Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

thực trạng pháp luật việt nam về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng độc quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.88 KB, 12 trang )

I. PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG, LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 khẳng định các hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền được coi là các hành vi hạn chế cạnh
tranh vì những hành vi này làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Các hành vi này được quy định cụ thể tại Mục 2 Chương II Luật Cạnh tranh
2004 và được hướng dẫn thi hành tại Mục 4 Chương II Nghị định số 116/2005/NĐCP.
1.1. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
1.1.1. Khái niệm
Căn cứ theo những quy định tại Điều 11và Điều 13 Luật Cạnh tranh, có thể hiểu
các khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp và hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường như sau:
Vị trí thống lĩnh trên thị trường được xác định dựa trên thị phần hoặc khả năng
gây hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp. Theo
đó, một doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ
30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể. Một nhóm doanh nghiệp cũng có thể được coi là có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các
trường hợp sau: hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên
quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan; bốn
doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.
Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là những hành vi do doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện nhằm củng cố vị trí
thống lĩnh bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường, ngăn cản, kìm
hãm doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh, dẫn
đến những sai lệch về cạnh tranh trên thị trường.
1.1.2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

1



Luật Cạnh tranh 2004 đã liệt kê cụ thể 6 hành vi dưới đây là những hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường và bị pháp luật cấm:
a. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh
Hành vi này là việc doanh nghiệp bán hành hóa hoặc cung ứng dịch vụ với giá
thấp hơn giá thành thực để thu hút khách hàng và gây khó khăn cho những doanh
nghiệp cùng kinh doanh mặt hàng hoặc cung ứng cùng một loại dịch vụ. Theo đó, cơ
quản quản lí thị trường chỉ cần xác định và tính tốn tất cả các chi phí đã được doanh
nghiệp bỏ ra để sản xuất, kinh doanh sản phẩm và giá bán thực tế của chúng rồi đem
so sánh với nhau; nếu hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ với mức giá gây lỗ thì mặc
nhiên sẽ bị coi là định giá hủy diệt nếu doanh nghiệp thực hiện hành vi có quyền lực
thị trường và hành vi đó khơng thuộc những trường hợp đặc biệt được quy định tại
khoản 2 điều 23 Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
b. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng
Với hành vi này, khách hàng là những người bị chịu thiệt hại bởi giá mà họ phải
mua quá cao so với giá trị thực tế của sản phẩm hoặc phải bán hàng hóa với giá thấp
hơn giá thành thực. Giá mua, bán sản phẩm trên thị trường khơng được hình thành từ
cạnh tranh mà do các doanh nghiệp thống lĩnh ấn định. Mức chênh lệch giữa giá được
ấn định với giá cạnh tranh (giả định) là khoản lợi ích độc quyền mà doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền có được. Vì vậy, bằng hành vi này doanh nghiệp
thống lĩnh hoặc độc quyền đã có được tồn bộ giá trị thặng dư tiêu dùng của thị
trường, mà thực chất là phần giá trị lẽ ra được hưởng của người tiêu dùng nếu có
cạnh tranh. Do đó, hành vi này được coi là hành vi điển hình mang tính chất bóc lột
khách hàng.
c. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự
phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng
Nhóm hành vi này gồm ba hành vi cụ thể sau:

2



Thứ nhất, hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi giảm khả năng cung ứng hàng hóa, dịch vụ một cách giả tạo để lũng đoạn
thị trường, làm biến động quan hệ cung cầu theo hướng có lợi cho doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường trong giao dịch với khách hàng.
Thứ hai, hạn chế thị trường gây thiệt hại cho khách hàng - là việc doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh tự giới hạn khu vực bán hoặc giới hạn nguồn mua sản phẩm mà
khơng có lý do chính đáng gây thiệt hại cho khách hàng.
Thứ ba, hạn chế sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng là việc doanh nghiệp thực hiện những hành vi nhằm cản trở đối thủ cạnh tranh tiến
hành việc nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ hoặc ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào hoạt động kinh doanh. Ví dụ như hành vi mua sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng cơng nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng hoặc hành vi đe dọa hoặc
ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ phải ngừng hoặc hủy
bỏ việc nghiên cứu đó.
d. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo
bất bình đẳng trong cạnh tranh
Theo quy định của điều 29 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, đây là “hành vi phân
biệt đối xử với các doanh nghiệp về điều kiện mua bán, giá cả, thời hạn thanh toán,
số lượng trong giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc
tính chất hàng hóa, dịch vụ để đặt một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi
hơn so với doanh nghiệp khác”; vì vậy, nó cịn được gọi là hành vi phân biệt đối xử
thương mại. Hành vi này được cấu thành bởi hai yếu tố sau: thứ nhất, doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh đã áp dụng các điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số
lượng khác nhau trong những giao dịch như nhau; thứ hai, hành vi đã gây ra tình
trạng bất bình đẳng giữa các khách hàng.
e. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng
Loại hành vi này bao gồm:
3



