Mục lục
Trang
Mở đầu
01
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về Toà án và đội ngũ
thẩm phán
07
1.1. Một số vấn đề lý luận về Toà án
07
1.1.1. Khái niệm Toà án
07
1.1.2. Vị trí, vai trị của Tồ án
10
1.2. Một số vấn đề lý luận về Thẩm phán
15
1.2.1. Khái niệm Thẩm phán
15
1.2.2. Vị trí, vai trị của Thẩm phán
16
1.2.3. Điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán
20
1.2.4. Phân loại thẩm phán
29
1.2.5. Khái quát tiến trình phát triển các quy định của
pháp luật về thẩm phán ở Việt Nam
32
Chương 2. thực trạng công tác xây dựng Đội ngũ
1
thẩm phán trong thời gian qua và yêu cầu cải
cách tư pháp ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
37
2. 1. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán Việt
nam trong thời gian qua
37
2.1.1. Thực trạng về số lượng, chất lượng của đội ngũ thẩm
phán và tình hình xét xử trong thời gian qua
37
2.1.2. Công tác quy hoạch, tuyển dụng và bổ nhiệm thẩm phán
42
2.1.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán
52
2.1.4. Cơ chế kiểm tra giám sát đội ngũ Thẩm phán
63
2.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay
70
2.2.1. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp
trong giai đoạn hiện nay
70
2.2.2. Một số nhiệm vụ trọng tâm của ngành Toà án trong xây dựng
đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
75
Chương 3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và một số
giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán HIệN NAY
77
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng đội ngũ
thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay
77
3.2. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng
2
yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay
82
3.2.1. Đổi mới cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm thẩm phán
82
3.2.2. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán
85
3.2.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
87
kết luận
93
Tài liệu tham khảo
96
3
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Nhờ có sự đổi mới về kinh tế và
quyết tâm thực hiện cơng cuộc cải cách hành chính mà Việt Nam đang là
nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong khu vực và trên thế giới; cơ sở
vật chất được tăng cường, đời sống chính trị - xã hội ổn định, quan hệ quốc tế
được mở rộng. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển mạnh sang cơ chế thị
trường cùng với các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế thì ngày càng có
nhiều vụ việc phức tạp, các loại án hình sự ngày càng tinh vi, mức độ nguy
hiểm cho xã hội ngày càng lớn, các vụ án dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh
tế, thương mại, lao động... ngày càng gia tăng về cả số lượng và sự phức tạp,
đặc biệt khi nó xuất hiện yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều, giá trị lợi ích vật
chất trong các vụ án ngày càng lớn. Do đó, để đưa ra được phán quyết thấu
tình đạt lý, phù hợp với thông lệ, tập quán pháp luật quốc tế địi hỏi thẩm
phán phải tâm huyết với nghề, khơng ngừng học tập nâng cao trình độ,
chun mơn, nghiệp vụ xét xử của mình.
Nghề thẩm phán là nghề xét xử, mục đích là đưa lại sự cơng bằng cho
xã hội, đảm bảo sự ổn định, phát triển và mang ý nghĩa xã hội to lớn. Chính vì
thế người thẩm phán được Visanhsky, một trong những người xây dựng
ngành Tư pháp Nga sau cách mạng tháng Mười khẳng định “thẩm phán người
thầy của cuộc sống”. Gần 100 năm nay, điều Ông nói vẫn đúng, lời nói đó
vượt qua mọi ranh giới quốc gia và khoảng cách về thời gian.
