như Peru và Việt Nam đến các nền kinh tế có thu nhập cao như các
thành viên OECD (Hoa Kỳ, Úc). Khi Hoa Kỳ chính thức tham gia TPP, quy mô
kinh tế của 9 nước thành viên TPP tăng gấp 20 lần (từ 0,9% lên 27% GDP toàn
thế giới tính đến tháng 6/2010). Thị phần này sẽ là 39% khi 3 nền kinh tế lớn
(Nhật Bản, Canada, Mexico) gia nhập và tạo nên TPP với 12 thành viên và chiếm
25% tổng giao dịch thương mại toàn cầu. So sánh với quy mô của ASEAN +3
(23%), ASEAN +6 (27%) và Liên minh EU (26%), TPP trở thành liên khu vực
276


với quy mô kinh tế, trao đổi thương mại khổng lồ trên thị trường thế giới. Vì vậy,
sự tham gia của Nhật Bản vào quá trình đàm phán TPP gây được nhiều sự chú ý
nhất, đồng thời cũng tạo xoay chuyển lớn đến chiến lược hội nhập Đông Á.
Sự chần chừ của Nhật Bản trong việc tham gia đàm phán TPP
Ngun Thủ tướng Naoto Kan là người đóng vai trị tiên phong trong việc
thúc đẩy quá trình gia nhập TPP của Nhật Bản. Trong bài phát biểu của ông trong
Hội nghị APEC tại Yokohama đã đề cập “Nhằm xây dựng một môi trường tốt
hơn cho sự phát triển, thịnh vượng của các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, các hiệp định đối tác kinh tế và hiệp định thương mại tự do sẽ đóng
vai trị quan trọng. Nhưng, chúng ta cũng cần nghiên cứu việc tham gia những
đàm phán như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với mục đích
hình thành khu vực Thương mại tự do châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP)”
(Kan 2010). Trong tuyên bố chung “Tầm nhìn Yokohama - Mục tiêu Bogor và
tương lai” với vai trò Chủ tịch Hội nghị của Nhật Bản đã thống nhất “Khu vực
mậu dịch tự do châu Á - Thái Bình Dương hướng tới như một hiệp định thương
mại tự do toàn diện được xây dựng trên cơ sở các cơ chế hợp tác khu vực hiện có
như ASEAN +3, ASEAN +6, TPP”. Tuy nhiên, lời ngỏ của Nguyên Thủ tướng
Naoto Kan về việc Nhật Bản nghiên cứu tham gia đàm phán TPP đã không nhận
được sự đồng thuận của các đảng trong nước, và dẫn đến gia tăng những xung đột
trong xã hội. Rất nhiều chỉ trích hướng về ơng Kan và cho rằng những quyết sách

mang tính nhất thời của ơng sẽ gây hại đến nông nghiệp, lao động, môi trường,
dịch vụ cơng, và rất nhiều khía cạnh khác của đời sống người dân. Hơn nữa,
quyết định của ông Kan thực chất là bài tốn chính trị nhằm thắt chặt quan hệ Mỹ
Nhật và giải quyết các mâu thuẫn với Trung Quốc. Ngược lại, một số chuyên gia
thúc giục Chính phủ Nhật Bản nhanh chóng quyết định việc tham gia TPP như
một điều tiên quyết sau khi một loạt FTA của Hàn Quốc ký kết với các nền kinh
tế lớn như Liên minh châu Âu (EU) và Hoa Kỳ - những thị trường xuất khẩu hàng
đầu của Nhật Bản. Bên cạnh đó, thảm họa sóng thần Tsunami gần như nhấn chìm
nền kinh tế Nhật Bản, do đó việc gia nhập TPP sẽ giúp nước này đạt được mục
tiêu tái cấu trúc nền kinh tế trở nên năng động và tăng tính cạnh tranh.
Tiếp nối Cựu Thủ tướng Kan, người kế nhiệm Yoshihiko Noda đã công bố
rõ ràng về khả năng Nhật Bản tham gia vào bàn đàm phán TPP tại Hội nghị
thường niên APEC tại Honoluu (11/2011). Thủ tướng Noda cho rằng TPP là Hiệp
định thương mại tự do đa phương sẽ đem lại lợi ích lớn cho nền kinh tế Nhật Bản,
và ngành nơng nghiệp sẽ cần khoảng thời gian thích hợp để sẵn sàng ứng phó với
sự cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh lời tuyên bố này, Thủ tướng Noda cũng đưa ra
các hành động cụ thể như thay đổi về thể chế, cô lập các quan chức ra khỏi quá
277