- Hành vi áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua bán
hàng hàng, dịch vụ là việc áp đặt những điều kiện tiên quyết mà khách hàng buộc
phải chấp nhận để có thể ký kết được hợp đồng.
- Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến đối
tượng hợp đồng (khoản 2 điều 130 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định: “là hành vi
gắn việc mua bán hàng hóa, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng với việc phải mua
hàng hóa, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực
hiện thêm một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết thực hiện hợp đồng”).
f. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới
Căn cứ những quy định của điều 31 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, ngăn cản việc
gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới có thể hiểu là hành vi tạo ra
những rào cản về giá hoặc về nguồn tiêu thụ, nguồn nguyên vật liệu… trên thị trường
liên quan.
1.2. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
1.2.1. Khái niệm
a. Vị trí độc quyền của doanh nghiệp
Theo Điều 12 Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền
nếu khơng có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hố, dịch vụ mà doanh nghiệp
đó kinh doanh trên thị trường liên quan.
Như vậy, khi chỉ tồn tại duy nhất một doanh nghiệp kinh doanh trên một thị
trường hàng hóa, dịch vụ nhất định thì doanh nghiệp đó có vị trí độc quyền. Vị trí độc
quyền này có thể là do khơng có doanh nghiệp khác muốn tham gia thị trường hoặc
do doanh nghiệp này sử dụng những cách thức để mua bản quyền duy nhất trên thị
trường đó. Ví dụ như: đài kĩ thuật số K+ mua bản quyền phát sóng trực tiếp giải bóng
đá ngoại hạng Anh vào ngày chủ nhật hàng tuần (từ kênh truyền hình giữ bản quyền
của giải ngoại hạng Anh). Bất cứ một kênh truyền hình khác tự ý phát sóng giải bóng
đá này là vi phạm bản quyền. Như vậy đài kĩ thuật số K+ là doanh nghiệp có vị trí
độc quyền trong thị trường này.

b. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
4


Chúng ta có thể hiểu, hành vi lạm dụng vị trí độc quyền là hành vi của doanh
nghiệp có vị trí độc quyền, lợi dụng vị trí đó để thực hiện trục lợi cho doanh nghiệp
mình nhằm: gây thiệt hại cho khách hàng một cách bất hợp lý bằng phương pháp đe
dọa cắt đứt nguồn cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh; tự ý
thực hiện các hành vi nhằm ngăn cản các doanh nghiệp khác tham gia thị trường,
củng cố vị trí độc quyền. Pháp luật nghiêm cấm các doanh nghiệp thực hiện hành vi
này ngoại trừ một số ngành được chính phủ quy định về vị trí độc quyền, khơng tự
thực hiện các hành vi nhằm ngăn cản các doanh nghiệp khác tham gia thị trường thì
khơng phải là lạm dụng vị trí độc quyền 1.
1.2.2. Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền trước tiên chính là các hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường được quy định tại Điều 13 Luật Cạnh tranh, bởi sở hữu vị
trí độc quyền là mức độ cao hơn của sự thống lĩnh thị trường. Ngoài ra, Luật Cạnh
tranh còn cấm các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền sau đây:
a. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng
Điều 32 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định: “Áp đặt các điều kiện bất lợi
cho khách hàng của doanh nghiệp có vị trí độc quyền là hành vi buộc khách hàng
phải chấp nhận vô điều kiện những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách hàng trong q
trình thực hiện hợp đồng”.
Các doanh nghiệp độc quyền có thể tự ý áp đặt trong hợp đồng các điều kiện bất
lợi cho khách hàng, ví dụ như buộc khách hàng khi thực hiện hợp đồng cần phải thực
hiện một hợp đồng phụ khác như mua một sản phẩm, dịch vụ kèm theo của hãng. Bởi
vì khách hàng khơng cịn sự lựa chọn nào khác trong thị trường này nên vẫn buộc
phải chấp nhận.
b. Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã
giao kết mà khơng có lý do chính đáng

1

Một số ngành được chính phủ quy định về vị trí độc quyền, không tự thực hiện các hành vi nhằm ngăn cản các doanh
nghiệp khác tham gia thị trường thì khơng phải là lạm dụng vị trí độc quyền. Ví dụ: ngành điện, ngành chế tạo vũ khí,…
của Việt Nam là ngành được quy định và bảo vệ cho vị trí độc quyền của doanh nghiệp.