Thẩm phán với nghề nghiệp xét xử đã và đang thực sự là biểu tượng
cho khát vọng của nhân loại về một sự công bằng cho đới sống xã hội. Vinh
quang của nghề thẩm phán trước hết phải nói đến là nghề nghiệp mang tính
xã hội cao, bởi lẽ cơng việc của thẩm phán luôn liên quan đến nhiều cá nhân,
4
tổ chức trong xã hội. Nghề nghiệp xét xử của thẩm phán liên quan đến số
phận, danh dự, uy tín. tài sản, thậm chí nó quyết định cả tính mạng của con
người. Toà án, cụ thể hơn là thẩm phán là người đại diện cho quyền lực nhà
nước để đưa ra các phán quyết và khi các phán quyết đó có hiệu lực pháp luật
thì tất cả mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân liên quan đều
phải tuân thủ chấp hành.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và lãnh
đạo ngành tồ án, đội ngũ thẩm phán nước ta khơng ngừng được nâng cao cả
về số lượng và chất lượng, kết quả xét xử của họ đã góp phần quan trọng vào
việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, so với yêu cầu
của công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, đặc biệt là đứng trước các yêu
cầu, thách thức của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì đội ngũ thẩm
phán của chúng ta cịn nhiều hạn chế, bất cập, tình trạng “thiếu” về số lượng
và “yếu” về chất lượng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhiều lúc. Một bộ phận
khơng nhỏ thẩm phán suy thối về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, yếu
kém về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đã làm sai lệch vụ án, làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Vì vậy, xây dựng đội
ngũ thẩm phán trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp và năng lực công tác đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay là rất quan trọng, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và ngành toà án
phải tăng cường chỉ đạo và thực hiện quyết liệt hơn nữa nhiệm vụ quan trọng
này để thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội
chủ nghĩa .
Từ thực tiễn đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sỹ của mình là “Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, với mong muốn thông qua việc phân
tích, đánh giá thực trạng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay để góp phần
phát hiện những bất cập, hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán ở
5
nước ta, tìm ra những nguyên nhân của sự bất cập, hạn chế đó. Từ đó, đề xuất
một số giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư
pháp hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tăng cường
hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc xây dựng đội ngũ thẩm phán có phẩm chất
đạo đức và đủ năng lực chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển của
đất nước trong thời kỳ mới là rất cần thiết. Đây là lĩnh vực được Đảng, Nhà
nước đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua ở nước ta đã có một số cơng trình
nghiên cứu quan trọng liên quan đến lĩnh vực này như: Sổ tay Thẩm phán; Các
phẩm chất cơ bản của thẩm phán của tác giả Đặng Thị Thanh Nga (Tạp chí
Luật học số 5/2002); Kỹ năng giao tiếp của thẩm phán khi giải quyết vụ án dân
sự; ThS. Bùi Thị Kim Chi (Tạp chí Luật học số 2/2005); Một số suy nghĩ về
những việc thẩm phán không được làm quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm toà án nhân dân năm 2002, Nguyễn Thị Hồng Tươi (Tạp chí Tồ án
nhân dân số 1/2003); Một số vấn đề về mô hình nhân cách thẩm phán, ThS,
Bùi Thị Kim Chi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/2005); Những phẩm chất,
nhân cách của thẩm phán trong giai đoạn hiện nay, ThS. Đặng Thanh Nga (Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003); Suy
nghĩ về những điều thẩm phán phải làm, thẩm phán được làm, chính sách chế
độ đối với thẩm phán, Nguyễn Hồng Tươi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
5/2002).
Nhìn chung, các bài viết trên của các tác giả được thể hiện ở nhiều cấp độ
nghiên cứu khác nhau, góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng chủ yếu dưới dạng các
bài nghiên cứu trên các tạp chí chưa có đề cập một cách có hệ thống về xây dựng
đội ngũ thẩm phán để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu
6
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm ra những luận cứ khoa
học và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp
luật về thẩm phán và công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm phán và xây dựng đội ngũ
thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Đánh giá đúng đắn, khách quan, toàn diện một số quy định của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm toà án nhân dân năm 2002 và các quy định của pháp
luật thực định về tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán.
