Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.99 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thời điểm hiện tại, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
là một hiệp định đặc biệt quan trọng thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận trong
nước và quốc tế. Đây là đàm phán thương mại tự do quan trọng nhất của Việt Nam
trong thời điểm hiện tại, với phạm vi đàm phán rộng, mức độ cam kết sâu và dự
kiến sẽ có tác động rất lớn đến triển vọng hoạt động kinh doanh của các ngành, các
doanh nghiệp cũng như đời sống xã hội ở Việt Nam nói chung. TPP hứa hẹn là một
hiệp định mang tính bước ngoặt, sẽ làm thay đổi cuộc chơi trong nền thương mại
Việt Nam và Quốc tế. Trong thời buổi kinh tế hội nhập, sự ra đời của TPP là tất
yếu, mang đến rất nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt, đảm bảo đem lại
lợi ích nhiều nhất cho tất cả các nước thành viên đang và sẽ tham gia hiệp định.
Đối tượng được nghiên cứu là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP:
những vấn đề cơ bản của Hiệp định-khái niệm, nội dung chính, tiến trình đàm
phán; triển vọng phát triển, thách thức đặt ra và giải pháp cho nền kinh tế Việt
Nam sau khi gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP. Phương
pháp nghiên cứu là phân tích, tổng hợp các vấn đề xung quanh Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương TPP và những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến nền kinh
tế thông qua các nội dung chính của văn kiện đã được kí kết và sử dụng các số liệu
cung cấp. Đây là một hiệp định chất lượng cao, tham vọng, toàn diện và cân bằng
sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; thúc đẩy việc đổi
mới, năng suất lao động và tính cạnh tranh; nâng cao mức sống, điều kiện sống;
giảm nghèo tại các nước; và nâng cao minh bạch hóa, quản trị tốt cũng như bảo hộ
lao động và bảo vệ môi trường. Việc kết thúc đàm phán hiệp định TPP với các tiêu
chuẩn mới và cao về thương mại và đầu tư tại khu vực châu Á Thái Bình Dương
được đánh giá là một bước quan trọng để tiến tới mục tiêu cao nhất về thương mại
tự do và hội nhập trên toàn khu vực. Với tiêu chuẩn cao, lĩnh vực điều chỉnh rộng
1|Page


và lộ trình thực thi ngắn, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP được
đánh giá là một Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới – FTA của thế kỷ


21. Với 12 nền kinh tế thành viên ven bờ Thái Bình Dương, TPP ra đời sẽ hình
thành một khu vực thị trường rộng lớn, với 800 triệu dân, chiếm hơn 30% kim
ngạch thương mại toàn cầu, gần 40% GDP thế giới. TPP có thể sẽ mang đến cho
nền kinh tế Việt Nam rất nhiều cơ hội phát triển mới, tuy nhiên, bên cạnh những
lợi thế, cũng sẽ có rất nhiều thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những bước đi
thận trọng và đúng hướng.

2|Page


MỤC LỤC
Chương I: Tổng quan về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP
1. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP là gì ?
2. Lịch sử hình thành
3. Tiến trình đàm phán
4. Những nét chính
Chương II: Nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương TPP
1. Cơ hội
1.1 Lợi ích thuế quan (đối với thương mại hàng hóa)
1.2 Lợi ích tiếp cận thị trường (đối với thương mại dịch vụ và đầu tư)
1.3 Tầm quan trọng không chỉ trong thương mại, mà còn cả về địa chính trị
2.Thách thức
2.1 Bất lợi từ việc giảm thuế quan đối với hàng hóa từ các nước đối tác TPP
2.2 Bất lợi từ việc mở cửa các thị trường dịch vụ
2.3 Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ

3|Page



2.4 Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh tranh…
và các ràng buộc mang tính thủ tục khi ban hành các quy định liên quan đến rào
cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ...
2.5 Bất lợi từ việc mở cửa thị trường mua sắm công
Chương III: Giải pháp chiến lược:
1. Định hướng giải pháp trọng tâm nhằm đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
2. Giải pháp cụ thể cho các doanh nghiệp Việt cần gấp rút chuẩn bị những gì để có
thể đứng vững trên thương trường
3. Giải pháp cụ thể cho ngành nông nghiệp Việt Nam

4|Page


NỘI DUNG
Chương I: Tổng quan về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP:
1. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP là gì ?
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific Partnership
Agreement - viết tắt TPP) là một thỏa thuận đa phương nhằm thúc đẩy tự do hóa
kinh tế, đầu tư và thương mại giữa các nền kinh tế hai bờ Thái Bình Dương và hỗ
trợ tiến trình tự do hóa rộng rãi hơn trong Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á – Thái
Bình Dương (APEC).
2. Lịch sử hình thành:
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4 tháng 2
năm 2016 tại Auckland, New Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập
các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Thỏa thuận ban đầu được
các nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore ký vào ngày 3 tháng 06, 2005
và có hiệu lực ngày 28 tháng 05, 2006. Sau đó, thêm 5 nước đàm phán để gia nhập,
đó là các nước Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam. Ngày 14 tháng 11

năm 2010, ngày cuối cùng của Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nhật Bản, lãnh đạo
của 9 nước (8 nước trên và Nhật Bản) đã tán thành lời đề nghị của tổng thống
Obama về việc thiết lập mục tiêu của các cuộc đàm phán thuộc Hội nghị thượng
đỉnh APEC năm 2011 diễn ra tại Hoa Kỳ.
Trước đây, TPP được biết đến với tên tiếng Anh là Pacific Three Closer Economic
Partnership (P3-CEP) và được tổng thống Chile Ricardo Lagos, thủ tướng
Singapore Goh Chok Tong và thủ tướng New Zealand Helen Clark đưa ra thảo
luận tại một cuộc họp các nhà lãnh đạo của APEC diễn ra tại Los Cabos, Mexico.
5|Page


