Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Thuc trang phap luat viet nam ve tap trung kinh te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.56 KB, 9 trang )

MỤC LỤC

1


I.Khái quát về tập trung kinh tế và kiểm soát tập trung kinh tế
1.1.Khái niệm, đặc điểm tập trung kinh tế
1.1.1 Khái niệm
Tập trung kinh tế (TTKT) được hiểu sự gia tăng tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại
hoặc một tư bản này thu hút một tư bản khác.
Dưới góc độ pháp luật, Luật cạnh tranh năm 2018 (LCT) không quy định thế nào là
tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là TTKT. Tập trung kinh tế là hành
vi của doanh nghiệp, bao gồm: Sáp nhập doanh nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp; mua lại
doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh nghiệp; các hành vi TTKT khác theo quy định
pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý
Chủ thể thực hiện hành vi TTKT là các doanh nghiệp theo LCT, không nhất thiết phải
hoạt động trên thị trường liên quan. Đối với từng hình thức TTKT đặt ra những yêu cầu
cụ thể.
TTKT được thực hiện dưới những hình thức nhất định: Sáp nhập doanh nghiệp; hợp
nhất doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp ; liên doanh giữa các doanh nghiệp; các hành vi
TTKT khác theo quy định pháp luật.
Hậu quả của hành vi TTKT làm thay đổi tương quan, cấu trúc cạnh tranh trên thị
trường. Dễ hình thành các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường, gây ảnh hưởng tới cạnh
tranh.
1.2. Phân loại TTKT
TTKT theo chiều ngang: TTKT diễn ra giữa các doanh nghiệp cùng nằm ở một cấp độ
trong chuỗi sản xuất.
TTKT theo chiều dọc: TTKT diễn ra giữa những doanh nghiệp ở những cấp độ khác
nhau của chuỗi sản xuất.
TTKT dạng hỗn hợp: TTKT diễn ra giữa các doanh nghiệp không phải đối thủ cạnh


tranh và cũng khơng có những mối quan hệ mua bán thực sự hoặc tiềm năng trên thị
trường liên quan.
2


1.3. Cơ sở lý luận về kiểm soát TTKT
Bản chất kiểm sốt TTKT tồn tại có cơ sở lý luận từ bản chất kinh tế - pháp lý của
hoạt động TTKT. Điều này dẫn đến nhu cầu kiểm soát hoạt động TTKT bằng pháp luật
và trọng trách này được trao cho pháp luật cạnh tranh mà không phải các quy định pháp
luật khác.
Trong các giai đoạn của thị trường, TTKT luôn xuất hiện từ những cơ sở kinh tế cơ
bản sau:
Thứ nhất, do sức ép của cạnh tranh trong đời sống kinh doanh. Có hai mức độ tập
trung có thể xảy ra là: (i) các nhà kinh doanh tìm mọi cách với thời gian ngắn nhất để có
được vị trí cạnh tranh tối ưu trên thị trường; và (ii) các doanh nghiệp đang yếu thế cần tập
hợp thành liên minh hoặc đơn vị to lớn nhằm tìm kiếm cơ hội tồn tại trước đối thủ lớn
hơn đang chèn ép họ. Cả hai trường hợp nói trên đều dẫn đến kết quả là các doanh nghiệp
đang từ đối đầu trở thành những đơn vị liên kết và khơng cịn cạnh tranh với nhau nữa.
Thành ra, sự TTKT bắt nguồn ở cạnh tranh nhưng kết quả của nó lại là tiêu diệt cạnh
tranh.
Thứ hai, do sức ép của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Lịch sử đã chứng minh rằng,
mỗi khi thị trường xảy ra khủng hoảng thì một trong những giải pháp hiệu quả mà các
doanh nghiệp thường sử dụng là tập trung lại để nương tựa vào nhau hịng tìm kiếm cơ
hội tồn tại.
Thứ ba, do nhu cầu phát triển năng lực kinh doanh của thị trường.
Dưới góc độ pháp lý, TTKT được các doanh nghiệp thực hiện dựa trên những nguyên
tắc căn bản mà pháp luật đã thừa nhận, đó là:
Thứ nhất, quyền tự do kinh doanh mà Hiến pháp và các văn bản pháp luật thừa nhận
đã tạo ra chủ quyền cho doanh nghiệp trước nhà nước và pháp luật. Chủ quyền của doanh
nghiệp được thể hiện cơ bản ở hai nội dung: (i) Doanh nghiệp có quyền định đoạt các vấn

