Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tham gia TPP - cơ hội và thách thức đối với ngành Dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.72 KB, 12 trang )

THAM GIA TPP - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
TS. Trần Thị Minh Hương
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Tóm tắt
Tham gia Hiệp định TPP sẽ có ảnh hưởng lớn đến ngành dệt may Việt Nam.
Bài viết đề cập đến tình hình sản xuất và xuất khẩu cùng các đặc điểm của dệt
may Việt Nam trong thời gian qua, phân tích cơ hội và thách thức khi tham gia
TPP đồng thời đưa ra một số khuyến nghị với Nhà Nước, doanh nghiệp dệt may
và người lao động nhằm khai thác được các cơ hội và vượt qua những thách thức
to lớn này, trên cơ sở đó góp phần phát triển ngành và tăng kim ngạch xuất khẩu
dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: TPP, cơ hội, thách thức, dệt may Việt Nam

1. Giới thiệu
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership
Agreement - TPP) giữa 12 nước bao gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Hoa
Kỳ, Maylaysia, Mexico, Nhật Bản, NewZealand, Peru, Singapore và Việt Nam
dự định sẽ được ký kết chính thức vào năm 2016 sau khi đã được Quốc hội các
nước thành viên tham gia thông qua. Với kết quả đạt được qua các vịng đàm
phán, hiệp định TPP có tầm ảnh hưởng sâu rộng, được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế tại tất cả các nước tham gia trên cơ sở hỗ trợ thương mại, thu hút
đầu tư và đẩy mạnh cải cách kinh tế ở các nước. Trong thời gian tới, khi TPP
được ký kết chính thức và có hiệu lực chắc chắn sẽ tạo ra những cơ hội và thách
thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam trong đó có ngành dệt may, một ngành
được coi là chịu ảnh hưởng mạnh từ TPP.
2. Các nội dung của TPP có ảnh hưởng đến ngành dệt may Việt Nam
Theo hiệp định TPP, bên cạnh việc áp dụng các quy định chung như với các
loại hàng hóa khác (được đề cập đến trong các chương Thương mại Hàng hóa,
Quy tắc Xuất Xứ, Phòng vệ Thương mại, Hợp tác Hải quan) dệt may có những



613


quy định riêng mang tính đặc thù được quy định trong một chương riêng cho
ngành này. Quy định riêng cho dệt may bao gồm ba nội dung cơ bản:
- Xóa bỏ thuế quan theo lộ trình
- Quy tắc xuất xứ
- Phịng vệ thương mại và hợp tác hải quan
Về xóa bỏ thuế quan, dệt may được coi là ngành được hưởng lợi nhiều do
hiện tại thuế suất vào thị trường các nước tham gia TPP mà Việt Nam chưa ký
hiệp định thương mại tự do (FTA) đang ở mức khá cao như Hoa kỳ là 17,5%,
Canada 17%, Mexico 30% và Peru 17%. Khi TPP chính thức có hiệu lực, thuế
suất sẽ được giảm mạnh. Với thị trường Hoa Kỳ, ngay khi Hiệp định có hiệu lực
73,1% số dịng thuế sẽ có thuế suất 0%; 19,7% số dịng thuế sẽ được giảm thuế từ
35% đến 50% tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ hồn tồn vào năm
thứ 11 và 13; 7,2% số dòng thuế sẽ được đưa về 0% vào năm thứ 6. Với thị
trường Canada, các mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ có thuế
suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm. Tuy nhiên, thuế nhập
khẩu vào Mexico và Peru chỉ được xóa bỏ hồn tồn vào năm thứ 16.
Về quy tắc xuất xứ, theo quy định chung, hàng hóa xuất khẩu muốn được
hưởng thuế suất ưu đãi phải đáp ứng quy tắc xuất xứ của Hiệp định này. Đối với
dệt may, quy tắc xuất xứ chủ đạo là “từ sợi trở đi” nghĩa là toàn bộ quá trình kéo
sợi, dệt vải, nhuộm và may quần áo phải được thực hiện trong phạm vi các nước
tham gia TPP. Quy định này khuyến khích ngành cơng nghiệp dệt may phát triển
hơn, đầu tư phát triển ngành sợi, vải, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham
gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng trong khối các nước TPP.
Nội dung phòng vệ thương mại trong Hiệp định TPP cho phép nước nhập
khẩu tăng thuế trở lại nếu nhập khẩu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại
nghiêm trọng đến ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp

tự vệ, nước nhập khẩu phải có giải pháp đền bù thiệt hại về kinh tế mà nước xuất
khẩu phải gánh chịu do không được hưởng thuế ưu đãi. Bên cạnh đó, hiệp định
TPP quy định về hợp tác trong lĩnh vực hải quan, chống gian lận xuất xứ để
hưởng lợi bất hợp pháp thuế ưu đãi. Doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu dệt may
sang Hoa Kỳ và Mexico cần đăng ký các thông tin cơ bản về doanh nghiệp, mặt
hàng sản xuất, xuất khẩu để chia sẻ thông tin với các cơ quan chức năng các nước
này phục vụ cơng tác quản lý, phịng chống gian lận thương mại.

614


3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
3.1. Hình thức sản xuất và xuất khẩu
Sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may thường có bốn hình thức cơ bản, bao
gồm: (i) gia cơng (ii) sản xuất theo thiết kế có sẵn và mua nguyên phụ liệu theo
chỉ định của khách hàng (iii) sản xuất theo thiết kế có sẵn và được tồn quyền
mua ngun phụ liệu (iv) sản xuất trọn gói từ thiết kế đến thành phẩm. Trong thời
gian qua, phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang thực hiện các hợp
đồng xuất khẩu theo loại hình gia cơng. Theo báo cáo thường niên doanh nghiệp
Việt Nam 2014 của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), hàng
dệt may Việt Nam xuất khẩu theo hình thức gia cơng chiếm tỷ lệ 75,3% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Điều này bắt nguồn từ một số nguyên nhân. Thứ
nhất, khả năng thiết kế sản phẩm thời trang của Việt Nam còn thấp. Thứ hai, Việt
Nam thiếu nguồn nguyên liệu trong nước, các doanh nghiệp may khó tìm được
ngun liệu do bên mua quy định. Thứ ba, khả năng tìm kiếm nguồn nguyên liệu
phù hợp của các doanh nghiệp may còn yếu, khả năng này bao gồm kỹ năng
thương thuyết và kiến thức đối với tất cả các loại vải và sợi, đặc điểm của chúng
và cách sử dụng. Thứ tư, việc tồn quyền lựa chọn nguồn ngun liệu địi hỏi
doanh nghiệp phải có đủ năng lực tài chính và đối mặt với rủi ro trong trường hợp
nguồn nguyên liệu được mua không phù hợp dẫn đến vỡ hợp đồng.

3.2. Thị trường xuất khẩu
Theo số liệu trong báo cáo “Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của
Việt Nam” từ Tổng cục Hải quan được thể hiện trong bảng 1, xuất khẩu dệt may
Việt Nam liên tục tăng trưởng từ 2007 đến nay (trừ năm 2009).
Bảng 1. Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
(Đơn vị tính: tỷ USD)
Năm

Tỷ lệ % tăng so với
năm trước

Giá trị xuất khẩu

2007

7,8

32%

2008

9,1

17%

2009

9,1

0%


2010

11,2

23%

615


Năm

Tỷ lệ % tăng so với
năm trước

Giá trị xuất khẩu

2011

14

25%

2012

15,1

8%

2013


17,9

19%

2014

21 tỷ

17%

(Nguồn: Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan)

Tuy nhiên, trong tổng giá trị xuất khẩu, giá trị xuất khẩu của khối doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (doanh nghiệp FDI) ln cao hơn giá
trị xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Thực tế này được thể hiện trong số
liệu ở bảng 2.
Bảng 2. Giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước
Giá trị xuất khẩu
Doanh nghiệp trong nước
Năm

Giá trị
xuất khẩu
(tỷ USD)

Tỷ lệ % trên
tổng giá trị
xuất khẩu


Doanh nghiệp FDI
Giá trị
xuất khẩu
(tỷ USD)