Brunei nhanh chóng tham gia đàm phán ở vòng 5 vào tháng 04 năm 2005. Sau
vòng đàm phán này, hiệp định lấy tên là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược
Xuyên Thái Bình Dương (TPSEP hoặc P4).
3. Tiến trình đàm phán:

* Tháng 6-2005: Bru-nây, Xin-ga-po, Niu Di-lân và Chi-lê ký Hiệp định đối tác
kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (P4); là bốn thành viên sáng lập.
* Tháng 9-2008: Mỹ tham gia và quyết định mở rộng phạm vi đàm phán hiệp định
P4;
* Tháng 11-2008: Ô-xtrây-li-a, Pê-ru tham gia đàm phán, Việt Nam là thành viên
liên kết; P4 được đổi tên thành Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP);
* Tháng 3-2010 đến tháng 8-2013: 19 vòng đàm phán TPP giữa các nước thành
viên
* Tháng 10-2010: Ma-lai-xi-a tham gia TPP;
* Tháng 11-2010: Việt Nam chính thức tham gia TPP;
* Tháng 6-2012: Mê-hi-cô, Ca-na-đa tham gia TPP;
* Tháng 3-2013: Nhật Bản tham gia TPP;
* Tháng 10-2013: Cuộc gặp lãnh đạo các nước TPP, tại Ba-li (In-đô-nê-xi-a);
* Tháng 12-2013: Hội nghị Bộ trưởng TPP, tại Xin-ga-po;

* Tháng 2-2014: Hội nghị Bộ trưởng TPP, tại Xin-ga-po;
6|Page


* Tháng 5-2014: Hội nghị Bộ trưởng TPP, tại Xin-ga-po;
* Tháng 7-2014: Hội nghị Bộ trưởng TPP, tại Xít-ni (Ô-xtrây-li-a);
* Tháng 7-2015: Hội nghị Bộ trưởng TPP, tại Ha-oai (Mỹ);
* Tháng 10-2015: Hội nghị Bộ trưởng TPP, tại Át-lan-ta (Mỹ);
* Ngày 5-10-2015: Công bố kết thúc đàm phán TPP.
4. Những nét chính:

TPP gồm 30 chương điều chỉnh thương mại và các vấn đề liên quan thương mại:
các quy định và cam kết thương mại truyền thống và phi truyền thống, tại đó các
nội dung về thương mại truyền thống như mở cửa thị trường hàng hóa, xuất nhập
khẩu, thuế quan, phi thuế quan và các biện pháp tại biên giới vẫn tiếp tục duy trì và
thực hiện tự do hóa ở cấp độ sâu rộng hơn; Hiệp định sẽ điều chỉnh các nội dung
thương mại phi truyền thống, trực tiếp gắn với hoạt động kinh doanh đầu tư, cũng
như hình thành thị trường trao đổi các yếu tố của quá trình sản xuất như lao động,
đất đai, môi trường, vốn, khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ…Ngoài việc nâng cấp
cách tiếp cận truyền thống như trong các FTA trước đó, TPP còn đưa vào những
vấn đề thương mại mới nổi lên, vì thế TPP được đánh giá là một FTA mang tính
bước ngoặt của thế kỷ 21. Ngoài phần đầu về các điều khoản và định nghĩa chung
và phần cuối về các ngoại lệ, các chương quy định cụ thể trong các lĩnh vực thuộc
phạm vi điều chỉnh của hiệp định.
- Về thương mại hàng hóa: Xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi
thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp (được thực hiện ngay khi hiệp định có hiệu
lực); xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính sách mang tính hạn chế đối với
7|Page



hàng hóa nông nghiệp; xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp; nâng cao tính minh
bạch trong vận hành doanh nghiệp nhà nước xuất khẩu và trong các hoạt động công
nghệ sinh học nông nghiệp…;
- Về dệt may: Xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may (hầu hết thực hiện ngay lập
tức); quy định cụ thể về việc sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP, cũng như từ bên
ngoài theo cơ chế “nguồn cung thiếu hụt”;
- Về quy tắc xuất xứ: Thống nhất một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một
hàng hóa cụ thể được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP; bảo đảm doanh nghiệp
hoạt động dễ dàng xuyên khu vực thông qua một hệ thống chung về chứng minh và
kiểm tra xuất xứ hàng hóa TPP;
- Về quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại: Thúc đẩy tạo thuận lợi cho
thương mại; nâng cao tính minh bạch trong thủ tục hải quan, xử phạt; cung cấp
thông tin nhằm hỗ trợ thực thi Luật Hải quan;
- Về các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật (SPS); hàng rào kỹ thuật
thương mại (TBT); và phòng vệ thương mại: Bảo đảm các quy định về SPS, các
tiêu chuẩn kỹ thuật được đưa ra dựa trên căn cứ khoa học, mang tính minh bạch,
không phân biệt đối xử, không tạo ra các rào cản đối với thương mại;
- Về đầu tư: Các cam kết nghĩa vụ dựa trên cơ sở một “danh mục chọn - bỏ”, nghĩa
là thị trường các nước mở hoàn toàn đối với nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi có
ngoại lệ (biện pháp bảo lưu không tương thích) theo các phụ lục đính kèm;
- Về thương mại dịch vụ qua biên giới; dịch vụ tài chính: Không áp dụng hạn chế
định lượng đối với việc cung cấp dịch vụ; mở cửa thị trường đầu tư qua biên giới,
bảo đảm duy trì quyền quản lý đầy đủ đối với các tổ chức và thị trường tài chính,
8|Page


thực hiện các biện pháp khẩn cấp khi xảy ra khủng hoảng…;
- Về viễn thông; thương mại điện tử: Bảo đảm mạng viễn thông hiệu quả và đáng
tin cậy; ngăn chặn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp
dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ thuật số;