Đánh giá thực trạng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta
hiện nay để làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ
thẩm phán và những yêu cầu, đòi hỏi đối với thẩm phán; chỉ ra được những
bất cập, hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán; làm rõ hơn những
yếu tố tích cực, tiêu cực ảnh hưởng đến chất lượng của thẩm phán cũng như
việc tuyển chọn, đào tạo và bổ nhiệm đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
“Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp
ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung
phong phú, đa dạng, phức tạp và tương đối “nhạy cảm”. Vì vậy, trong phạm
vi nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ luật học, dựa trên nền tảng các chức
năng, nhiệm vụ của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung
để nghiên cứu và tiếp cận các nội dung xây dựng đội ngũ thẩm phán. Tác giả
tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản, trọng tâm sau:
Khái niệm, vị trí vai trị quan trọng của thẩm phán ở Việt Nam và một
số nước trên thế giới;
Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ thẩm phán và công tác xây dựng
đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay, qua đó chỉ ra những bất cập, hạn chế
7
về chất lượng, số lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như những bất cập trong
công tác tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán ở nước ta hiện nay;
Những yêu cầu, địi hỏi trong cơng tác xây dựng đội ngũ thẩm phán
đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Từ đó đề xuất được một số
giải pháp quan trọng để xây dựng và phát triển đội ngũ thẩm phán đáp ứng
yêu cầu xây dựng một nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác xây
dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay.
Nội dung quan điểm chỉ đạo công cuộc cải cách tư pháp hiện nay và
công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán, cán bộ tư pháp trong Nghị quyết
08/NQ-TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về thẩm phán, điều kiện, tiêu
chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán và văn bản chính sách của Nhà
nước về xây dựng đội ngũ thẩm phán trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng đó là phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp lý
luận kết hợp với thực tiễn.
6. ý nghĩa và những điểm mới của đề tài
Đề tài “Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cách tư pháp
ở Việt Nam” được nghiên cứu để đạt được kết quả sau:
8
Đây là luận văn được nghiên cứu ở bậc cao học có tính hệ thống, tồn
diện về cơng tác xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay.
Đề tài có tính hệ thống hố một cách tồn diện những quy định của
pháp luật nước ta về thẩm phán từ năm 1945 đến nay.
Xác định được hiệu quả sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về
tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán, qua đó chỉ ra các
điểm hạn chế của pháp luật thực định về nội dung này, giúp các nhà lập pháp
hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời giúp cho
ngành Tồ án thấy được vị trí, vai trị quan trọng của công tác xây dựng chiến
lược đào tạo thẩm phán cũng như đội ngũ “nguồn” để tuyển chọn, bổ nhiệm
thẩm phán.
Mặt khác, thơng qua việc so sánh, tìm hiểu các quy định của pháp luật
một số nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới như Hàn Quốc, Pháp,
Malayxia... về điều kiện, tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán cũng
như kinh nghiệm xây dựng đội ngũ thẩm phán, đội ngũ “nguồn” để tuyển
chọn bổ nhiệm thẩm phán của họ. Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp
quan trọng nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán
đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Đặc biệt là các quy định liên
quan đến trách nhiệm của ngành Toà án trong việc xây dựng kế hoạch chiến
lược đào tạo thẩm phán và đội ngũ “nguồn” để bổ nhiệm thẩm phán đáp ứng
được những yêu cầu nhiệm vụ của công tác cải cách tư pháp nhằm xây dựng
nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương, 6 mục.
9
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về Toà án
và đội ngũ thẩm phán
1.1. Một số vấn đề lý luận về Toà án
1.1.1. Khái niệm Toà án
Cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, để đảm bảo cho sự thực
thi của pháp luật, nhà nước thiết lập một hệ thống cơ quan chuyên xét xử các
hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời
sống xã hội nhằm đảm bảo trật tự xã hội, quyền và lợi ích của nhà nước và xã
hội được duy trì, hệ thống cơ quan đó chính là tồ án.