Tỷ lệ % trên
tổng giá trị
xuất khẩu

2007

3,6

46%

4,2

54%

2008

3,9

42,9%

5,3

57,1%

2009


3,7

40,7%

5,4

59,3%

2010

4,4

39,3%

6,8

60,7%

2011

5,5

39,3%

8,5

60,7%

2012


6,1

40,4%

9

59,6%

2013

7,3

40,8%

10,7

59,2%

(Nguồn: Bùi Văn Tốt (2014), Báo cáo ngành dệt may)

Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam bao gồm Hoa Kỳ, EU, Nhật
Bản và Hàn Quốc, trong đó Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất. Thực trạng này được
thể hiện qua số liệu trong bảng 3. Sản phẩm xuất khẩu của dệt may Việt Nam chủ

616


yếu là các mặt hàng dệt may cơ bản, chất lượng và tính thời trang khơng cao bao
gồm: áo jacket, áo thun, quần áo sơ mi.

Bảng 3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu của dệt may Việt Nam
TT

Thị trường

Ước 9 tháng 2015
(triệu USD)

Tỷ lệ (%)

1

Mỹ

8.530

42,58

2

Châu Âu

2.675

13,35

3

Nhật Bản


2.103

10,50

4

Hàn Quốc

1.717

8,57

5

Khác

5.008

25%

Tổng

20.033

100%

(Nguồn: Tập đoàn dệt may Việt Nam (2015), Báo cáo sơ kết hoạt động SXKD 9 tháng năm 2015)

3.3. Đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Thứ nhất là mối liên kết trong nội bộ ngành từ sợi-dệt nhuộm-may còn yếu.

Chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm 5 công đoạn cơ bản: cung cấp sản phẩm
thô là các loại sợi, sản xuất các sản phẩm đầu vào gồm có chỉ sợi và vải, may
hoàn thiện, xuất khẩu, marketing và phân phối. Trong chuỗi giá trị này, dệt may
Việt Nam chủ yếu hoạt động ở công đoạn may là công đoạn được đánh giá có giá
trị gia tăng thấp nhất. Sự thiếu đồng bộ và thiếu liên kết từ sợi-dệt nhuộm-may đã
làm hạn chế sự phát triển của dệt may Việt Nam. Trên thực tế, trong khi sợi và
may đã có những bước phát triển nhất định thì dệt nhuộm lại chưa đáp ứng kịp.
Điều này được thể hiện qua việc tồn tại một nghịch lý trong ngành là sợi Việt
Nam xuất khẩu với tỷ lệ cao trong khi đó may mặc lại thiếu vải nghiêm trọng và
chủ yếu phải nhập khẩu. Theo báo Thừa Thiên Huế đã trích dẫn số liệu thống kê
của Hiệp hội Bông sợi Việt Nam (VCOSA), sản lượng sợi 2014 là trên 900.000
tấn, trong đó khoảng 300.000 tấn sợi được sử dụng cho thị trường nội địa, số còn
lại được xuất khẩu. Theo Thời báo Kinh tế Sài gịn Online, ơng Nguyễn Văn
Tuấn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bông sợi Việt Nam phát biểu tại buổi họp báo
chiều 7-9-2015 tại thành phố Hồ Chí Minh về triển lãm thiết bị máy móc ngành
dệt may, năm 2014 nhu cầu vải cho may mặc Việt Nam là 8,2 tỷ mét vng vải
thì chỉ có 1,7 tỷ mét vng được sản xuất trong nước (chiếm tỷ lệ 20,73%). Hiện
tại Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của sợi Việt Nam cũng đồng thời
617


là thị trường cung cấp nguyên phụ liệu lớn nhất cho may mặc Việt Nam. Theo số
liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong báo cáo “Tình hình xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 10 và 10 tháng năm 2015”, trong 10 tháng
đầu năm 2015, nhóm hàng xơ sợi các loại xuất khẩu sang Trung Quốc đạt hơn
412 nghìn tấn trên tổng số xuất khẩu của mặt hàng này là hơn 796 nghìn tấn,
chiếm tỷ lệ 51,76%.
Thứ hai là năng suất lao động thấp. Theo bài viết “TPP và bài toán năng
suất lao động của doanh nghiệp dệt may” của Cục Kinh tế Bộ Quốc phòng trích
dẫn số liệu thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), so sánh với các nước