trình xây dựng chính sách (vốn trước đây được liên kết chặt chẽ giữa các chính trị
gia và các quan chức chính phủ). Đồng thời, ơng lựa chọn Seiji Maehara - Chủ
tịch Hội đồng nghiên cứu chính sách và Yoshio Hachiro - Nguyên Bộ trưởng
Bộ Thương mại Công nghiệp (METI) để thiết lập nhóm dự án xúc tiến TPP và
tiến hành nghiên cứu dự báo để sử dụng như một vũ khí phản biện lại phe đối
lập trong Nội Các. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của Thủ tướng Noda là giải
quyết những mâu thuẫn chính trị sâu sắc giữa các đảng phái trong Nội Các về
vấn đề TPP.
Tháng 12/2012, Đảng Dân chủ tự do của ông Shinzo Abe đã chiến thắng
Đảng Dân chủ của ông Noda trong cuộc bầu cử và lên nắm chính quyền. Chính

sách Abenomics của Thủ tướng Abe hay được gọi là chiến lược “3 mũi tên” với 3
trọng tâm chính gồm: thúc đẩy chi tiêu công, nới lỏng tiền tệ và tăng trưởng kinh
tế sâu rộng. Chiến lược này nhằm khuyến khích cải cách cơng nghệ trong mọi
lĩnh vực và khuyến khích các hoạt động sáng tạo rộng khắp ở khu vực tư nhân.
Chính sách này được kỳ vọng đem đến sự tái sinh cho nền kinh tế Nhật Bản.
Trong đó, ơng cũng thận trọng trong việc đề cập đến TPP để tránh tạo ra sự chia
rẽ trong nội bộ như thất bại của người tiền nhiệm. Tháng 1/2013, ông phát biểu
trong một hội nghị quốc tế “Nhật Bản sẽ không tham gia vào TPP cho đến khi
những điều ước được xây dựng dựa trên cơ sở cắt giảm tất cả thuế quan mà
khơng có những ngoại lệ”. Điều này được hiểu Nhật Bản có thể tham gia đàm
phán để xây dựng luật chơi của TPP, trong đó một số sản phẩm nơng nghiệp nhạy
cảm vẫn tiếp tục được coi là những ngoại lệ (như gạo, đường). Khơng có gì đáng
ngạc nhiên khi số phiếu ủng hộ cho ông Abe trong vấn đề TPP dần tăng lên, đặc
biệt là các thành viên đến từ nhóm tư nhân, sau khi đã chứng kiến những kết quả
khả quan từ hai mũi tên chiến lược của ông Abe. Do đó, ơng đã tiến đến thực hiện
Chiến lược phát triển mới nhấn mạnh vào các nhóm biện pháp để hiện đại hóa
lĩnh vực nơng nghiệp như: xóa bỏ sự điều tiết của nhà nước, tập hợp đất canh tác
nông nghiệp, cho phép các tổ chức có tư cách pháp nhân được đầu tư và hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Cuối cùng, phe phản đối TPP đã
nhượng bộ bằng việc đề xuất lên danh mục 6 hàng hóa cần được bảo hộ. Trong
đó, nhóm các sản phẩm nơng nghiệp, được coi là “nhóm bất khả xâm phạm”
khơng được phép đưa mức thuế quan về 0%. Các nhóm khác thuộc về gạo, thị bò,
thịt lợn, sữa, lúa mỳ, đường. Cuối cùng, Nhật Bản chính thức tham gia vào đàm
phán TPP vào 7/2013. Có thể thấy, TPP chính là “mũi tên thứ ba” (tái cấu trúc)
của chiến lược Abenomics.

