Lac Long Quan nghia la gi?
Mỹ hiệu Lac Long Quan ##ïÊ thường được diễn Nôm
thành “Bố Rồng”? “Cha Rồng” mà không thấy ai thắc mắc
rằng đây là một cách hiéu “ca thot”: nếu chữ Jong 1a réng thi
chữ lạc bỏ đi đâu? Người chép truyền thuyết thời xưa ghi lại
lời của Lạc Long Quân tự xưng “Ta là giống rồng” chẳng biết
có ghi thiếu hay khơng. Cịn nếu quả Lạc Long Quân chỉ tự
giới thiệu như thế thì hiển nhiên ơng ta qn nói với vợ con
mình rằng Lạc Long là giống rồng gì (nếu lạc là định ngữ của
lone), hoặc là giống rồng và giống gì nữa (nếu Lạc long là một
danh ngữ đẳng lập). Cịn chúng tơi thì hiểu rằng Lạc Long là
Hạc và Cá Sấu.
Tên của “Lạc Long Quân” $Z ïE 7H bị đọc sai ở chữ $5.
Chữ này tuyệt nhiên khơng có âm “lạc”: Đầy đủ nhất và cũng
thuộc loại đáng tin nhất là Hán ngữ đại tự điển của Hán ngữ
đại tự điển Biên tập ủy viên hội (Thành Đô - Hồ Bắc, 1993)
đã ghi cho nó 3 âm (khơng kể âm hậu khởi trong tiếng Bắc
Kinh, khơng có hình thức Hán - Việt tương ứng):
1. mạch (mạc bạch thiết 1“
2. hạc (hạ các thiết F
1
#7 #));
3. mạ (mạc giá thiết 5: f_ )).
243
1);
No khéng hé c6é 4m “lac”. Xin nhé rang chit 3% bi doc
sai thành “lạc” này khác với chữ “lạc” trong Lạc Việt, mà tự
hình là đf, cũng có khi viết thành 5£. Hai chữ này mới đúng
là “lạc” Thế mà lại có những người, có lẽ do khơng tra cứu,
khảo chứng về tự hình, về phiên thiết, lại cứ đi phân biệt 3
chữ “lạc”: (lạc ft bộ chuy Ất, lạc 5ã bộ mã My va lac(!) 3% bộ
trãi ấ ), làm cho việc nghiên cứu về cổ sử Việt Nam
thêm
rắc rối. Tiêu biểu nhất là tại Hội nghị Nghiên cứu thời kỳ
Hùng Vương lần thứ 2, tháng 4 năm 1969, trong bài tham
luận “Về Hùng Vương và xã hội Hùng Vương”, học giả Hoa
Bằng cũng chính thức đọc chữ Ất thành “lạc” khi điểm lai
các chữ lạc (xin xem Hàng Vương dựng nước, tập II, Nxb.
Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr.287). Thực ra, ở đây, ta
chỉ có hai chữ “lạc” mà thôi: lạc ## bộ chuy †È và lạc
bé ma JS.
Vậy thì, với 3 âm “mạch” “hạc” và “mạ” của nó, chit 3%
trong tên của “Lạc(?)
Long
Quân”
phải được
đọc như
thế
nào? Chẳng thấy ai đọc nó theo một trong ba âm trên đây. Ai
cũng đọc nó thành “lạc” mà khơng ngờ rằng đây là một cách
đọc sai, ít nhất cũng khơng phải là một cách đọc đúng theo
phiên thiết. Vậy cái sai này do đâu mà ra? Chúng tơi cho là
nó chỉ có thể xảy ra từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là với quyển
Việt-Nam sử-lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim, xuất bản lần
đầu tiên năm 1921. Đây là một quyển sử có ảnh hưởng sâu
rộng đối với nhiều thế hệ người Việt Nam và trong nửa đầu
của thế kỷ XX thì nó gần như là một quyển sách độc tơn về
lịch sử tương đối đầy đủ và có hệ thống của đất nước và dân
tộc. Tại tr.23 của bản do Nxb. Tân Việt - Hà Nội, in và phát
hành tại Sài Gòn năm 1949, Trần Trọng Kim viết:
“Lạc-Long-Quân lấy con gái vua Đế-Lai tên là Âu-Cơ, đẻ
một lần được một trăm người con trai”
244
Về tên của Lạc-Long-Quân,
cũng ở tr.23, Trần Trọng
Kim còn chú thích cả chữ Hán là 54 ii. ‡† nữa. Tuy nhiên, ta
khơng thể hồn tồn đổ lỗi cho Trần Trọng Kim được vì các
tác giả về sau có trách nhiệm phải khảo chứng, chứ không
thể nghe theo ông Kim một cách mù quáng (nếu đúng là họ
đã nghe ông). Rất có thể là trước cả Trần Trọng Kim cũng đã
có người/nguồn đọc như thế, nhưng chúng tôi vẫn cho rằng
sở di cach đọc đó trở nên phổ biến là do quyển sử của học
giả họ Trần.
Vậy thì giữa ba âm mach, hac va ma, cht #ã phải được
đọc theo âm nào? Chúng tơi cho rằng đó là âm “hạc” vì
thiển nghĩ cái tên “Hạc Long Quân” hẳn phải có liên quan
đến địa danh Bạch Hạc É1 #5, mà Đại Nam quốc sử diễn ca
có nhắc đến:
Hùng Vương đơ ở Châu Phong
Ấy nơi Bạch Hạc, hợp dòng Thao Giang.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ bản chương cũng liễn.