5


Điều 33 Nghị định 116/2005/NĐ-CP: “Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương
thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà khơng có lý do chính đáng là hành vi
của doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện dưới một trong các hình thức sau:
1. Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không cần thông
báo trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào.
2. Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào một hoặc
một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực
hiện đầy đủ hợp đồng và không phải chịu biện pháp chế tài nào”.
Doanh nghiệp thực hiện hành vi này xuất phát từ 2 lý do: một là có thể việc thực
hiện hợp đồng này khơng đem lại đủ lợi ích cho doanh nghiệp như mong muốn (do
tại thời điểm đó giá nguyên liệu đầu vào tăng, giá sản phẩm tăng cao hơn so với thời
điểm kí kết hợp đồng); hai là có sự vơ trách nhiệm của doanh nghiệp, không thực
hiện nghĩa vụ đã giao kết trong thực hiện hợp đồng.
1.3. Kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước,
doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích
Đối với nhóm doanh nghiệp độc quyền Nhà nước thì ưu thế cạnh tranh so với
các doanh nghiệp khác gần như là vượt trội vì có sự ủng hộ của Nhà nước. Vì vậy,
kiểm sốt hoạt động của nhóm này là cần thiết để đảm bảo một sự cạnh tranh công
bằng và không làm thiệt hại đến lợi ích của các nhóm doanh nghiệp khác. Cơ chế để
kiểm sốt hoạt động của nhóm doanh nghiệp này được qui định tại Điều 15 Luật
Cạnh tranh; bao gồm hai nhóm biện pháp tương ứng với hai nhóm đối tượng:

Thứ nhất, kiểm sốt hoạt động của doanh nghiệp độc quyền Nhà nước có hai
biện pháp:
- Kiểm soát giá: Nhà nước áp đặt giá mua, bán hàng hóa thuộc lĩnh vực độc
quyền Nhà nước. Thơng thường, Nhà nước nắm độc quyền trong các lĩnh vực then
chốt của đời sống kinh tế - xã hội, nên biện pháp này sẽ đồng thời là cơ chế để Nhà
nước kiểm soát giá cả thị trường. Tuy nhiên, mặt hạn chế của biện pháp này chính là
do tính áp đặt của Nhà nước, nếu sự áp đặt không phản ánh đúng giá trị thực sự của
hàng hóa sẽ là rào cản đối với một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường.
6


- Kiểm soát thị phần: Bằng cách quyết định khối lượng, số lượng, phạm vi thị
trường của hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền Nhà nước. Biện pháp này chủ
yếu nhằm vào việc kiểm soát thị phần của các doanh nghiệp độc quyền Nhà nước mà
khơng kiểm sốt chất lượng của loại hàng hóa đó. Thực tế cho thấy chất lượng dịch
vụ, hàng hóa thuộc lĩnh vực độc quyền Nhà nước đơi khi chưa tốt.
Thứ hai, kiểm sốt doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích.
Nhà nước kiểm sốt nhóm này thơng qua các biện pháp như đặt hàng, giao kế hoạch,
đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước qui định và chỉ các doanh nghiệp nào đáp
ứng được các yêu cầu do Nhà nước đặt ra mới được phép sản xuất, cung ứng dịch vụ
công.
II. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
2.1. Vụ việc thứ nhất – Vụ việc Vinapco lạm dụng vị trí độc quyền
2.1.1. Thơng tin vụ việc2
Ngày 1/4/2008 các chuyến bay của hãng hàng không Jestar Pacific Airline (JPA)
đã bị ngưng trệ do Công ty xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) đã đơn
phương ngừng cung cấp nguyên liệu bay cho JPA. Sau khi bộ trưởng Bộ GT-VT trực
tiếp ra chỉ thị cung cấp lại nhiên liệu cho JPA các chuyến bay mới được cất cánh sau
2-3h bị ngưng trệ. Tại thời điểm này, Vinapco là đơn vị duy nhất được phép cung cấp