278


Các nguyên nhân trong quyết định tham gia TPP của Nhật Bản

Thứ nhất, các vấn đề trong quan hệ ngoại giao Nhật Bản - Hoa Kỳ. Trước
đó, mối bất hịa giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản đang có chiều hướng gia tăng khi cả
hai bên không đi đến thỏa thuận chung trong việc mở cửa thị trường nông sản khi
đàm phán FTA Nhật Bản - Hoa Kỳ (Urata 2011, 102). Nhật Bản mong muốn Hoa
Kỳ cắt giảm thuế quan đối với ô tô nhập khẩu (2,5%), xe tải nhập khẩu (25%)
trong khi Hoa Kỳ buộc Nhật Bản phải ngừng bảo hộ đối với ngành nông nghiệp,
cũng như bảo hiểm. Hơn nữa, chính quyền của Thủ tướng Yukio Hatoyama
(nhiệm kỳ 2009-2010) thể hiện quan điểm trọng tâm vào quan hệ Nhật Bản Trung Quốc và đặt nhiều kỳ vọng cho việc phát triển Cộng đồng Đông Á thông
qua ASEAN + 6, cũng như Khu vực mậu dịch tự do Hàn Quốc - Trung Quốc Nhật Bản mà gần như không đả động đến quan hệ Nhật - Mỹ vốn đang rạn nứt.
Vì vậy, việc lựa chọn tham gia TPP sẽ được hiểu như một nỗ lực hàn gắn quan hệ
Nhật - Mỹ và kìm hãm quyền lực của Trung Quốc tại châu Á.
Thứ hai, luật chơi của TPP đã được định sẵn bởi các quốc gia thuộc khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Hoa Kỳ, với mục đích hướng đến tự do
hóa thương mại cấp độ cao. Do vậy, quyết định thời điểm tham gia TPP sớm của
Nhật Bản sẽ rất quan trọng, trừ khi nước này muốn ở trong vị thế bị động chấp
nhận luật chơi.
Thứ ba, nguyên nhân thứ ba là áp lực lớn của Nhật Bản khi tụt lại sau Hàn
Quốc trong tiến trình ký kết FTA. Chính phủ Hàn Quốc đã chủ động đàm phán ký
kết FTA với Hoa Kỳ vào năm 2007, với EU vào năm 2010 và Trung Quốc - 3 thị
trường xuất khẩu chính của Nhật Bản.
Thứ tư, với xã hội có dân số già và tỉ lệ sinh rất thấp như Nhật Bản, nước
này không thể phụ thuộc vào cầu nội địa để tăng trưởng kinh tế mà xuất khẩu là
cách thức duy nhất thúc đẩy tăng trưởng. Tổng giá trị xuất khẩu của Nhật Bản là
60 tỷ Yên và 1/4 trong số đó là xuất khẩu vào 9 nước thành viên của TPP. Tương
tự, tổng vốn đầu tư FDI đổ vào Nhật Bản có 40% đến từ các đối tác nằm trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Do vậy, Nhật Bản muốn tận dụng TPP như
một cơ hội để khôi phục vị thế của nước xuất khẩu, tạo động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Thứ năm, các con số dự báo sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản nếu kịch
bản gia nhập TPP thành công là một trong những ngun nhân quan trọng. Theo

tính tốn của Văn phịng Chính phủ (Văn phịng Nội Các), GDP Nhật Bản kỳ
vọng sẽ tăng từ 0,48% lên 0,65%. Kenichi Kawasaki dự đoán nền kinh tế sẽ tăng
trưởng 0,8% (tương đương 4 nghìn tỷ Yên). Ngân hàng phát triển châu Á dự
kiến con số sẽ là 1%. Nghiên cứu gần đây nhất của Peter A.Petri và Michael G
279