- Về mua sắm của Chính phủ: Mở cửa thị trường mua sắm chính phủ thông qua các
quy định công bằng, minh bạch, có thể dự đoán và không phân biệt đối xử;
- Về chính sách cạnh tranh: Bảo đảm khung khổ cạnh tranh bình đẳng thông qua
yêu cầu duy trì hệ thống luật pháp; cấm những hành vi kinh doanh phi cạnh tranh,
gian lận thương mại và lừa đảo, gây thiệt hại cho người tiêu dùng…; hợp tác thực
thi Luật Cạnh tranh thông qua thông báo, tham vấn hoặc trao đổi thông tin;
- Về doanh nghiệp nhà nước (SOE): Bảo đảm các SOE hoạt động thương mại trên
cơ sở tính toán thương mại, trừ nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công; các SOE hoặc đơn
vị độc quyền không có hoạt động phân biệt đối xử với các doanh nghiệp, hàng hóa,
dịch vụ của thành viên khác…;
- Về sở hữu trí tuệ: Quy định cụ thể về tiêu chuẩn, các cam kết liên quan bằng sáng
chế, nhãn hiệu, bản quyền, bí mật thương mại, các hình thức khác của quyền sở hữu
trí tuệ; quy định việc thực thi các quyền về sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực đồng ý
hợp tác;
- Về lao động; môi trường: Thừa nhận mối liên hệ giữa quyền của người lao động
với thương mai, duy trì trong luật và thông lệ các quyền cơ bản của người lao động,
xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối xử về việc làm
và nghề nghiệp. Cam kết mạnh mẽ bảo vệ và bảo tồn môi trường, hợp tác giải quyết
9|Page


các thách thức về môi trường…;
- Về doanh nghiệp vừa và nhỏ: Quy định thành lập Ủy ban Doanh nghiệp vừa và
nhỏ để rà soát mức độ hỗ trợ của TPP cho các doanh nghiệp; cân nhắc các cách
thức để nâng cao hơn nữa những lợi ích của Hiệp định và giám sát các hoạt động
hợp tác hoặc nâng cao năng lực; chia sẻ thông tin;
Hiệp định còn có các quy định cụ thể liên quan các vấn đề nhập cảnh tạm thời của
khách kinh doanh; hợp tác và nâng cao năng lực; gắn kết môi trường chính sách;
minh bạch hóa và chống tham nhũng; các điều khoản về hành chính và thể chế; giải
quyết tranh chấp…

Chương II: Nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương TPP:
1. Cơ hội:
Lợi ích ở thị trường các nước đối tác TPP mà Việt Nam có thể tận dụng từ TPP thể
hiện ở 2 hình thức chủ yếu:
1.1 Lợi ích thuế quan (đối với thương mại hàng hóa):
Lợi ích này được suy đoán là sẽ có được khi hàng hóa Việt Nam được tiếp cận các
thị trường này với mức thuế quan thấp hoặc bằng 0. Như vậy lợi ích này chỉ thực tế
nếu hàng hóa Việt Nam đang phải chịu mức thuế quan cao ở các thị trường này và
thuế quan là vấn đề duy nhất cản trở sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên
các thị trường này.
Là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, việc chúng ta có thể tiếp cận các thị
trường lớn như Hoa Kỳ với mức thuế suất bằng 0 hoặc thấp như vậy sẽ mang lại
10 | P a g e


một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và một triển vọng hết sức sáng sủa cho nhiều
ngành hàng của chúng ta, kéo theo đó là lợi ích cho một bộ phận lớn người lao
động hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ xuất khẩu. Lợi ích này không chỉ dừng
lại ở những nhóm mặt hàng mà Việt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu (ví dụ như
dệt may, giầy dép…), nó còn là động lực để nhiều nhóm mặt hàng khác hiện chưa
có kim ngạch đáng kể có điều kiện để gia tăng sức cạnh tranh. Nói một cách khác,
lợi thế này không chỉ nhìn từ góc độ hiện tại mà còn được nhìn thấy ở cả tiềm năng
trong tương lai.
Tuy nhiên, lợi ích này cần được đánh giá một cách chừng mực hơn, đặc biệt khi
quyết định đánh đổi quyền tiếp cận thị trường Việt Nam của hàng hóa nước ngoài
để có được những lợi ích này. Cụ thể:
+ Thực tế, cơ hội tăng mạnh xuất khẩu không phải cho tất cả khi mà ví dụ đối với
Hoa Kỳ, hàng thủy sản chưa chế biến hay đồ gỗ (hai lĩnh vực xuất khẩu chủ yếu
của Việt Nam sang thị trường này) thực tế đã đang được hưởng mức thuế suất gần

bằng 0, vì vậy có TPP hay không cũng không quan trọng. Cũng như vậy, dù rằng
tương lai không hẳn chắc chắn nhưng một số mặt hàng có thể được Hoa Kỳ xem
xét cho hưởng GSP “miễn phí” nếu chúng ta có nỗ lực vận động tốt mà không cần
TPP với những cái giá phải trả có thể lớn (bằng việc mở cửa thị trường nội địa
cũng như những ràng buộc khác). Đối với các ngành thuộc nhóm này, lợi ích thuế
quan là không đáng kể (hoặc không có). Tình trạng tương tự với một số thị trường
khác (ví dụ Úc, New Zealand, Peru hiện đã áp dụng mức thuế 0% cho các sản
phẩm thủy sản như cá, tôm, cua… của Việt Nam);
+ Đối với những mặt hàng khác, trong khi cơ hội tăng xuất khẩu với giá cạnh
tranh là có thật và rất lớn (ví dụ dệt may, da giầy), những rào cản dưới dạng quy
định kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ hay kiện phòng vệ thương mại với quy chế nền kinh
11 | P a g e