đề phát sinh trong nội bộ như quy mô kinh doanh, ngành nghề, kế hoạch và phương
hướng kinh doanh, lao động…; (ii) Doanh nghiệp có quyền tự do liên kết trong kinh
doanh, theo đó, quyền tự do khế ước bao gồm sự tự chủ trong việc liên kết đầu tư để mua
doanh nghiệp khác hoặc liên minh góp vốn thành lập các chủ thể kinh doanh mới.
3


Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp của tất cả các quốc gia đều đã trao cho doanh nhân
(trong đó có các doanh nghiệp) quyền được thay đổi quy mơ theo nhu cầu kinh doanh.
Trên cơ sở đó, các biện pháp tổ chức lại như sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức
kinh doanh… được ghi nhận như là các biện pháp căn bản để doanh nhân chủ động thích
ứng với các biến động thị trường, phù hợp với năng lực kinh doanh của mình.
1.4. Nội dung pháp luật kiểm soát TTKT
Luật Cạnh tranh 2018 đã thừa nhận tập trung kinh tế là quyền tự nhiên của doanh
nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Theo đó, Luật không quy định cấm tập trung kinh tế một cách máy móc dựa trên mức
thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị
trường liên quan như quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2004. Ngược lại, Luật chỉ quy
định cấm doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế khi hành vi tập trung kinh tế gây tác
động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
Cơ quan cạnh tranh sẽ đánh giá một số tiêu chí để xác định tác động hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế. Các tiêu chí này bao gồm (1) thị phần
kết hợp trên thị trường liên quan; (2) mức độ tập trung tại thị trường liên quan trước và
sau khi tập trung kinh tế; (3) mối quan hệ của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh
tế trong chuỗi sản xuất, phân phối và cung ứng một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định hoặc
ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế là đầu vào hoặc bổ
trợ cho nhau; (4) lợi thế cạnh tranh do tập trung kinh tế mang lại trên thị trường liên
quan; (5) khả năng doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế tăng giá hoặc tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu một cách đáng kể; (6) khả năng doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế
loại bỏ hoặc ngăn chặn các doanh nghiệp khác gia nhập hoặc mở rộng thị trường; và (7)

các yếu tố đặc thù trong ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế.
Tương tự, theo luật cạnh tranh cũ, một giao dịch tập trung kinh tế cần phải được báo
cáo cho cơ quan quản lý cạnh tranh, nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tập trung
kinh tế là từ 30% trở lên của thị trường liên quan. Tuy nhiên, theo Luật Cạnh Tranh mới,
các bên có ý định thực hiện tập trung kinh tế phải thông báo cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc
gia nếu họ chịu ngưỡng thông báo dựa trên (1) tổng tài sản và tổng doanh thu của doanh
4


nghiệp đó tại thị trường Việt Nam, (2) giá trị giao dịch hoặc (3) thị phần kết hợp trên thị
trường liên quan.
II. Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam kiểm sốt về tập trung kinh tế
2.1. Mơ hình kiểm sốt tập trung kinh tế
LCT có nhiều điều khoản tạo hành lang pháp lý cho phép các cơ quan quản lý nhà
nước kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế. Cụ thể là:


TTKT phải thơng báo nếu thuộc ngưỡng kiểm soát
Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế phải nộp hồ sơ thông báo tập trung

kinh tế đến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo quy định tại Điều 34 của LCT trước khi
tiến hành tập trung kinh tế nếu thuộc ngưỡng thông báo tập trung kinh tế. Ngưỡng
TTKT căn cứ vào các tiêu chí sau:
-

Tổng tài sản trên thị trường Việt Nam của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh
tế;

-


Tổng doanh thu trên thị trường Việt Nam của doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế;

-

Giá trị giao dịch của tập trung kinh tế;

-

Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế.