trong khu vực Việt Nam có năng suất lao động bình qn hiện tại rất thấp, chỉ
bằng 30% của Malaysia, 40% của Thái Lan. Theo báo cáo của VCCI, trong
ngành dệt may Việt Nam, năng suất lao động bình qn tính trên giá gia công đạt
1,5 USD/giờ mới chỉ bằng 50% năng suất bình quân ngành may Thái Lan và
Indonesia.
Thứ ba là trình độ cơng nghệ khơng cao, máy móc thiết bị phần lớn đã cũ và
lạc hậu cần tiến hành thay thế. Theo báo Đầu tư Online trong bài “75% máy móc
thiết bị tại Việt Nam là hàng quá đát” trích dẫn kết quả thống kê của Bộ Khoa học
và Công nghệ, hiện nay cả nước có gần 600.000 doanh nghiệp phần lớn đều đang
sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ, trong
đó có 76% số máy móc và dây chuyền nhập thuộc thế hệ những năm 60-70 của
thế kỷ 20, 75% số máy móc thiết bị đã hết khấu hao. Ngành dệt may cũng nằm
trong tình trạng chung đó. Theo ơng Trịnh Đình Đề - ngun Phó Chủ tịch Hiệp
hội Tự động hóa Việt Nam- phát biểu tại hội thảo “Cơ hội hợp tác đầu tư thiết bị
máy móc cơng nghiệp và chính sách xuất nhập khẩu tại Việt Nam” thì thiết bị,
cơng nghệ đóng vai trị quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp tăng năng suất,
giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường. Tuy nhiên,
theo ơng hiện nay cịn rất nhiều doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, làm
tiêu tốn nhiên liệu sản xuất. Nhu cầu đổi mới, thay thế và bổ sung thêm máy móc
thiết bị của ngành dệt may hiện tại là rất lớn. Bên cạnh vấn đề cần thay thế máy
móc thiết bị cũ thì để tăng năng lực sản xuất của ngành cần đầu tư thêm rất nhiều
vào lĩnh vực này. Theo ơng Nguyễn Văn Tuấn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bông sợi
Việt Nam, chúng ta đang thiếu 6,5 tỷ mét vuông vải/năm. Để sản xuất ra lượng
vải này cần đầu tư thêm khoảng 6,5 tỷ USD, trong đó đầu tư vào máy móc thiết bị
chiếm 60% tức là khoảng 3,9 tỷ USD.

618


Thứ tư là lao động ngành dệt may có trình độ không cao và mức lương khá

thấp. Theo tham luận thực trạng và dự báo nguồn nhân lực của ngành dệt may
khu vực phía Nam của ơng Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm dự báo nhu
cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh, lao động
ngành dệt may có trình độ văn hóa chủ yếu là đã tốt nghiệp bậc phổ thơng tiểu
học, trung học cơ sở. Theo khảo sát của Trung tâm này, trong tổng nhu cầu tuyển
dụng của doanh nghiệp dệt may tại thành phố Hồ Chí Minh 2014, nhu cầu đối với
lao động chưa qua đào tạo là 55,9%, công nhân kỹ thuật chiếm 30,9%, trung cấp
4,1%, cao đẳng 5,1%, đại học trở lên 4%. Với trình độ và năng suất lao động thấp
nên mức lương trung bình của lao động ngành dệt may cũng khá thấp. Theo bản
tham luận trích dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê 2014, mức lương bình quân
của người lao động khu vực phía Nam là 4.504.000 đồng cịn lương bình qn
của lao động ngành dệt may khu vực này là 3.988.000 đồng.
Thứ năm là nguyên phụ liệu dệt may phần lớn phải nhập khẩu. Do sản xuất
nguyên phụ liệu trong nước, đặc biệt là khâu dệt nhuộm sản xuất vải chưa đáp
ứng được yêu cầu của khâu may mặc nên phần lớn nguyên phụ liệu phải nhập
khẩu. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong báo cáo “Tình hình
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 10 và 10 tháng năm 2015”,
tổng giá trị nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu trong 10 tháng đầu năm 2015 đạt
15,29 tỷ USD chiếm tỷ lệ 80,68% so với giá trị xuất khẩu của hàng dệt may trong
giai đoạn này 18,95 tỷ USD. Hiện tại, Trung Quốc là thị trường cung cấp nguyên
phụ liệu lớn nhất cho dệt may Việt Nam, tiếp theo là Hàn Quốc, Đài Loan. Theo
số liệu báo cáo nêu trên của Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng đầu năm 2015,
nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 6,3 tỷ USD trên tổng giá
trị nhập khẩu nhóm hàng này là 15,29 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 41,2%, giá trị nhập
khẩu từ Hàn Quốc đạt 2,32 tỷ USD chiếm 15,17%, từ Đài Loan đạt 1,98 tỷ USD
chiếm 12,94%.
4. Các cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi
tham gia TPP
4.1. Cơ hội đối với ngành dệt may Việt Nam
Thứ nhất, cơ hội có được từ việc cắt giảm thuế nhập khẩu vào các nước