tế phi thị trường mà Hoa Kỳ thực hiện rất có thể sẽ vô hiệu hóa lợi ích từ việc giảm
thuế quan. Cũng như vậy những điều kiện ngặt nghèo về lao động, về xuất xứ
nguyên liệu cũng có thể khiến hàng hóa Việt Nam không tận dụng được lợi ích từ
việc giảm thuế trong TPP.
Nói một cách khác, những lợi ích về thuế quan trên thị trường nước đối tác TPP
(đặc biệt là Hoa Kỳ) chỉ thực sự đầy đủ khi xem xét tất cả các yếu tố. Và nếu bất
kỳ yếu tố nào trong số những rào cản đối với hàng xuất khẩu không được cải thiện
thì lợi ích thuế quan từ TPP sẽ bị giảm sút, thậm chí nếu những rào cản này bị lạm
dụng, lợi ích từ thuế quan có thể bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Phương án đàm phán về
thuế quan vì vậy cần phải lưu ý đến tất cả những yếu tố này.
1.2 Lợi ích tiếp cận thị trường (đối với thương mại dịch vụ và đầu tư):
Về lý thuyết Việt Nam sẽ được tiếp cận thị trường dịch vụ của các nước đối tác
thuận lợi hơn, với ít các rào cản và điều kiện hơn. Tuy vậy trên thực tế dịch vụ của
Việt Nam hầu như chưa có đầu tư đáng kể ở nước ngoài do năng lực cung cấp dịch
vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Trong tương lai, tình hình này có
thể thay đổi đôi chút (với những nỗ lực trong việc xuất khẩu phần mềm, đầu tư

viễn thông hay một số lĩnh vực dịch vụ khác) tuy nhiên khả năng này tương đối
nhỏ.
Ngoài ra, với hiện trạng mở cửa tương đối rộng về dịch vụ của các đối tác quan
trọng trong TPP như hiện nay, lợi ích này có thể không có ý nghĩa (bởi có hay
không có TPP thì thị trường dịch vụ của họ cũng đã mở sẵn rồi). Đây cũng chính là
lý do nhiều ý kiến cho rằng các nước phát triển sẽ được lợi về dịch vụ trong TPP
trong khi những nước như Việt Nam hầu như không hưởng lợi gì từ việc này.

12 | P a g e


Nhóm các lợi ích khai thác được tại thị trường nội địa. Trong thực thi các FTA, thị
trường nội địa thường được hiểu là nơi chịu thiệt hại. Tuy nhiên, đối với trường
hợp của Việt Nam, nhiều chuyên gia nhấn mạnh rằng chúng ta có thể “có lời” từ
TPP ngay cả ở thị trường nội địa, nơi vốn được xem là “chỉ chịu thiệt” từ các FTA
nói chung. Về kinh tế, theo tính toán của các chuyên gia độc lập, TPP có thể giúp
GDP của Việt Nam tăng 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm
2030, còn xuất khẩu có thể tăng 68 tỷ USD vào năm 2025 so với trường hợp không
có TPP.
“Khoản lời” này nằm ở những khía cạnh sau đây:
- Lợi ích từ việc giảm thuế hàng nhập khẩu từ các nước TPP: Người tiêu dùng và
các ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ các nước này làm nguyên
liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa, nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm chi phí
sinh hoạt và sản xuất, từ đó có thể giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của những
ngành này;
- Lợi ích từ những khoản đầu tư, dịch vụ đến từ Hoa Kỳ và các nước đối tác TPP:
Đó là một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, mang lại dịch vụ giá rẻ hơn chất
lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, những công nghệ và phương thức quản lý mới
cho đối tác Việt Nam và một sức ép để cải tổ và để tiến bộ hơn cho các đơn vị dịch
vụ nội địa. Những nội dung cam kết hội nhập trong cả WTO và TPP nói trên đã và

sẽ tiếp tục tạo điều kiện tự do hóa từng bước thị trường, thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam; đồng thời, tiếp tục bảo hộ các hoạt động cung cấp dịch
vụ liên quan đến khai thác mỏ của các doanh nghiệp trong nước và giúp cho các
doanh nghiệp trong nước tiếp cận với nguồn hàng hóa dịch vụ đa dạng từ nước
ngoài, học hỏi trình độ kỹ thuật cao của các nước có trình độ công nghệ, kỹ thuật
phát triển;
13 | P a g e


- Lợi ích đến từ những thay đổi thể chế hay cải cách để đáp ứng những đòi hỏi
chung của TPP: TPP dự kiến sẽ bao trùm cả những cam kết về những vấn đề xuyên
suốt như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật, tính cạnh tranh, vấn đề hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi cung ứng, hỗ trợ phát triển… Đây là những
lợi ích lâu dài và xuyên suốt các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt
có ý nghĩa đối với nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh nghiệp nhỏ
và vừa) và do đó là rất đáng kể;
- Lợi ích đến từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường: Mặc dù về cơ
bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây khó khăn cho Việt Nam (đặc biệt
là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và chi phí tuân thủ của doanh nghiệp)
nhưng xét một cách kỹ lưỡng một số tiêu chuẩn trong đó (ví dụ về môi trường) sẽ
là cơ hội tốt để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường (đặc biệt trong đầu
tư từ các nước đối tác TPP) và bảo vệ người lao động nội địa.