xăng dầu hàng không thương mại cho các hãng hàng không Việt Nam và nước ngoài
tại sân bay nội địa. Giữa Vinapco và JPA có cam kết về những điều khoản của hợp
đồng mua bán xăng dầu và thực hiện các dịch vụ tra nạp tại sân bay. Cụ thể: ngoài giá
xăng dầu thực tế, chi phí vận chuyển, bảo hiểm, thuế nhập khẩu JPA phải trả cho
Vinapco phí nạp xăng dầu 593 nghìn đồng /tấn. Tuy nhiên, ngày 20/3 Vinapco gửi
cơng văn cho JPA đề nghị tăng phí nạp xăng dầu lên 750 nghìn đồng/tấn từ 01/04.
Bên cạnh đó, Vinapco vẫn giữ nguyên phí nạp xăng dầu ban đầu cho Vietnam
Airlines. Điều này được JPA cho là không công bằng và chỉ đồng ý tăng phí nếu phí
nạp xăng dầu của Vietnam Airlines cũng tăng tương ứng. Khi chưa có sự thống nhất
2

Báo cáo hoạt động thường niên 2010 của Cục quản lý Cạnh tranh – trang 13

7


giữa 2 bên thì ngày 01/04 Vinapco đột ngột ngừng cung cấp nhiên liệu cho JPA. Sự
việc này đã ảnh hưởng đến hàng nghìn khách hàng, tác động tiêu cực đến dư luận
trong nước và quốc tế về hàng không Việt Nam.
2.1.2. Quá trình và kết quả điều tra3
Ngày 28/05/2008, Cục Quản lý cạnh tranh đã bắt đầu tiến hành điều tra chính
thức vụ việc. Q trình điều tra chính thức kết thúc vào 12/2008 và đã được chuyển
lên Hội đồng cạnh tranh vào 01/2009. Ngày 14/04/ 2009, Hội đồng cạnh tranh đã mở
phiên tòa điều trần để xử lý vụ việc. Tại phiên điều trần, Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh
tranh do Hội đồng cạnh tranh thành lập đã ra kết luận Vinapco lạm dụng vị trí độc
quyền trên thị trường tra nạp nhiên liệu hàng không tại Việt Nam, vi phạm Khoản 2,
3 Điều 4 LCT 2004. Cụ thể đó là các hành vi: “Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách
hàng” và “Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà khơng có lý do
chính đáng”.
Hội đồng xử lý vụ việc đã ra quyết định xử phạt vi phạm của Vinapco mức phạt

là 0,05% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm Vinapco thực hiện hành vi vi
phạm tương đương với số tiền là 3.378.086.700 đồng.
2.1.3. Nhận xét và kiến nghị
Sau khi Hội đồng cạnh tranh đưa ra phán quyết trên, Vinapco đã có đơn khiếu
nại quyết định trên nhưng bị HĐCT bác bỏ. Sau đó, Vinapco đã làm đơn khởi kiện
HĐCT ra Tịa Hành chính, TAND TP Hà Nội vì Vinapco cho rằng phán quyết của
Hội đồng Cạnh tranh là trái với pháp luật thương mại.
Trong trường hợp của Vinapco với tư cách là một doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước, hành vi ngừng cấp nhiên liệu bay của Vinapco (bị cho là hành vi “lợi dụng vị
thế độc quyền để đơn phương thay đổi, hoặc hủy bỏ hợp đồng mà khơng có lý do
chính đáng”) là hành vi Vinapco buộc phải làm để bảo toàn vốn nhà nước dù rất ý
thức rằng có thể hành vi đó trái với các quy định tại Luật Cạnh tranh.

3

Báo cáo hoạt động thường niên 2010 của Cục quản lý Cạnh tranh – trang 14

8


Theo Vinapco, đây là một hợp đồng thương mại thuần túy, các bên trong hợp
đồng đều tự nguyện, bình đẳng và không bị bất kỳ sức ép nào trong việc thương thảo
ký kết hợp đồng. Trong Hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên đã được xác định
rõ, tuân thủ toàn bộ các quy định của pháp luật hiện hành và phù hợp với thông lệ
quốc tế trong lĩnh vực cung ứng nhiên liệu hàng không. Trong suốt thời gian thực
hiện Hợp đồng, JPA cũng như Vinapco chưa bao giờ có văn bản khiếu nại để phản
ánh về sự khơng bình đẳng, đơn phương hủy bỏ hợp đồng hoặc lạm dụng vị thế độc
quyền gây khó khăn cho khách hàng. Về bản chất, sự việc tạm ngừng giao hàng theo
Hợp đồng ngày 01/4/2008 là một tranh chấp thương mại thuần túy phát sinh trong
quá trình thực hiện hợp đồng. Mặt khác, hợp đồng ký giữa Vinapco và JPA đã có đầy