tham gia TPP. Cơ hội này sẽ chỉ là thực tế nếu mặt hàng dệt may Việt Nam đang
phải chịu mức thuế nhập khẩu cao. Do đó, cơ hội này chủ yếu là đối với thị
trường các nước hiện tại Việt Nam chưa ký FTA, trong đó đặc biệt là Hoa Kỳ do

619


đây là thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam và hiện nay đang chịu
thuế suất khá cao trung bình 17,5%. Đối với thị trường các nước mà Việt Nam đã
ký FTA như Nhật Bản, Chile thì cơ hội tạo ra từ TPP sẽ nhỏ hơn do sự khác biệt
sẽ không quá lớn, chủ yếu là từ quy tắc xuất xứ, chẳng hạn đối với FTA ký với
Nhật Bản yêu cầu hàng dệt may được sản xuất từ nguyên phụ liệu nội địa Việt
Nam, các nước ASEAN hoặc Nhật Bản, trong khi đó quy tắc xuất xứ của TPP lại
yêu cầu hàng dệt may có nguồn gốc xuất xứ “từ sợi trở đi” trong nội bộ các nước
tham gia TPP.
Thứ hai, đây là cơ hội để ngành dệt may phát triển các thị trường mới.
Trong thời gian qua, Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất của dệt may Việt Nam, bên
cạnh đó là EU, Nhật Bản, Hàn Quốc. Tham gia TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội để
phát triển xuất khẩu sang ba thị trường lớn là Canada, Peru và Mexico mà hiện tại
Việt Nam chưa có hiệp định thương mại tự do. Trong bối cảnh nhiều nhà nhập
khẩu của EU đang có xu hướng dịch chuyển đơn hàng sang các quốc gia khác
như Ấn độ, Bangladesh… bên cạnh đó, tại các thị trường lớn như Hàn Quốc, dệt
may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp các nước khác như
Campuchia, Myanmar, Bangladesh… thì việc phát triển thị trường mới là một cơ
hội tốt cho dệt may Việt Nam.
Thứ ba, tham gia TPP là cơ hội để dệt may Việt Nam phát triển toàn diện
hơn, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của ngành (bao gồm 5 công đoạn cơ bản:
cung cấp sản phẩm thô là các loại sợi, sản xuất các sản phẩm đầu vào gồm có chỉ
sợi và vải, may hồn thiện, xuất khẩu, marketing và phân phối). Theo quy định
của TPP, để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi, các doanh nghiệp dệt may phải

đáp ứng được quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”. Đây vừa là sức ép cũng vừa là động
lực khuyến khích ngành dệt may phát triển khâu sợi, dệt nhuộm đặc biệt là dệt
nhuộm vốn là một khâu yếu của ngành trong thời gian qua.
Thứ tư, tham gia TPP tạo cơ hội thu hút đầu tư để phát triển ngành theo cả
chiều rộng lẫn chiều sâu, mở rộng đầu tư ra mọi khâu trong ngành và đầu tư vào
máy móc thiết bị cơng nghệ cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp trong ngành không quan tâm nhiều
đến đầu tư vào lĩnh vực dệt nhuộm do lĩnh vực này địi hỏi vốn lớn và chi phí xử
lý chất thải cao. Trên thực tế, nắm bắt cơ hội từ TPP, đầu tư vào sợi và dệt nhuộm
đã được chú trọng hơn trước. Hiện có ba đối tượng chính đầu tư vào lĩnh vực này,
bao gồm: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (FDI); doanh nghiệp trong
nước liên doanh với nước ngồi; doanh nghiệp trong nước có tập đoàn Dệt may