14 | P a g e


(Theo tính toán của các chuyên gia độc lập, TPP có thể giúp GDP của Việt Nam
tăng 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2030, còn xuất khẩu có
thể tăng 68 tỷ USD vào năm 2025 so với trường hợp không có TPP.)
1.3 Tầm quan trọng không chỉ trong thương mại, mà còn cả về địa chính trị:

Thường được coi là “xương sống kinh tế” trong kế hoạch chiến lược của Tổng
thống Mỹ Barack Obama tại châu Á, mục tiêu đối với Mỹ và Nhật Bản là phải
vượt mặt Trung Quốc, nước không thuộc TPP, và lập nên một vùng kinh tế ở Vành
đai Thái Bình Dương nhằm cân bằng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu
vực. Điều này cũng nhằm lập ra những nguyên tắc cho nền kinh tế thế giới trong
thế kỷ 21, quy định từ chuyển giao dữ liệu giữa các nước cho đến thủ tục để các
công ty do chính phủ quản lý được phép cạnh tranh trên trường quốc tế.
“Chúng ta có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng các hoạt động thương mại hiệu
quả”, ông Obama phát biểu trưởng Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. “Và đó là mục
tiêu chính của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, một thỏa thuận thương
mại trong một khối chiếm 40% nền kinh tế thế giới, một hiệp định sẽ mở ra những
thị trường mới, đồng thời bảo vệ quyền của người lao động và môi trường cạnh
tranh nhằm đảm bảo phát triển lâu dài”.
2.Thách thức:
Tuy nhiên, tham gia TPP, bên cạnh mặt thuận lợi và lợi ích mang lại, thì rủi ro và
thách thức luôn đi kèm và không nhỏ đối với Việt Nam, trong điều kiện là nước
thu nhập trung bình trình độ nền kinh tế phát triển ở mức thấp nhất trong 12 nước
thành viên TPP, hơn 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chất lượng nguồn nhân lực
thấp; thể chế kinh tế và thực thi pháp luật còn nhiều bất cập; năng lực cạnh tranh
15 | P a g e


của nền kinh tế, sản phẩm và doanh nghiệp còn yếu kém;
thực tiễn 10 năm hội nhập quốc tế gần đây chưa đạt được mục tiêu.
Có năm thách thức chính ở thị trường nội địa khi Việt Nam thực hiện TPP, cụ thể
là như sau:
2.1 Bất lợi từ việc giảm thuế quan đối với hàng hóa từ các nước đối tác TPP:
Việc phải cam kết giảm thuế đối với phần lớn các nhóm mặt hàng từ các nước đối
tác TPP dự kiến sẽ gây ra 02 bất lợi trực tiếp, bao gồm:
+ Việc giảm thu ngân sách từ thuế nhập khẩu sau khi thực hiện TPP là hệ quả chắc

chắn và trực tiếp. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng lượng thất thu từ thuế nhập
khẩu của Việt Nam từ các đối tác TPP không thật sự lớn so với hiện trạng (do phần
lớn các đối tác trong TPP đã có FTA với Việt Nam và do đó chúng ta đã và sẽ phải
cắt giảm thuế theo các FTA này mà không phải chờ đến TPP). Và do đó tác động
bất lợi này không phải là quá nghiêm trọng.
+ Giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt
Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn. Hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên
quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Đây là thực tế đã
từng xảy ra khi chúng ta thực hiện các FTA đã ký mà đặc biệt là ACFTA với
Trung Quốc. Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nông sản, vốn
gắn liền với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là nông dân và nông
thôn. Hàng nông sản của các nước có điều kiện thâm nhập vào Việt Nam, làm
cho nông sản trong nước bị cạnh tranh, ép giá, mất thị phần, làm giảm thu nhập của
nông dân và doanh nghiệp. Ngoại trừ mặt hàng hồ tiêu, hạt điều, các mặt hàng
khác như thịt gà, thịt lợn,.. khả năng cạnh tranh của ta còn thấp. Tuy vậy, các ý
kiến lạc quan lại cho rằng trong trường hợp cụ thể của TPP, cái “mất” này có thể
16 | P a g e


không phải là quá nghiêm trọng, ví dụ với đối tác Hoa Kỳ, hàng hóa của Hoa Kỳ
có phân khúc và khách hàng khác với hàng hóa tương tự của Việt Nam, vì vậy đối
với một số ngành, cạnh tranh đến từ hàng hóa Hoa Kỳ sẽ không quá nguy hiểm.
Theo cách hiểu này, thị phần nội địa có thể sẽ bị phân chia lại sau TPP, nhưng là
giữa các đối thủ Hoa Kỳ với những đối thủ nước ngoài khác trên thị trường Việt
Nam chứ không phải là với các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, cạnh tranh trong
thị trường hàng hóa nội địa cũng là sức ép tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tự
thích nghi, điều chỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
2.2 Bất lợi từ việc mở cửa các thị trường dịch vụ:
Dịch vụ là mảng hoạt động thương mại mà mức độ mở cửa thị trường của Việt
Nam là hạn chế và dè dặt nhất. So với cách thức đàm phán chọn-cho của WTO,

phương pháp chọn-bỏ dự kiến trong đàm phán TPP sẽ khiến cho bức tranh mở cửa
dịch vụ của Việt Nam đối với các đối tác TPP thay đổi mạnh mẽ. Đây cũng chính
là điểm được suy đoán là sẽ tạo ra bất lợi lớn cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham
gia TPP. Với TPP, sự tham gia mạnh mẽ và tự do hơn của các nhà cung cấp có
tiềm lực lớn, có kinh nghiệm lâu năm, có ưu thế về dịch vụ trên thế giới (đặc biệt
là các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ) có thể khiến cho các đơn vị cung cấp dịch vụ
của Việt Nam gặp khó khăn nghiêm trọng.
Ví dụ như với việc Việt Nam chính thức tham gia TPP, sẽ có nhiều tập đoàn, ngân
hàng lớn của 11 quốc gia trong khối TPP có dịch vụ tài chính ngân hàng phát triển
nhất thế giới như Mỹ, Nhật Bản... sẽ tham gia thị trường. Nếu không có chiến lược
kinh doanh hợp lý, các ngân hàng trong nước sẽ đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt,
không cân sức. Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, việc dần
xóa bỏ các điều kiện thị trường lại trở thành thách thức do hệ thống ngân hàng vẫn
còn nhiều hạn chế, tiếp cận dịch vụ ngân hàng tuy đã có những tiến bộ nhưng vẫn
17 | P a g e