Plummer (Petri 2012, Nikkei, 28/1/2013) cho rằng việc tham gia TPP của Nhật
Bản sẽ đẩy GDP nước này tăng thêm 2% trong giai đoạn 10 năm tới, và lượng
xuất khẩu tăng thêm 14%.
Thứ sáu, PP được coi như đòn bẩy trong việc tái cấu trúc, vực dậy nền kinh
tế và tăng tính cạnh tranh cho ngành nơng nghiệp của Nhật Bản như đã đề cập
trong Chiến lược của Thủ tướng Shinzo Abe.
Việc Nhật Bản tham gia vào Hiệp định Đối tác xun Thái Bình Dương
khơng chỉ nhằm vào mục tiêu đi đến hiệp định thương mại tự do với đối tác lớn
nhất thế giới - Hoa Kỳ, mà hơn nữa còn giúp nước này củng cố sâu sắc quan hệ
với các nước thành viên khác, trong đó có Việt Nam. Trong chính sách của Thủ
tướng Shinzo Abe, ơng đề cập đến ASEAN và Việt Nam là một trong những
điểm đến tin cậy và đối tác chiến lược của Nhật Bản trong q trình hội nhập
Đơng Á. Vậy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản sẽ thay đổi như thế nào
trong bối cảnh hình thành TPP?
3. Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong bối cảnh
hình thành TPP
Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế là một trong những chiến lược ưu tiên hàng đầu của Việt Nam, cùng với
cải cách thể chế, tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Quá trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam bắt đầu từ năm 1995, khi tham gia chính thức vào ASEAN
và tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTAs) giữa ASEAN với các đối
tác ngoài khối. Những cam kết trong các FTAs này dựa trên sự đồng thuận của tất
cả các thành viên ASEAN nên mức độ cam kết thường không cao. Đến giai đoạn

hiện nay, Việt Nam đã chủ động trong việc tham gia đàm phán ký kết các hiệp
định thương mại song phương có mức độ cam kết sâu, phạm vi rộng, nội dung
vượt ra ngồi cam kết thơng thường về thương mại, dịch vụ và đầu tư mà còn bao
gồm cả các vấn đề về thể chế, pháp lý, môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà
nước, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ. Đối tác đầu tiên Việt Nam lựa chọn là
Nhật Bản (Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản ký kết năm 2008).
VJEPA là hiệp định song phương đầu tiên Việt Nam ký kết kể từ khi Việt Nam
gia nhập WTO. Qua gần 7 năm hiệp định có hiệu lực, quan hệ Việt Nam và Nhật
Bản đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng, đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp
hai nước. Đặc điểm nổi bật trong cơ cấu kinh tế giữa hai nước là sự bổ sung lẫn
nhau và ít cạnh tranh đối đầu trực tiếp. Cán cân thương mại song phương tương
đối cân bằng.

280


Bên cạnh những tiền đề trong mối quan hệ song phương, đặt trong bối cảnh
chung của quá trình hình thành TPP - Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới của
các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Việt Nam và Nhật
Bản được đánh giá là hai điểm sáng, TPP sẽ đem đến rất nhiều những cơ hội và
thách thức cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản. Trước tiên, đánh
giá về tỉ trọng thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản so với các đối tác khác.
Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn 1990 - 2014
Trong những năm 1990, Nhật Bản và Hoa Kỳ là hai đối tác thương mại
quan trọng của Việt Nam, thị phần xuất khẩu của Việt Nam đến hai thị trường
này chiếm hơn 75% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Kể từ sau năm 2002,
sau khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) được ký
kết, thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản giảm xuống mức 20%,
tương ứng thị phần Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng và Hoa Kỳ trở thành thị trường
xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Ngay cả khi Hiệp định Đối tác Kinh tế VJEPA

được ký kết và bắt đầu có hiệu lực năm 2008, giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng
từ 8,4 tỷ USD năm 2008 lên 14,7 tỷ USD năm 2014, gần gấp 2 lần; nhưng tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu có dấu hiệu chậm lại (4,33% năm 2013; 7,87% năm 2014).
Tuy vậy, xét trong tổng thể chung, Nhật Bản vẫn giữ vị trí đối tác xuất khẩu lớn
thứ hai sau Hoa Kỳ. (Biểu đồ 3)
Biểu đồ 3. Thị phần xuất khẩu của Việt Nam theo các đối tác,
giai đoạn 1990-2014

Nguồn: The impacts of TPP and AEC on the Vietnamese Economy: Macroeconomic
Aspects and the case of livestock sector, VPER (8/2015)