Dưới chế độ phong kiến, nhà vua là người đứng đầu nhà nước nắm
trong tay tất cả các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chính vì thế những
quan lại cai trị cấp dưới vừa là người thi hành pháp luật đồng thời là người
xét xử. Đến khi nhà nước tư bản ra đời với nhiều học thuyết phân chia quyền
lực nhà nước khác nhau thì các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được
phân chia rõ ràng hơn. Đặc biệt khi học thuyết “Tam quyền phân lập” của
Môngtexkiơ ra đời, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tách biệt và đối
trọng với nhau và ba quyền này được trao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau
tương ứng là cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Trong
hệ thống các cơ quan tư pháp thì việc thực thi quyền xét xử do một hệ thống
cơ quan chức năng riêng biệt đảm nhiệm đó là tồ án với các thẩm phán là
công chức nhà nước thực hiện nhiệm vụ xét xử.
Theo cuốn Từ điển Luật học thì Tồ án được hiểu là “cơ quan thuộc hệ
thống bộ máy nhà nước, đảm nhiệm chức năng xét xử”. Đây cũng là khái
niệm được sự thống nhất cao của các quốc gia trên thế giới và các nhà nghiên
cứu luật học. Trong đó, tuỳ từng quốc gia khác nhau Tồ án - hệ thống cơ
10
quan xét xử có những đặc thù riêng và được phân chia theo các loại hình, cấp
xét xử khác nhau.
Trong hệ thống toà án một số nước phương Tây, ngoài hệ thống các
cấp tồ án xét xử vụ án hình sự, dân sự, thương mại, lao động, hành chính, họ
cịn thành lập Toà án hiến pháp để thực hiện chức năng bảo vệ các nguyên tắc
của hiến pháp, kiểm tra tính hợp hiến của các luật hay các văn bản quản lý
khác. Ví dụ:
ở Pháp, Tồ án hiến pháp được gọi là Hội đồng bảo hiến. Nhiệm vụ
của Hội đồng này là: phán quyết về tính hợp hiến của các đạo luật, sắc luật và
quy tắc hành chính; Tham gia ý kiến về các đề nghị sửa đổi Hiến pháp do Uỷ
ban Quốc hội chuyển giao; Hội đồng bảo hiến giải quyết các tranh chấp liên
quan đến việc bầu cử Quốc hội và tổng thống cũng như các cuộc trưng cầu
dân ý, kiểm tra tính hợp pháp của sự kiêm nhiệm chức vụ của các nghị sỹ [49,
tr 498] .
ở Đức, Tồ án hiến pháp liên bang có thẩm quyền giải thích hiến pháp
khi có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của liên bang và các địa phương.
Trong lịch sử phát triển, thì tồ án cịn được thành lập bởi các tổ chức
quốc tế để giải quyết các tranh chấp mang tính quốc tế như Tồ án quốc tế là
tổ chức của Liên hợp quốc gồm 15 thẩm phán do Đại Hội đồng và Hội đồng
bảo an bầu ra cùng một lúc, với nhiệm kỳ 9 năm và có thể được bầu lại.
Trong đó thẩm phán được bầu hồn tồn mang tư cách cá nhân, khơng đại
diện cho quốc gia và quyền lực nhà nước và thẩm phán là công dân của 15
quốc gia khác nhau. Trong các thẩm phán phải có đủ đại diện của các nền văn
hố và các hệ thống pháp luật. Toà án này quyết nghị theo hình thức biểu
quyết đa số nhưng tối thiểu phải có 9 thẩm phán tham dự xét xử. Trong
trường hợp có ngang phiếu thì phiếu của chánh án có vai trị quyết định. Tồ
án này có hai chức năng, thứ nhất là: giải quyết các tranh chấp giữa các quốc
gia khi có sự đồng ý của các bên. Quyết định của Tồ án quốc tế có tính chất
11
sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Trường hợp một bên khơng đồng ý thì bên
kia có quyền nhờ Hội đồng bảo an can thiệp, theo đó Hội đồng bảo an sẽ ra
kiến nghị hoặc quyết định áp dụng những biện pháp bắt buộc thi hành. Chức
năng thứ hai của toà án này là làm tư vấn pháp luật cho Đại hội đồng, cho các
cơ quan của Liên hiệp quốc và các tổ chức chun mơn của Liên hiệp quốc.