đủ chế tài và phương thức xử lý các tranh chấp... Bản thân các bên liên quan đã giải
quyết ổn thỏa, JPA khơng khởi kiện Vinapco ra tịa, cơ quan chủ quản của cả hai
doanh nghiệp là Bộ Giao thơng vận tải cũng đã có kết luận. Vì vậy, nếu có sự vi
phạm hợp đồng thì chỉ áp dụng các chế tài đã được thỏa thuận trong hợp đồng để xử
lý. Pháp luật cạnh tranh và các cơ quan quản lý cạnh tranh không nên can thiệp bằng
các chế tài hành chính vào các giao dịch dân sự - thương mại thuần túy. Quan điểm
này đã giới hạn sự can thiệp từ phía các cơ quan quản lý cạnh tranh đối với hoạt động
của doanh nghiệp trên thị trường khi cho rằng việc tiến hành điều tra, xử lý phạt
hành chính theo Luật Cạnh tranh đối với một tranh chấp hợp đồng thương mại là
không phù hợp với bản chất của vụ việc.
Kiến nghị
Có thể nói, Luật cạnh tranh là một đạo luật quan trọng nằm trong hệ thống pháp
luật của một quốc gia nhưng các quy định của Luật Cạnh tranh phải đảm bảo tính
thống nhất với các đạo luật khác và đồng thời cũng phải đảm bảo quyền kinh doanh
bình thường của doanh nghiệp kể cả trường hợp doanh nghiệp độc quyền. Do vậy,
cần rà soát lại các quy định về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền xem có trường hợp
nào mâu thuẫn với các quy định pháp luật khác hay không để tiến hành sửa đổi, bổ
sung các quy định đó một cách hợp lý nhằm vừa bảo đảm quyền lợi của các doanh
nghiệp độc quyền vừa bảo đảm đúng tinh thần của Luật Cạnh tranh.
9


2.2. Vụ việc thứ hai - Vụ việc liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh trên thị trường bia
2.2.1. Thông tin vụ việc4
Năm 2007, công ty TNHH Tân Hiệp Phát (THP) đã nộp đơn khiếu nại tới Cục
QLCT với nội dung khiếu nại công ty liên doanh nghà máy bia Việt Nam (VBL) lạm
dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường các sản phẩm bia cao cấp để ngăn chặn việc
tham gia của đối thủ cạnh tranh mới.
2.2.2. Quá trình và kết quả điều tra5

Sau quá trình điều tra, Cục QLCT đã kết luận:
Thị trường liên quan trong vụ việc này là thị trường bia trên cả nước, rộng hơn
thị trường bia cao cấp mà THP đã xác định trong đơn khiếu nại.
Trên thị trường bia, VBL khơng có vị trí thống lĩnh xét theo mức thị phần cũng
như khả năng gây hạn chế một cách đáng kể.
Việc VBL ký kết các hợp đồng độc quyền với các đại điểm bán bia trên toàn
quốc là hành vi u cầu khách hàng của mình khơng giao dịch với đối thủ cạnh tranh
mới quy định tại khoản 1 Điều 31 Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
Như vậy, không đủ chứng cứ để chứng minh vị trí thống lĩnh trên thị trường bia
của VBL, Cục Quản lý Cạnh tranh đã đề nghị Hội đồng Cạnh tranh đình chỉ giải
quyết vụ việc theo điểm a khoản 1 Điều 101 Luật Cạnh tranh.
2.2.3. Nhận xét và kiến nghị
Sau khi nghiên cứu vụ việc THP khiếu nại BVL lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, có thể thấy được mấu chốt của việc giải quyết các vụ việc liên quan đến các
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là vấn đề xác định thị trường liên quan.
Có thể thấy rõ rằng xác định thị trường liên quan là một giai đoạn rất quan trọng
trong bất cứ cuộc điều tra nào về hành vi lạm dụng. Bởi lẽ, thị phần chỉ được tính
tốn sau khi những ranh giới của thị trường đã được xác định. Do đó, nếu thị trường