ở mức thấp so với một số nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này làm tăng
cơ hội cho các ngân hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam. Khối ngân hàng
nước ngoài còn có khả năng thu hút khách hàng là các doanh nghiệp địa phương
dựa vào uy tín thương hiệu trên thị trường cũng như sức mạnh tài chính mà các
ngân hàng trong nước không dễ cạnh tranh được. Nhiều thành viên của TPP là
những nước có thị trường tài chính, ngân hàng rất phát triển (Mỹ, Ô-xtrây-li-a,
Xin-ga-po), hoặc đã mở cửa đáng kể cho sự tham gia của các nhà đầu tư nước
ngoài (Niu Di-lân), hoặc là lợi ích sẽ không bị tác động bởi việc mở cửa thị trường
dịch vụ tài chính ngân hàng (Bru-nây), sẽ là thách thức rất lớn đối với các ngân
hàng Việt Nam thời gian tới.
Tuy nhiên, kịch bản thực tế có thể không toàn bất lợi như vậy. Cụ thể cạnh tranh
có thể là động lực để các doanh nghiệp tự đổi mới và nâng cao năng lực để phát
triển tốt hơn. Cạnh tranh cũng giúp xóa những đơn vị sản xuất yếu kém, không

thích hợp với tình hình mới (đây cũng là điều nên xảy ra, dù rằng Việt Nam chưa
quen với tình trạng phá sản của các doanh nghiệp yếu kém). Ngoài ra, không thể
không nhắc tới những khả năng hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam và đối tác từ
TPP để cùng phát triển. Mở cửa thị trường cũng là cơ hội để thu hút đầu tư vào các
ngành dịch vụ, đặc biệt các ngành cần vốn và công nghệ quản lý cao. Đây có thể là
cơ sở để phát triển nhiều ngành dịch vụ ở Việt Nam trong tương lai.
2.3 Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ:
Hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) ở Việt Nam hiện nay còn khá yếu
kém, chưa xây dựng được các chế tài, đội ngũ giám định và cách xử lý, giải quyết
tranh chấp... Khi tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), nếu
doanh nghiệp chưa chuẩn bị sẵn sàng và có một hệ thống thực thi quyền SHTT đầy
18 | P a g e


đủ sẽ khiến doanh nghiệp Việt Nam chịu thiệt thòi. Hoa Kỳ là đối tác có tiếng là
cứng rắn trong những vấn đề liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cả trong
WTO lẫn trong các FTA của nước này. Đối với TPP, vấn đề này cũng đã được Hoa
Kỳ thể hiện tương đối rõ ràng (với mong muốn đạt được TRIPS + trong lĩnh vực
này).
Tuy nhiên, đây lại là vấn đề lớn đối với Việt Nam trong hoàn cảnh thực tế vi phạm
còn lớn và các thiết chế bảo hộ còn thiếu hiệu quả. Việc bảo hộ chặt chẽ các quyền
sở hữu trí tuệ cũng sẽ dẫn tới những khó khăn trước mắt cho nhiều doanh nghiệp
Việt Nam (khi phải bỏ vốn nhiều hơn cho những sản phẩm thuộc loại này) và
người tiêu dùng (khi phải trả giá đắt hơn cho dản phẩm).
Tuy nhiên, về vấn đề này, cũng cần nhận thức đầy đủ rằng tình trạng hiện tại cần
thay đổi dần dần để chấm dứt trong tương lai nếu Việt Nam muốn có một nền kinh
tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa (bởi bảo hộ tốt quyền sở hữu trí tuệ là động lực để
phát triển sáng tạo ở Việt Nam và thu hút đầu tư công nghệ cao làm cơ sở cho hiện
đại hóa). Do vậy thực hiện TRIPS và TRIPS + trong tương lai là có lợi cho Việt

Nam, và vì thế cần xem đây như là một cơ hội tốt để thúc đẩy công việc khó khăn
này ở Việt Nam.
2.4 Bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh tranh…
và các ràng buộc mang tính thủ tục khi ban hành các quy định liên quan đến rào
cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ...:
Các kết quả đàm phán FTA của Hoa Kỳ trong giai đoạn gần đây cho thấy nước này
nhấn mạnh việc tuân thủ các yêu cầu cao về môi trường (theo một danh mục tương
đối dài các công ước quốc tế về môi trường), lao động (tiêu chuẩn ILO) hay các
ràng buộc nhiều hơn về mặt thủ tục khi ban hành hay thực thi các quy định về cạnh
19 | P a g e