TTKT khơng phải thơng báo. Các trường hợp khơng thuộc ngưỡng phải thơng báo
TTKT sẽ được mặc nhiên TTKT.


TTKT bị cấm

Theo Điều 30 LCT quy định doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động
hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt
Nam. Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia căn cứ vào nhiều yếu tố như thị phần kết hợp, mức độ
TTKT, mối quan hệ của các doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh,… để đánh giá tác động
hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc TTKT.
5





TTKT có điều kiện
Khác với luật cạnh tranh năm 2004, luật cạnh tranh năm 2018 không quy định về

trường hợp miễn trừ TTKT, thay vào đó là TTKT có điều kiện. Tập trung kinh tế có điều
kiện là tập trung kinh tế được thực hiện nhưng phải đáp ứng một hoặc một số điều kiện
sau đây (1) Chia, tách, bán lại một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế; (2) Kiểm soát nội dung liên quan đến giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ
hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp hình thành sau tập
trung kinh tế; (3) Biện pháp khác nhằm khắc phục khả năng tác động hạn chế cạnh tranh
trên thị trường; (4) Biện pháp khác nhằm tăng cường tác động tích cực của tập trung
kinh tế.
2.2. Thủ tục kiểm sốt tập trung kinh tế
Trình tự xem xét một vụ TTKT ở Việt Nam theo quy định của LCT bao gồm các bước:
- Bước 1: Doanh nghiệp nộp hồ sơ thông báo TTKT đến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia
- Bước 2: Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia thụ lý hồ sơ thông báo TTKT
- Bước 3: Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trả lời thông báo TTKT
LCT đã quy định cụ thể về thủ tục thơng báo TTKT, trong đó đề cập đến các vấn đề
như sau:
- Đối tượng áp dụng: Các trường hợp TTKT thuộc ngưỡng thông báo TTKT
- Trách nhiệm của các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia TTKT phải làm hồ sơ
thông báo tập trung kinh tế theo Điều 34 LCT để nộp cho cơ quan có thẩm quyền và chịu
trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ.
- Thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh: Cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền
kiểm sốt TTKT bằng việc thụ lý hồ sơ thông báo trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ
ngày tiếp nhận hồ sơ (theo Điều 35 LCT) và trả lời thông báo (theo Điều 37 LCT).
- Quy định về thời hạn trả lời thông báo TTKT: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tiếp
nhận hồ sơ thông báo tập trung kinh tế đầy đủ, hợp lệ, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phải
ra thông báo kết quả thẩm định sơ bộ việc TTKT. Khi kết thúc thời hạn quy định tại
khoản trên mà Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia chưa ra thông báo kết quả thẩm định sơ bộ
thì việc TTKT được thực hiện và Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia không được ra thông báo

6


TTKT phải thẩm định chính thức. Khác với Luật cạnh tranh năm 2004 chỉ quy định một
lần thẩm định hồ sơ thì Luật cạnh tranh 2018 quy định có 2 lần thẩm định, đó là thẩm
định sơ bộ và thẩm định chính thức hồ sơ.
2.3. Tố tụng cạnh tranh đối với vụ việc tập trung kinh tế
Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính. Cơ quan tiến
hành tố tụng cạnh tranh gồm Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn
chế cạnh tranh, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, Cơ
quan điều tra vụ việc cạnh tranh.
Trình tự tố tụng cạnh tranh (vụ việc về TTKT) ở Việt Nam như sau:
- Bước 1: Khiếu nại về vụ việc cạnh tranh
- Bước 2: Thụ lý hồ sơ khiếu nại
- Bước 3: Điều tra vụ việc cạnh tranh: Điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến hành
theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh
- Bước 4: Mở phiên điều trần
2.4. Xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế
Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, hành vi vi phạm quy định về TTKT được đề cập
cụ thể tại LCT và Nghị định số 75/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 26/9/2019 quy định
về xử lý pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh bao gồm các hành vi sau:
- Hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm (Điều 10)
- Hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm (Điều 11)
- Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm (Điều 12)
- Hành vi liên doanh doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm (Điều 13)
- Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế (Điều 14)
Các hình thức và mức độ xử lý vi phạm pháp luật về TTKT được quy đinh từ Điều 10
đến Điều 14 Nghị định 75/2019/NĐ-CP và điều 110 LCT, bao gồm: phạt tiền; buộc thực
hiện chia tách các doanh nghiệp đã hợp nhất, sáp nhập; bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, hoặc bị buộc bán tài sản đã mua,…