620


Việt Nam (Vinatex) và các công ty con của Vinatex. Nhóm doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi bao gồm các doanh nghiệp đến từ Hồng Kông, Đài Loan,
Trung Quốc trong đó có những doanh nghiệp đầu tư khép kín từ dệt vải đến may
mặc như Công ty Gain Lucky Limited (thuộc tập đồn may Trung Quốc
Shenzhou International) hay Cơng ty Forever Glorious (thuộc tập đồn Sheico
của Đài Loan). Nhóm công ty liên doanh cũng bao gồm các liên doanh giữa
doanh nghiệp Việt Nam với các công ty của Đài Loan, Trung Quốc. Với doanh
nghiệp Việt Nam, từ 2014, Vinatex đã bắt đầu đầu tư 51 dự án, trong đó có 14 dự
án sợi và 15 dự án dệt. Tổng mức đầu tư cho 15 dự án dệt nhuộm hơn 2.500 tỉ
đồng. Ông Lê Tiến Trường, Tổng giám đốc Vinatex, cho biết sau khi các dự án
hoàn thành, toàn bộ lượng vải sản xuất ra khoảng 300 triệu mét/năm, tuy nhiên
sản lượng này mới chỉ đáp ứng 50-60% nhu cầu của các doanh nghiệp may thuộc
tập đoàn. Điều này cho thấy, cung ứng sợi và vải vẫn cần tập trung đầu tư hơn nữa.
4.2. Thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam

Thứ nhất là thách thức về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, đây cũng là thách
thức lớn nhất đối với dệt may Việt Nam trong bối cảnh hiện tại dệt may Việt Nam
vẫn phụ thuộc quá lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Bên cạnh đó, với các
doanh nghiệp may mặc xuất khẩu, chất lượng vải nội cũng chưa đáp ứng được
yêu cầu. Trước thực tế này thì đáp ứng được quy tắc xuất xứ là một thách thức rất
lớn. Mặt khác, các doanh nghiệp trong nước còn chịu sức ép cạnh tranh của các
doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan đang gia tăng đầu tư tại Việt Nam để đón
đầu hưởng lợi từ TPP. So với các doanh nghiệp dệt may trong nước đa phần là
doanh nghiệp vừa và nhỏ các doanh nghiệp FDI với vốn lớn, cơng nghệ cao có lợi
thế hơn nhiều có thể dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp trong nước sẽ thua ngay trên
sân nhà và phải nhường lại phần lợi lớn cho các doanh nghiệp FDI.
Thứ hai là các quy định về môi trường và lao động. Trong ngành dệt may,
khâu dệt nhuộm sử dụng nhiều hóa chất có khả năng ảnh hưởng xấu đến môi
trường nếu không được xử lý tốt. Bên cạnh đó, các quy định về lao động được
xem xét chặt chẽ như mức lương tối thiểu, điều kiện làm việc cũng là những vấn
đề các doanh nghiệp cần chú trọng. Đáp ứng được các điều kiện này sẽ làm chi
phí tăng cao. Đây cũng là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp, buộc các
doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí thơng qua cải tiến quản lý, tăng năng
suất lao động.
Thứ ba là quy định về rào cản kỹ thuật thương mại. Khi hàng rào thuế quan
được dỡ bỏ, các nước nhập khẩu sẽ có xu hướng sử dụng hàng rào phi thuế quan
621