4

Báo cáo hoạt động thường niên 2010 của Cục quản lý Cạnh tranh – trang 15

5

Báo cáo hoạt động thường niên 2010 của Cục quản lý Cạnh tranh – trang 15

10



được xác định sai, thì tất cả những phân tích tiếp theo dựa trên thị phần hoặc cấu trúc
thị trường đều khơng chính xác.
Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, trên cơ sở học tập kinh nghiệm lập pháp của
các quốc gia trên thế giới, đã quy định khá chi tiết và đầy đủ về các tiêu chí xác định
thị trường liên quan, đặt trong trạng thái động của thị trường, có ý nghĩa nâng cao
tính hiệu quả của q trình áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Cần phải thừa nhận
rằng Việt Nam có rất ít kinh nghiệm trong việc xác định thị trường liên quan. Trong
quá khứ, chúng ta mới chỉ làm quen với việc khoanh vùng thị trường theo ngành nghề
hoặc địa bàn kinh tế để xây dựng và triển khai các chính sách kinh tế - chính trị. Do
đó, các quan niệm về thị trường quen thuộc trong đời sống kinh tế và khoa học pháp
lý luôn gắn liền với ngành nghề, lĩnh vực hoặc địa bàn nào đó, chúng khơng là thị
trường liên quan trong truyền thống của pháp luật cạnh tranh. Thị trường liên quan
mà luật cạnh tranh nói đến có độ co giãn rất cao theo từng vụ việc cụ thể trong từng
thời điểm nhất định. Nó có thể chỉ nằm trong phạm vi một sản phẩm cụ thể của một
ngành sản xuất, ở một khâu nhất định trong quá trình kinh doanh, và cũng có thể
được giới hạn bởi một khu vực địa lý hẹp nào đó nhưng cũng có khả năng là rất rộng
lớn. Kinh nghiệm của các nước được thống kê bởi OECD cho thấy, việc điều tra và
xác định thị trường liên quan là một việc rất phức tạp, địi hỏi sự nhạy bén và trình độ
của những người có trách nhiệm. Do đó, bên cạnh các quy định khá đầy đủ của pháp
luật cịn địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ đủ năng lực và trình độ kinh tế - kỹ thuật để
thu thập, phân tích chính xác các số liệu lấy ra từ thực tiễn.
Còn một vài vấn đề tồn tại mà nhà làm luật cũng như những cơ quan có trách
nhiệm thực thi cần phải lưu ý đến:
Một là, cần cân nhắc về thời điểm xác định thị trường liên quan. Bởi lẽ, phạm vi
của thị trường liên quan và thị phần của từng doanh nghiệp trên thị trường liên quan
luôn thay đổi theo thời gian và theo những biến động trên thị trường, do đó, tại thời
điểm hành vi lạm dụng được thực hiện thì phạm vi thị trường liên quan có thể khác
(hẹp hơn hoặc rộng hơn) với thời điểm tiến hành điều tra sau đó.

11



Hai là, cơ quan cạnh tranh nhất thiết phải tham khảo nhiều phương pháp khác
nhau khi xác định thị trường liên quan để tăng tính chính xác của kết quả điều tra.
Một số phương pháp có thể áp dụng để xác định thị trường là:
(i) điều tra xã hội học để thăm dò phản ứng của người tiêu dùng;
(ii) Phân tích dưới góc độ kỹ thuật, kinh tế các thơng số thu thập được để kết
luận về tính chất của sản phẩm của của cấu trúc thị trường;
(iii) Phương pháp tính độ co giãn chéo của cầu. Trên cơ sở này, Nghị định
116/2005/NĐ-CP quy định cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh có quyền xem xét thêm một hoặc một số yếu tố sau đây để xác định thuộc tính
“có thể thay thế cho nhau” của hàng hố, dịch vụ:
• Tỷ lệ thay đổi của cầu đối với một hàng hoá, dịch vụ khi có sự thay đổi về giá
của một hàng hố, dịch cụ khác (phương pháp tính độ co giãn chéo của cầu);
• Thời gian cung ứng hàng hố, dịch vụ ra thị trường khi có sự gia tăng đột biến
về cầu;
• Thời gian sử dụng của hàng hố, dịch vụ;
• Khả năng thay thế về cung.
Mặc dù vậy, trên thực tế, đã nảy sinh nhiều khó khăn cho cơ quan áp dụng, đồng
thời cũng tạo ra tâm lý nghi ngờ về tính chính xác của các phương pháp này từ phía
các nhà kinh doanh khi thị trường được xem xét có sự đa dạng về sản phẩm và các
thông số kỹ thuật về sản phẩm và về thị trường chưa thực sự rõ ràng hoặc có độ co
giãn rất lớn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Cạnh tranh 2004;
2. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Cạnh tranh;
3. Báo cáo hoạt động thường niên 2010 của Cục quản lý Cạnh tranh;
4. Một số website.
12




×