281


Xét về hoạt động nhập khẩu, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Malaysia và Singapore là 4
đối tác nhập khẩu chính của Việt Nam. Trong đó giá trị nhập khẩu từ Nhật Bản
đạt mức cao nhất trong các nước TPP (chiếm 32-38,2% trong tổng kim ngạch
nhập khẩu từ các nước TPP từ năm 2008-2014). Kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam từ Nhật Bản tăng từ 2,3 tỷ USD lên 12,7 tỷ USD (gấp hơn 5 lần, với tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt 16,19%), đặc biệt là năm 2007 (đạt 31,6%) và năm
2008 (đạt 33,1%). Tuy nhiên, thị phần nhập khẩu từ các nước thành viên TPP so
với tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm dần qua các năm (từ
39,9% năm 2000, 30% năm 2009 và chỉ cịn 23% năm 2014). Ngun nhân
chính của xu hướng này là sự phụ thuộc lớn vào hàng hóa nhập khẩu từ Trung
Quốc. Năm 2014, giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc ước tính 43,9 tỷ USD, chiếm
29,6% tổng giá trị nhập khẩu, vượt qua tổng giá trị nhập khẩu của cả khu vực
TPP. (Biểu số 4)
Biểu số 4. Thị phần nhập khẩu của Việt Nam theo các đối tác,
giai đoạn 1990-2014


Nguồn: The impacts of TPP and AEC on the Vietnamese Economy: Macroeconomic
Aspects and the case of livestock sector, VPER (8/2015)

Tổng thể chung, hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản có
xu hướng gia tăng tích cực và chiếm tỉ trọng lớn trong khối các nước thành viên
của TPP. Kể từ năm 2008 đến nay, mức gia tăng của giá trị xuất khẩu nhanh hơn
nhập khẩu do vậy cán cân thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản luôn đạt ở
282


trạng thái thặng dư. Mức thặng dư có xu hướng tăng lên từ 691 triệu USD (2011)
tăng gấp đôi lên 2004 triệu USD (năm 2014). (Bảng 1)
Bảng 1. Tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với Nhật Bản qua các năm
Đơn vị: triệu USD
2001 2006

2007

2008

2009

2010

XK

2.509 5.240 6.090

8.467


6.335

7.727

11.091 13.064 13.630 14.704

NK

2.183 4.702 6.188

8.240

6.836

9.016

10.400 11.602 11.614 12.700

CĐTM 0.326 0.538 -0.098 0.227 -0.501 -1.289
Tỉ lệ NS

-

-

1.6%

-

7.9%


16.6%

2011

2012

2013

2014

0.691

1.462

2.016

2.004

-

-

-

-

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Cơ cấu hàng hóa của Nhật Bản và Việt Nam mang tính bổ sung, không cạnh

tranh. Nhật Bản là nước nhập siêu lớn về thủy sản, mặt hàng công nghiệp tiêu
dùng như dệt may, giày da, thực phẩm chế biến trong khi Việt Nam lại là nước có
lợi thế cạnh tranh tuyệt đối về các sản phẩm này. Ngược lại, Việt Nam nhập khẩu
từ Nhật Bản máy móc, thiết bị, cơng nghệ và nguyên liệu cho sản xuất. Trong
cam kết của VJEPA, các sản phẩm công nghiệp được cam kết giảm thuế từ 6,51%
năm 2008 xuống còn 0,4% năm 2019, dệt may xuất khẩu sang Nhật Bản hưởng
thuế 0% (giảm từ mức 7%) từ năm 2009. Sản phẩm da giày cũng hưởng thuế 0%
trong 5 - 10 năm. Lĩnh vực đem lại lợi ích xuất khẩu lớn nhất cho Việt Nam từ
việc thực hiện VJEPA là thủy sản. Nhật Bản sẽ giảm thuế suất đối với hàng thủy
sản của Việt Nam từ mức bình qn 5,4% năm 2008 xuống cịn 1,31% năm 2019.
Vì Nhật Bản là thị trường xuất khẩu thủy sản hàng đầu của Việt Nam nên cam kết
này thực sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất
khẩu. Với việc thực hiện VJEPA, Việt Nam chính thức tham gia chuỗi sản xuất,
cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN với Nhật Bản.
Cơ hội và thách thức đặt ra đối với quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản trong bối cảnh gia nhập TPP
Cơ hội
- Với cam kết xóa bỏ tồn bộ thuế nhập khẩu ngay khi TPP có hiệu lực trừ
nhóm các mặt hàng có lộ trình 3, 5, 10 năm, tất cả các nước thành viên đều kỳ
vọng vào việc thúc đẩy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu
283


hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đáp ứng đầy đủ điều kiện xuất xứ trong TPP để
hưởng mức ưu đãi 0%, tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam đến các nước thành
viên TPP sẽ tăng dự kiến 28,4% tương đương 67,9 tỷ USD, đặc biệt là nhóm mặt
hàng dệt may, da giầy tăng thêm 45,9% (theo nghiên cứu của Petri). Trong đó,
giá trị xuất khẩu của Việt Nam và hai thị trường lớn Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ càng
tăng mạnh trong các ngành như dệt may, da giầy, thủy hải sản.
- Nhật Bản có vai trị quan trọng trong việc đa dạng hóa cơ cấu hàng hóa

xuất khẩu của Việt Nam theo hướng chế tạo xuất khẩu, giảm xuất khẩu nguyên
liệu thô và tăng sản phẩm chế tạo có giá trị cao hơn. Tham gia TPP là cơ hội tốt
nhất để Việt Nam - Nhật Bản xây dựng chuỗi cung ứng đối với các sản phẩm
công nghệ cao, sản phẩm công nghiệp là thế mạnh của Nhật Bản, từ đó gia nhập
vào chuỗi cung ứng của khu vực và toàn thế giới. Cụ thể, Nhật Bản và Việt Nam
đã triển khai thực hiện chiến lược cơng nghiệp hóa nhằm tăng cường năng lực sản
xuất của 4 ngành công nghiệp chủ lực có giá trị gia tăng cao và năng lực cạnh
tranh quốc tế (máy nông nghiệp, công nghiệp môi trường và tiết kiệm năng
lượng, công nghiệp điện tử và công nghiệp chế biến nông thủy sản). Bên cạnh đó,
tạo động lực và sức ép cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sản xuất theo hướng
giảm thuế xuất khẩu nguyên liệu và sơ chế, đầu tư phát triển trên chuỗi giá trị và
chuỗi cung ứng, tăng sản phẩm chế biến có giá trị cao. Qua q trình hỗ trợ Việt
Nam đổi mới công nghệ, tăng trưởng năng suất, các doanh nghiệp FDI Nhật Bản
cũng được hưởng lợi trực tiếp bằng việc tăng tỉ lệ nội địa hóa nguyên liệu khi sản
xuất tại Việt Nam. Hiện nay, tỉ lệ nội địa hóa nguyên liệu linh kiện của Việt Nam
là 27,9%, thấp hơn nhiều so với bình quân chung của khu vực ASEAN là 47,8%.
- Với những cam kết mở cửa thị trường mạnh hơn, cao hơn so với những
cam kết hiện có trong khu vực, Hiệp định TPP buộc Nhật Bản phải chấp nhận
cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm nơng sản - một mặt hàng có lợi thế
xuất khẩu của Việt Nam. So với VJEPA, Nhật Bản đã đồng ý xóa bỏ thuế quan
đối với 78% kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam. Đây là cơ hội lớn cho các
doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam thúc đẩy và khai thác tối đa thị
trường Nhật Bản.
- Thương mại dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn hoạt động sản xuất nhờ vào cấu
trúc cam kết cởi mở với các nhóm ngành dịch vụ trong TPP, thậm chí cao hơn đối
với các cam kết về dịch vụ trong WTO. Cam kết trong TPP về dịch vụ và đầu tư
sẽ có tác dụng tích cực cải thiện mơi trường đầu tư của Việt Nam từ đó tạo cơ sở
284



thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài từ các nước thành viên TPP nói chung và
Nhật Bản nói riêng. Đặc biệt, nguồn vốn FDI sẽ gia tăng mạnh mẽ trong các lĩnh
vực như tài chính - ngân hàng, bất động sản. Ngược lại, Việt Nam cũng có điều
kiện vươn ra một số thị trường TPP trong lĩnh vực dịch vụ.
- Với quan hệ kinh tế chính trị chặt chẽ giữa Việt Nam - Nhật Bản, đồng
thời quan hệ FTA với Hoa Kỳ thông qua TPP và tiến đến FTA Việt Nam - Liên
minh châu Âu, Liên minh kinh tế Á Âu sẽ giúp Việt Nam có cơ hội cơ cấu lại thị
trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn. Từ đó, nâng cao tính độc lập tự
chủ cho nền kinh tế vốn đang phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc.
- Nhật Bản là nước đầu tiên công nhận Việt Nam có thể chế kinh tế thị
trường, bởi vậy, Việt Nam có thể tranh thủ uy tín và sự ảnh hưởng của Nhật Bản
trong TPP để vận động các nước thành viên (trước hết là Hoa Kỳ) trong việc công
nhận quy chế thị trường đầy đủ của Việt Nam.
- Chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản ngay trong các giai đoạn đều
nhấn mạnh vai trò của khu vực tư nhân là động lực chính trong q trình phát
triển kinh tế. Khi TPP chính thức đi vào thực hiện, các tiêu chuẩn cao về quản trị
minh bạch và thơng thống trong bộ máy Nhà nước sẽ giúp Việt Nam tiếp tục
hoàn thiện bộ máy pháp quyền theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, đẩy
mạnh cải cách hành chính, tăng cường trách nhiệm kỉ luật, kỷ cương và phịng
chống tham nhũng lãng phí.
Thách thức
- Bên cạnh những kỳ vọng thúc đẩy tăng trưởng giá trị xuất khẩu nông sản
vào thị trường Nhật Bản trong thời gian tới thì những yêu cầu khắt khe về an toàn
vệ sinh, kiểm dịch sản phẩm, chất lượng sản phẩm, cũng như các rào cản phi thuế
quan khác sẽ là những thách thức đặt ra cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu; tăng nhanh tỷ lệ nội địa
hóa nguyên phụ liệu của ngành và giảm thiểu phụ thuộc vào các nhà cung cấp
nước ngồi; tăng cường đầu tư phát triển cơng nghiệp hỗ trợ; đầu tư vào các vùng
trồng cây nguyên liệu; phát triển mối quan hệ hợp tác với các nhà sản xuất nước
ngồi có cơng nghệ tiên tiến; quan tâm đào tạo nguồn lực đáp ứng nhu cầu phát

triển thị trường; xây dựng chiến lược phát triển liên kết nội khối tạo chuỗi sản
xuất lớn để có khả năng nhận những đơn hàng lớn.
- Mặc dù mức độ cam kết giữa Việt Nam và Nhật Bản đã cải thiện và giảm
thêm 38% mức thuế quan nhưng gạo vẫn là một mặt hàng loại trừ khỏi bàn đàm
285


phán, bởi vậy, phần lớn gạo của Việt Nam được xuất khẩu đến các nước không
tham gia TPP như Indonesia, Philipines và Trung Quốc, so với mức xuất khẩu rất
khiêm tốn đến Mỹ và Nhật Bản. Tương tự ngành cao su và cà phê cũng là hai
ngành hàng xuất khẩu nơng nghiệp có ít tiềm năng phát triển thơng qua TPP.
- Khó khăn trong tiếp cận thị trường nước ngồi do cơng tác xúc tiến
thương mại của Việt Nam cịn yếu và mang tính bị động, chi phí tiếp cận thị
trường nước ngồi cao nên các doanh nghiệp khó tiếp cận được thị trường nước
ngồi. Q trình chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế về mặt thông tin,
hướng dẫn. Chất lượng, năng suất của doanh nghiệp Việt Nam cịn thấp, trong khi
đó 96% tổng số doanh nghiệp Việt Nam có quy mơ vừa và nhỏ, thiếu nhận thức
về quá trình hội nhập cũng như những cam kết cụ thể trong TPP, mơ hình quản trị
thiếu tương thích với mơ hình quản trị hiện đại của các nước phát triển. Vì vậy,
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó tiếp cận và tham gia vào chuỗi giá trị cung
ứng tồn cầu, thay vì đó những lợi ích này sẽ thuộc về nhóm các doanh nghiệp
FDI Nhật Bản (và các nước thành viên khác TPP).
- Mức độ cạnh tranh trở nên chồng chéo và gay gắt, cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp FDI từ Nhật Bản với các nước thành viên TPP, cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, với lợi thế từ mối
liên kết chặt chẽ được xây dựng trong nhiều năm giữa Việt Nam và Nhật Bản và
thế mạnh về vốn, cơng nghệ và chuỗi cung ứng trên phạm vi tồn cầu, các doanh
nghiệp FDI Nhật Bản với sự trợ giúp hiệu quả của JETRO thơng qua q trình
cập nhật thơng tin đã kịp thời mở rộng sản xuất trên địa bàn cả nước để đón đầu
sự kiện TPP hình thành. Ngược lại, doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn

trong việc chủ động tìm kiếm cơ hội, thường chủ yếu gia cơng cho các doanh
nghiệp FDI.
Qua q trình nghiên cứu và phân tích từ những chuyển đổi trong định
hướng chiến lược liên kết khu vực của Nhật Bản hướng đến Hiệp định Đối tác
xun Thái Bình Dương (TPP), trong đó Việt Nam là một nước có vai trị quan
trọng trong chiến lược tạo sự ảnh hưởng đến khu vực Đông Á của Nhật Bản. Dựa
trên tiền đề mối quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Nhật Bản, mối quan hệ
thương mại giữa hai nước đang chiếm tỷ trọng lớn thứ hai so với các nước thành
viên trong khối TPP. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi các cam kết của TPP,
Việt Nam - Nhật Bản khơng chỉ đón nhận những cơ hội mà hơn nữa là những
thách thức chung và riêng biệt ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hai nước.

286


Trong đó, các vấn đề đáng lưu tâm và cần được điều chỉnh để tối đa hóa lợi ích từ
quan hệ Việt Nam - Nhật Bản như xây dựng lộ trình, đề án nâng cao năng lực
cạnh tranh của các sản phẩm nông sản thông qua triển khai hiệu quả các chương
trình hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản trong phát triển nông nghiệp. Thứ hai, doanh
nghiệp Việt Nam cần chủ động nghiên cứu và có giải pháp ứng phó với các rào
cản phi thuế quan mà Nhật Bản cũng như các nước thành viên TPP sau khi TPP
đạt mục tiêu cắt giảm thuế quan hoàn toàn. Thứ ba, Việt Nam cần thích ứng
nhanh chóng để trở thành 1 mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị khu vực châu
Á - Thái Bình Dương. Cuối cùng, các vấn đề nội tại bên trong cũng cần nhanh
chóng được giải quyết như phát triển ngành công nghiệp phụ trợ hướng đến tăng
tỉ lệ nội địa hóa, xây dựng mơi trường đầu tư hấp dẫn với tính cạnh tranh bình
đẳng đối với doanh nghiệp trong nước và nước ngồi, cơng nghiệp hóa và thúc
đẩy đổi mới cơng nghệ đối với các nhóm ngành xuất khẩu chủ lực. Như vậy, mơ
hình quan hệ thương mại Việt - Nhật là một phần quan trọng trong chiến lược hội
nhập toàn diện giữa hai nước trong tiến trình hội nhập khu vực châu Á .


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản.
2. Báo cáo năng lực cạnh tranh doanh nghiệp xuất khẩu 3 nhóm ngành dệt
may, thủy sản, điện tử (2011), The Asian Foundation - CIEM.
3. Báo cáo tác động của cam kết mở cửa thị trường trong WTO và các hiệp
định khu vực thương mại tự do (FTA) đến hoạt động sản xuất, thương
mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều hành xuất
nhập khẩu của Bộ Công Thương giai đoạn 2011 - 2015 (2011),
MUTRAP.
4. Stiglitz, Joseph và Shahid Yusuf (2001), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đơng
Á, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ross P. Buckley, Richard Weixing Hu và Douglas W Arner, (2011)
“East Asian Economic Integration”, NXB Edward Elgar, USA.
6. Bài phát biểu của Thủ tướng Nhật Hashimoto tại Singapore ngày
14/1/1997.

287


7. “Japan's role in Southeast Asian Security” by Chaiwat Khamchoo,
Pacific Affairs, 9/1991.
8. Asian Developmet Bank (2005), Asian Economic Cooperation and
Integration: Progress, Prospects, and Challenges, Asian Development
Bank, Manila, the Philippines.
9. Amako, Satoshi, et al, editors (2013). Regional Integration in East Asia.
NewYork, United Nations University.
10. Petri, Peter A. and Michael G.Plummer (2012). The Transpacific
Partnership and Asia - Pacific Implications. Washington, DC, Peterson

Institute for International Economy.
11. VPER (8/2015).The impacts of TPP and AEC on the Vietnamese
Economy: Macroeconomic Aspects and the case of livestock sector.
Presented in Workshop Workshop: Analyzing the Impacts of
Transpacific Partnership (TPP) and ASEAN Economic Community
(AEC) on Vietnamese Economy - Impacts on Macro Economy and
Livestock Sector.

288



×