để bảo hộ sản xuất trong nước, trong đó rào cản kỹ thuật thương mại đóng vai trị
rất quan trọng. Vượt qua rào cản kỹ thuật thương mại, đáp ứng được các quy
chuẩn kỹ thuật cũng là một thách thức lớn với dệt may Việt Nam trong bối cảnh
trình độ cơng nghệ khơng cao, máy móc thiết bị phần lớn đã cũ và lạc hậu.
5. Kết luận và khuyến nghị
Tham gia TPP dệt may Việt Nam đón nhận nhiều cơ hội đồng thời cũng đối

mặt với nhiều thách thức to lớn. Để tận dụng được cơ hội và vượt qua những
thách thức này, Nhà Nước, doanh nghiệp dệt may và người lao động cần nỗ lực
đổi mới theo các hướng sau:
5.1. Đối với Nhà Nước
Thứ nhất là xây dựng chiến lược phát triển ngành dệt may. Tham gia TPP là
cơ hội tốt để dệt may Việt Nam cơ cấu lại, phát triển các công đoạn khác trong
chuỗi giá trị ngành như cơng đoạn cung cấp sợi, vải. Bên cạnh đó, tận dụng lợi
thế cạnh tranh có được nhờ ưu đãi về thuế, dệt may Việt Nam khơng nên dừng ở
hình thức gia công mà cần nỗ lực chuyển sang các hình thức sản xuất và xuất
khẩu khác, tham gia nhiều hơn vào công đoạn marketing và phân phối sẽ tạo ra
giá trị gia tăng nhiều hơn.
Thứ hai là có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho ngành dệt may phát triển,
cụ thể như sau: (i) Có chính sách phát triển vùng nguyên liệu, đặc biệt là nguyên
liệu bông tạo điều kiện chủ động cho nguyên liệu trong nước (ii) Có chính sách
ưu đãi nhằm thu hút đầu tư vào phát triển công nghiệp phụ trợ, sợi, dệt nhuộm
(ưu đãi về quỹ đất, giá thuê đất, vốn tín dụng ưu đãi lãi suất thấp). Đối với đầu tư
nước ngoài, Nhà Nước cần xem xét chính sách vừa thu hút vừa lựa chọn, cẩn
trọng về mặt công nghệ đảm bảo kỹ thuật, mơi trường.(iii) Có chính sách hỗ trợ
đào tạo lao động cho ngành: lao động ngành dệt may cần có trình độ cao hơn tạo
điều kiện tăng năng suất lao động và từ đó tăng được tiền lương. Bên cạnh đó,
ngành dệt may cũng cần tăng cường lao động ở khâu thiết kế với trình độ cao, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực chuyển sang hình thức sản xuất và xuất
khẩu trọn gói từ thiết kế đến thành phẩm.
Thứ ba là hỗ trợ phát triển hệ thống thông tin đến doanh nghiệp qua các
kênh khác nhau, giúp cho doanh nghiệp nắm bắt kịp thời các thông tin cần thiết,
các quy định, chính sách có liên quan khi tham gia TPP. Trên cơ sở đó, giúp cho
doanh nghiệp có chiến lược, hoạch định kinh doanh phù hợp cũng như giúp giảm
thiểu các chi phí và thời gian cho việc thực hiện các thủ tục cần thiết khi TPP có
622