tranh, phòng vệ thương mại, TBT, SPS (theo hướng tăng cường thủ tục tham vấn
trao đổi trước khi ban hành quy định/biện pháp, quyền tiếp cận tư pháp để giải
quyết vướng mắc…)… Các đối tác phát triển như Úc, New Zealand khá quan tâm
đến các vấn đề này. Hiệp định P4 (tiền thân của TPP) cũng bao gồm các quy định
liên quan. Vì vậy khả năng TPP tương lai có thể bao trùm các lĩnh vực này là
tương đối lớn.
Một mặt, việc tổ chức thực hiện các yêu cầu này sẽ là một gánh nặng lớn đối với
Nhà nước (trong việc gia nhập các công ước liên quan, sửa đổi quy định pháp luật
nội địa, xây dựng các cơ chế, thủ tục ban hành thực thi mới…). Việc thực thi cũng
tao ra nhiều chi phí cho doanh nghiệp để thực thi (ví dụ như thay đổi công nghệ
nuôi trồng – sản xuất, thay đổi nguồn cung nguyên vật liệu, bổ sung cơ chế kiểm
soát…). Ngoài ra, có những vấn đề thuộc về thể chế không dễ thay đổi (như quyền
lập hội, quyền đàm phán tập thể…).
Mặt khác, thực hiện các cam kết dạng này sẽ là cơ hội tốt để chúng ta cải thiện hệ
thống pháp luật, đặc biệt là từ góc độ phát triển bền vững (môi trường), vì quyền
con người (lao động), minh bạch hóa và cải cách hành chính (các vấn đề còn lại).
Từ góc độ này, những lợi ích mà việc thực hiện những cam kết này mang lại có thể
là rất lớn và có giá trị lâu dài (vượt xa những chi phí bỏ ra để tổ chức thực hiện các

yêu cầu này).
Vì vậy không phải tất cả các vấn đề này đều sẽ là khó khăn cho phía Việt Nam.
Với việc tính đến những lợi ích mà các cam kết này có thể mang lại cho chúng ta,
cần cân nhắc phương án đàm phán thích hợp sao cho đối tác có thể chấp nhận
những “mức độ cam kết” mà Việt Nam có thể chịu đựng được. Theo nhiều chuyên
gia thì để có được kết quả đàm phán có lợi về những vấn đề này cần lưu ý:
20 | P a g e


+ Thứ nhất, Việt Nam cần thuyết phục được các đối tác rằng chúng ta đã có rất
nhiều tiến bộ trong các lĩnh vực về môi trường và lao động. Và vì vậy việc chưa
thể đạt được các yêu cầu/tiêu chuẩn cao về môi trường không phải do Việt Nam
không mong muốn như vậy mà là do khả năng hiện tại chưa thể đáp ứng. Với
những thuyết phục như vậy, việc yêu cầu tiêu chuẩn thấp hơn hoặc lộ trình áp dụng
dài hơn và/hoặc những hỗ trợ kỹ thuật để triển khai là khả thi hơn nhiều.
+ Thứ hai, Việt Nam cần chủ động chấp nhận trước những yêu cầu về môi trường
và lao động mà Việt Nam hiện có thể đáp ứng được (không giữ quan điểm bảo thủ
trong toàn bộ vấn đề). Ví dụ, theo nhiều doanh nghiệp, hiện nay họ đã đang đáp
ứng nhiều tiêu chuẩn về lao động liên quan đến loại bỏ lao động cưỡng bức, cấm
lao động trẻ em, cấm phân biệt đối xử trong tuyển dụng và sử dụng lao động, đảm
bảo quyền tiếp cận công lý trong thực thi pháp luật lao động…. theo yêu cầu của
khách hàng, và vì vậy việc các tiêu chuẩn này được áp dụng chung cũng sẽ không
gây ra khó khăn hay bất cập lớn cho những doanh nghiệp này và cả những doanh
nghiệp khác (nếu họ làm được thì suy đoán là các doanh nghiệp khác cũng có thể
cố gắng để thực hiện được).
2.5 Bất lợi từ việc mở cửa thị trường mua sắm công:
Mua sắm công là một vấn đề phức tạp và hiện vẫn đang là lĩnh vực tương đối đóng
đối với tự do thương mại. Trong WTO, Hiệp định về mua sắm công có sự tham gia
của một số lượng rất hạn chế các nước và mặc dù bị Hoa Kỳ kêu gọi hoặc thúc ép,
nhiều nước vẫn giữ quan điểm thận trọng đối với lĩnh vực này . Trong TPP, có

nhiều ý kiến cho rằng Hoa Kỳ sẽ lại đưa ra yêu cầu này cho các đối tác tham gia
đàm phán (ví dụ bằng việc yêu cầu các đối tác TPP tham gia Hiệp định về mua
sắm công của WTO hoặc đưa các quy định của Hiệp định này vào TPP).
21 | P a g e


Đối với Việt Nam, việc mở cửa thị trường mua sắm công theo cách này có được
suy đoán là sẽ gây ra những tác động bất lợi (với những lo ngại tương tự như lo
ngại của nhiều nước về sự “tấn công” của các nhà cung cấp nước ngoài khiến
doanh nghiệp nội địa không cạnh tranh nổi trong các vụ đấu thầu lớn) trong khi
khả năng Việt Nam tiếp cận được với thị trường mua sắm công của các đối tác TPP
là hầu như không có (do hạn chế về năng lực cạnh tranh).
Tuy nhiên, cũng cần có nhìn nhận tích cực hơn về vấn đề này. Cụ thể, việc mở cửa
thị trường mua sắm công có thể mang lại những lợi ích nhất định trong hoàn cảnh
riêng của Việt Nam:
+ Có thể là cơ hội để minh bạch hóa thị trường này (hiện nay mặc dù đã có Luật
đấu thầu cùng các văn bản liên quan nhưng mua sắm công vẫn là lĩnh vực còn rất
nhiều bất cập phát sinh từ việc thiếu minh bạch trong các quy trình liên quan – vì
vậy các yêu cầu minh bạch hóa về mua sắm công có thể giúp giải quyết một phần
những bất cập này).
+ Có thể là biện pháp tốt để cải thiện các điều kiện mua sắm công từ đó có thể lựa
chọn được các nhà cung cấp (dịch vụ, hàng hóa) tốt hơn (điều này có thể có lợi
trong hoàn cảnh hầu hết các công trình lớn của Việt Nam hiện nay được thực hiện
bởi nhà thầu Trung Quốc với chất lượng hạn chế). Vì vậy có lẽ đối với vấn đề này,
Việt Nam cũng nên có quan điểm tích cực trong việc chấp nhận mở cửa thị trường
mua sắm công ở mức độ thích hợp và với lộ trình thích hợp (sưu tầm và biên soạn).
Chương III: Giải pháp chiến lược:
Để đón bắt cơ hội và vượt qua thách thức khi thực hiện hiệp định TPP, đề nghị
phải tập trung đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia như sau. Tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, nâng