Ngồi Tồ án quốc tế trên cịn có các tồ án quốc tế khác như: Toà án quân sự
quốc tế là Tồ án Nuyrămbe và Tồ án Tơk; Tồ án quốc tế về Luật biển.
Khái niệm “Toà án nhân dân” hiện nay chỉ được sử dụng ở các quốc
gia theo chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba. Trong quá
khứ việc sử dụng thuật ngữ “Toà án nhân dân” đã từng tồn tại ở Đức với tên
gọi là Toà án Nhân dân Đức, là toà án do Đảng Công nhân Đức Quốc gia
XHCN thành lập từ năm 1934 như một toà án đặc biệt để xét xử những người
chống đối chế độ với các tội danh “phản quốc” và “tiết lộ bí mật quốc gia”
(theo Bách khoa tồn thư mở Wikipedia).
ở Việt Nam, ngay từ khi cách mạng tháng Tám thành cơng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 thiết lập Toà án
quân sự để “xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì đó có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trừ khi
phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật”. Trải qua
nhiều giai đoạn phát triển lịch sử, đến nay theo Điều 127 Hiến pháp năm 1992
quy định và Điều 1 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 tiếp tục khẳng
định: “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án
quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, căn cứ vào cách phân chia
khác nhau chúng ta có thể phân tồ án thành các loại sau:
Căn cứ vào nguyên tắc cấp và phạm vi xét xử, hệ thống các toà án của
nước ta bao gồm: TANDTC, TAND cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung
12
ương, các TAND cấp huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và các tồ án
qn sự.
Căn cứ vào tính chất các vụ án do toà án xét xử, toà án nhân được phân
thành các toà tư pháp và toà án hành chính trong đó tồ án hành chính để xét
xử các tranh chấp về hành chính. Cịn tồ tư pháp gồm: Tồ hình sự xét xử
các vụ án hình sự; Toà dân sự để xét xử các vụ án tranh chấp dân sự, hơn
nhân và gia đình; Tồ án kinh tế để xét xử các vụ án tranh chấp về kinh tế,
thương mại; Toà án lao động để xét xử các vụ tranh chấp về lao động. Trong
thời gian tới với tinh thần của công cuộc cải cách tư pháp chúng ta sẽ thành
lập Tồ hơn nhân và gia đình, Toà án dành cho trẻ vị thành niên nhằm đáp
ứng được những đặc thù của các loại vụ án này, đảm bảo cho quyền và lợi ích
của nhà nước, xã hội và các cá nhân liên quan được thực thi tốt hơn, nâng cao
tính chuyên nghiệp của các thẩm phán trong từng loại hình tồ án này.
Hệ thống Tồ án qn sự là một hệ thống tồ án có đặc thù riêng, nó
chỉ thực hiện chức năng xét xử những vụ án mà bị cáo là những quân nhân tại
ngũ và những vụ án khác theo quy định của pháp luật (chủ yếu là xét xử
người có hành vi phạm tội làm thiệt hại đến qn đội), vì thế nó khơng chia
thành các tồ chun trách về dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Tồ án
qn sự bao gồm: Toà án quân sự trung ương, các Toà án quân sự quân khu
và tương đương, các Toà án quân sự khu vực.
Tóm lại, với nghĩa rộng Tồ án được hiểu là cơ quan đảm nhiệm chức
năng xét xử và giải quyết các tranh chấp về các hành vi vi phạm pháp luật,
quốc gia và quốc tế; vi phạm các thông lệ và tập quán quốc tế được hầu hết
các quốc gia thừa nhận.
Theo nghĩa hẹp, với tư cách là một trong những cơ quan tư pháp thuộc
bộ máy của một nhà nước thì khái nhiệm Tồ án được hiểu là: Toà án là một
cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp trong tổ chức bộ máy nhà nước
13