hiệu lực. Trong vấn đề này, các Hiệp hội của ngành dệt may đóng vai trị quan
trọng, giúp cho các doanh nghiệp nắm bắt thơng tin kịp thời, chính xác.
5.2. Đối với doanh nghiệp
Thứ nhất cần nâng cao tính chủ động, kịp thời nắm bắt các thông tin của thị
trường, nắm vững các quy định, các điều kiện thực hiện khi tham gia TPP, trên cơ
sở đó xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp. Các doanh nghiệp dệt may xuất
khẩu cần cải thiện mạng lưới phân phối và marketing, tham gia sâu hơn vào khâu
bán hàng và phân phối trong chuỗi giá trị ngành.
Thứ hai là cần vươn lên làm chủ thiết kế thời trang từ đó có cơ sở để xây
dựng thương hiệu cho hàng Việt Nam, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả
năng chuyển sang hình thức sản xuất và xuất khẩu trọn gói.
Thứ ba là cần tăng cường đầu tư nâng cao trình độ cơng nghệ, tăng năng
suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường.
Thứ tư cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, đảm bảo lao động có tay nghề
tốt đáp ứng được yêu cầu về chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động.
Trên cơ sở đó có điều kiện để tăng lương và giữ được người lao động làm việc
trong ngành vốn được coi là có mức lương thấp, không hấp dẫn đối với họ.
Thứ năm là tăng cường mối liên kết trong ngành từ các khâu sợi-dệt nhuộmmay trên cơ sở khâu dệt nhuộm được đầu tư phát triển hơn, đáp ứng tốt hơn với
sự phát triển của sợi và may. Các doanh nghiệp trong ngành cần nâng cao mối
liên kết, sử dụng sản phẩm của nhau tạo thành chuỗi cung ứng hoàn thiện hơn.
5.3. Đối với người lao động
Trước những cơ hội và thách thức khi tham gia TPP, bản thân người lao
động cũng cần nỗ lực học hỏi nâng cao trình độ để đáp ứng được với những điều
kiện mới, sử dụng được những máy móc thiết bị với công nghệ cao hơn, tăng
năng suất lao động. Lao động trong khâu thiết kế cần nâng cao tính sáng tạo,
vươn lên làm chủ lĩnh vực này, tạo ra những mẫu sản phẩm đa dạng, hấp dẫn, góp
phần nâng cao vị trí hàng Việt Nam trên thị trường. Lao động trong khâu bán
hàng và marketing cần chủ động, tích cực phát triển khâu này để dệt may Việt

Nam tham gia sâu hơn vào công đoạn bán hàng và phân phối là cơng đoạn có giá
trị gia tăng cao hơn. Lao động quản lý cần linh hoạt, nhạy bén với tình hình mới,
nắm bắt kịp thời xu hướng trên thị trường, nắm vững các quy định, thủ tục khi
tham gia TPP, cải tiến quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần giảm chi
phí và giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam.
623


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Đầu tư Online (2015), 75% máy móc thiết bị tại Việt Nam là hàng
“quá đát”, truy cập lần cuối ngày 20/12/2015 từ baodautu.vn/75-maymoc-thiet-bi-tai-viet-nam-la-hang-qua-dat-d34582.html.
2. Báo Thừa Thiên Huế (2015), Ngành dệt may Việt Nam với bài tốn khó
về xuất xứ ngun liệu, truy cập lần cuối ngày 17/12/2015 từ
baothuathienhue.vn/DichVu/ThongTin/CapNhat/prints.aspx?NewsID=20-62704.
3. Bùi Văn Tốt (2014), Báo cáo ngành dệt may, truy cập lần cuối ngày
16/12/2015 từ images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DulieuDownload/
PhanTichBaoCao/DetMay_180414_FPTS.pdf.
4. Cục Kinh tế Bộ Quốc phịng (2015), TPP và bài tốn năng suất lao động
của doanh nghiệp dệt may, truy cập lần cuối ngày 20/12/2015 từ
www.ckt.gov.vn/index.php?route=cms/article&artide_ide2546.
5. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership
Agreement - TPP).
6. Phịng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2015), Báo cáo thường
niên doanh nghiệp Việt Nam 2014, Hà Nội.
7. Tập đoàn dệt may Việt Nam (2015), Báo cáo sơ kết hoạt động sản xuất
kinh doanh 9 tháng năm 2015, Hà Nội.
8. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online (2015), Ngành dệt may cần máy móc,
cơng nghệ mới, truy cập lần cuối ngày 17/12/2015 từ
www.thesaigontimes.vn/135352/Nganh-det-may-can-may-moc-congnghe-moi.html.
9. Tổng cục Hải quan (2008-2015), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng

hóa của Việt Nam, Hà Nội.
10. Trần Anh Tuấn (2015), Tham luận thực trạng và dự báo nguồn nhân lực
của ngành dệt may khu vực phía Nam, truy cập lần cuối ngày
20/12/2015 từ www.dubaonhanluchcm.gov.vn/tin-tuc/5248.tham-luanthuc-trang-va-du-ba0-nguon-nhan-luc-cua-nganh-det-may-khu-vucphia-nam.html.

624



×