22 | P a g e


cao năng lực cạnh tranh quốc gia theo thông lệ quốc tế, dưới góc độ tiếp cận phát
triển doanh nghiệp nhằm phát huy vai trò kiến tạo của Nhà nước trong phát triển và
tăng trưởng kinh tế; Tập trung cải thiện toàn diện các yếu tố căn bản tác động tới
môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
cơ chế thực thi hệ thống pháp luật tạo điều kiện cho kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia; Tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước theo
hướng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các loại hình doanh nghiệp.
1. Định hướng giải pháp trọng tâm nhằm đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia:
1.1. Tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Nghị quyết 19 của Chính phủ, xây
dựng Đề án tổng thể cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia theo thông lệ quốc tế:
- Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu và các giải pháp đã đề ra trong Nghị
quyết 19 của Chính phủ đã được ban hành ở tất cả các bộ, ngành, địa phương trong
cả nước.
- Xây dựng Đề án tổng thể về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia theo thông lệ quốc tế, sử dụng các chỉ số đánh giá môi trường
kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia để đối chiếu so sánh với các quốc gia
trong khu vực và đối tác kinh tế thương mại của Việt Nam.
1.2. Giải quyết đồng bộ các vấn đề liên quan đến ban hành các quy định pháp luật
về kinh doanh và cạnh tranh:
- Rà soát, bổ sung và điều chỉnh nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp từ gia nhập thị trường, hoạt động trên thị trường đến
23 | P a g e


rút khỏi thị trường gắn với yêu cầu thực tiễn và tuân thủ các cam kết hội nhập quốc

tế.
- Nâng cao chất lượng ban hành chính sách, pháp luật: Tăng cường công tác phối
hợp giữa các Bộ, ngành liên quan và với các cơ quan của Quốc hội trong quá trình
soạn thảo, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh để bảo đảm chất lượng của dự án, dự thảo
văn bản, khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản; Nghiên cứu, xây dựng và ban hành
văn bản quy định về cơ chế phối hợp, giải quyết tranh chấp thương mại để đảm bảo
các cơ quan nhà nước sẵn sàng, chủ động, linh hoạt xử lý một cách có hiệu quả khi
có tranh chấp thương mại phát sinh trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự
do đã ký kết; Đề cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
trong công tác xây dựng, ban hành văn bản; Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ
máy, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp chế ở Bộ, ngành và địa
phương.
1.3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả năng lực thực thi và cơ chế kiểm tra, giám sát, xử
lý vi phạm trong thực thi pháp luật về kinh doanh:
- Ban hành Luật thủ tục hành chính hoặc Luật Hành chính công và các chính sách
nhằm hoàn thiện và nâng cao năng lực thực thi các cơ quan quản lý Nhà nước theo
hướng phát triển và nâng cao tinh thần phục vụ doanh nghiệp.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát xử lý vi phạm trong thực thi pháp
luật về kinh doanh.
+ Tiếp tục hoàn thiện bộ máy các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát, xử lý vi
phạm trong thực thi trên tất cả các lĩnh vực về kinh doanh.
24 | P a g e


+ Xây dựng cơ chế nhằm khuyến khích nhân dân tham gia giám sát và tăng cường
vai trò tích cực của phản biện xã hội gắn với phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
các cấp trong quá trình xây dựng các chủ trương, chính sách, các văn bản quy
phạm pháp luật về kinh doanh.
+ Mở rộng thu thập ý kiến đánh giá độc lập từ doanh nghiệp và người dân đối với

quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 19 thông qua tăng cường tổ chức các buổi
đối thoại trực tiếp ở cấp cơ sở; duy trì, mở rộng phạm vi khảo sát và hoàn thiện các
bộ chỉ số điều tra cấp tỉnh theo hướng nghiên cứu tích hợp một số chỉ tiêu thành
phần của Chỉ số Thuận lợi Kinh doanh (EDB) và Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn
cầu (GCI) vào Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và Chỉ số Hiệu quả quản
trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), Chỉ số MEI.
1.4. Nâng cao năng suất lao động quốc gia, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo
quốc gia, nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực, thúc đẩy liên kết tích cực trong
nền kinh tế, nâng cao năng lực sẵn sàng hội nhập của nền kinh tế:
- Tập trung nâng cao năng suất lao động quốc gia: xây dựng và thực hiện Đề án
nâng cao năng suất lao động quốc gia, hướng tập trung vào thực hiện cải thiện y tế,
giáo dục tiểu học và giáo dục sau tiểu học theo tinh thần của Nghị quyết 29/NQTW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ngày 4/11/2013.
- Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia: Tăng cường vai trò của Nhà nước
trong giải quyết các bất cập liên quan đến cơ chế, chính sách và tổ chức triển khai
thực hiện đảm bảo tiến độ thiết lập cơ sở pháp lý cho lĩnh vực khoa học - công
nghệ và đổi mới sáng tạo và một số thể chế mới tham gia quản lý và tài trợ cho
R&D; Tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, đặt doanh
nghiệp vào trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo: Phát triển hệ thống doanh
25 | P a g e


×