7


Thủ tục xử lý vi phạm pháp luật về TTKT phải tuân theo trình tự thủ tục trong tố tụng
cạnh tranh quy định tại Chương VIII LCT và chương III Nghị định số 75/2019/NĐ-CP
III. Phương hướng và một số giải pháp hồn thiện pháp luật về kiểm sốt TTKT ở
Việt Nam
3.1.Một số căn cứ trong việc đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
TTKT
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm quy mô doanh nghiệp tuyệt đại đa số là nhỏ bé, các
vụ giao dịch quy mô nhỏ và vừa vẫn chiếm đại đa số thì các vụ tập trung kinh tế chịu sự
điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh chưa nhiều.
Thứ hai, đa số các vụ tập trung kinh tế có quy mơ đáng kể đều do các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi thực hiện,
Thứ ba, các vụ tập trung kinh tế nằm trong ngưỡng phải thông báo hoặc bị cấm đã bắt
đầu xuất hiện và có xu hướng gia tăng.
Thứ tư, cần thống nhất một khái niệm và cách hiểu đúng về "kiểm soát tập trung kinh
tế", đây là khái niệm được đưa ra dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh và là một chức
năng của Cục quản lý cạnh tranh.
3.2. Những giải pháp hồn thiện và nâng cao hiệu quả kiểm sốt TTKT
 Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát kinh tế.

Các quy định kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế phải đảm bản sự bình đẳng giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng phân biệt
đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Các thủ tục cần được thực hiện không bị lạm dụng để gây khó khăn cho doanh
nghiệp, khơng cản trở các chiến lược, kế hoạch kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp.
Cần coi TTKT là một kênh tiềm năng để thu hút vốn đầu tư nước ngồi có hiệu quả. Theo
đó, cần hồn thiện khung pháp lý để xác lập và điều chỉnh các giao dịch tập trung kinh tế
một cách minh bạch, có tính hướng dẫn và tiên liệu chắc chắn

 Nâng cao hiệu quả kiểm soát tập trung kinh tế

Thứ nhất, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý cạnh tranh trong kiểm soát TTKT.
Cần tăng cường khả năng kiểm soát của Cục quản lý cạnh tranh - Cơ quan có chức năng
8


kiểm soát TTKT theo hướng cơ quan quản lý cạnh tranh cần được trao quyền chủ động
khi thực thi dựa trên những nguyên tắc được pháp luật ghi nhận, bao gồm quyền tự chủ
trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện, công cụ kỹ thuật cho từng vụ việc; chủ
động xây dựng quy trình cho việc kiểm sốt tập trung kinh tế.
Thứ hai, để việc kiểm soát TTKT hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tranh nên có những
nghiên cứu và dự đoán trước những thị trường, những lĩnh vực kinh tế có nguy cơ xảy ra
hiện tượng TTKT, thậm chí những doanh nghiệp có khả năng thực hiện hành vi thâu tóm
thị trường bằng hình thức TTKT. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan
quản lý cạnh tranh và cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành. Việc kiểm soát TTKT hiệu quả, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ
quan quản lý cạnh tranh đối với cộng đồng doanh nghiệp.
Thứ ba, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức kinh tế và pháp lý, chính sách và pháp luật
cạnh tranh cho nhân sự của các cơ quan quản lý cạnh tranh và các tổ chức có liên quan.
Điều tra một vụ TTKT là vơ cùng khăn, nhất là khi chúng ta chưa hề có kinh nghiệm
trong việc kiểm soát TTKT cùng với số lượng đội ngũ nhân sự có hạn. Có lẽ, một giải
pháp cần thiết là cơ quan quản lý cạnh tranh nên thiết lập một hệ thống cộng tác viên để
hỗ trợ cùng xử lý, giải quyết các vụ việc TTKT.
Thứ tư, cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh
nói chung và các quy định về TTKT nói riêng tới cộng đồng doanh nghiệp.

9




×