Bốn câu thơ này gợi ý cho chúng ta rằng ông Hạc Lơng
Quân xuất thân nơi đất Bạch Hạc (mặc dù chữ “hạc” viết khác ở đây, ta chỉ nói về mặt âm) là chuyện có lý vì Bạch Hạc thời
xưa là một vùng sơng nước mênh mơng nên ở đó mới có nơi
được đặt tên là Động Đình (để ví với Động Đình hồ bên Tàu
chăng?). Trong Truyển thuyết Hùng Vương (in lần II, có sửa
chữa, Chi hội Văn nghệ dân gian Vĩnh Phú, 1972), Nguyễn
Khắc Xương đã chú thích rõ: “Động Đình ở đây (trong truyền
thuyết “Hùng Hải trị nước” - AC) chỉ địa phận Hưng Hóa ngày
nay, từ ghềnh Ngọc Tháp về tới bến Trung Hà thuộc sông Thao.
Vùng này hàng năm vào mùa nước thường bị ngập lụt, lại có
A»
nhiều đầm hồ”
(tr.36). Hiện ta đang có một cụm địa danh đáng
245
chú ý. Ngồi vùng đầm hồ Động Đình, ta lại có núi Động Dinh,
thuộc tinh Hung Hoa, ma Dai Nam nhdt thống chí đã chép
nhu sau: “Cach chau Yén 6 dam vé phia Nam, nui rat cao, ngon
núi trùng điệp, khe ngòi bọc quanh, năm Tự Đức thứ 3 liệt
vào hàng danh sơn, chép trong điển thờ” (Bản dịch của Phạm
Trọng Điểm do Đào Duy Anh hiệu đính, tập IV, Nxb. Thuận
Hố, Huế, 1992, tr. 305). Ta lại có địa danh Hạc Tïì, nay là tên
một huyện của tỉnh Phú Thọ. Rất có thể là do người chép truyền
thuyết biến Động Đình ta thành Động Đình Tàu nên mới sinh
ra chuyện biên giới nước Văn-lang “Bắc giáp hồ Động-đình
(Tàu), Nam giáp nước Hồ-tôn, Tây giáp Ba-thục, Đông giáp
biển Đông-hải”, như đã chép trong Lĩnh Nam chích qi. Chit
chúng tơi thì cho rằng Văn Lang là một nước ra đời “tại chỗ” vùng trung du Bắc Bộ - chứ không phải tít tận bên Tàu. Vâng,
tại chỗ, với những di chỉ khảo cổ học thuộc Văn hóa Phùng
Nguyên, Văn hóa Đồng Đậu, Văn hóa Gị Mun, v.v...
Chúng tơi muốn
tin theo thuyết của
trống đồng Ngọc Lũ
phân tích và chứng
đi theo hướng tiếp cận
Đào Duy Anh cho rằng
là hình chim “Lạc”, mà
minh trong mục “Lai
việt; thuộc chương III của Cổ sử Việt Nam
này, chứ khơng
hình chim trên
ơng đã cất cơng
lịch người Lạc(Nxb. Xây Dựng,
Hà Nội, 1955, tr.51-56), rồi sau đó nhiều tác giả cũng đã mặc
nhận mà nói theo, cơ hồ tạo nên cái thuyết hồn tồn vơ căn
cứ hiện hành “hình chim trên trống đồng là hình chim Lạc”.
Đào Duy Anh viết:
“Chữ lạc đÈ hay #% (có khi viết là 5%) là chỉ một loài hậu
điểu ở miền Giang Nam, tương tự với lồi ngỗng trời. Có thể
chim lạc là vật tổ của người Lạc Việt” (Sđd, tr.53).
Thực ra, chữ lạc 5% này của Đào Duy Anh lại khơng
tồn tại; cịn hai chữ kia (đf và 5Ã) thì khơng có cái nghĩa mà
246
ông đã nêu vì cái nghĩa này lại thuộc về chữ lạc #5 bộ điểu
(chứ không phải bộ chuy 42 hay bộ mã #3).
Vậy ta khơng có bất cứ căn cứ xác thực nào để gọi đó
là chim “Lạc” cả. Huống chỉ, trên đồ đồng, mà ngay cả trên
trống đồng Ngọc Lũ, đâu phải chỉ có hình khắc của một lồi
chim! Ta chỉ có thể căn cứ vào những hình khắc đó mà đốn
định rằng phần lớn - chứ khơng phải tất cả - những con chim
có hình được đúc là những con thuộc bộ Cò (Ciconiiformes,
cũng được
dịch là bộ Hạc), có chân dài, mỏ
dài và cổ dài.
Theo chúng tơi thì trong những hình chim lớn nhất ở vành
thứ 10 (từ trong ra) trên mặt trống đồng Ngọc Lũ có hình
của con Hạc.
Tóm lại, chữ hạc 54 ở đây có thể “thông” với chữ hạc
#š về mặt ngữ âm và trong tâm thức của người ghi chép
truyền thuyết thì đây chỉ là cái tên của một loài chim thuộc
bộ Hạc mà thôi. Đến như chữ Jong #é thi chang cé khé khan
gì để tái lập âm Hán - Việt xưa của nó là ống,
đồng âm
với lng trong tiếng Tày - Nùng hiện đại, cũng có nghĩa là
“rồng” Trong quá khứ xa xăm thì chữ này vốn dùng để chỉ
con cá sấu, như chúng tơi đã trình bày trong bài “Con rồng
chẳng qua là con cá sấu lên đời, trên Kiến thức Ngày nay
Xn
Canh
Thìn (năm
2000), với bút hiệu Huệ
Thiên. Vậy
khơng phải ngẫu nhiên mà /zổng là một trong hai âm tiết của
thuổng luồng mà thuồng luồng là một giống cá sấu. Thật vậy,
trong Cổ sử Việt Nam, Đào Duy Anh đã viết: “Người mình
gọi con crocodile (một lồi cá sấu nhỏ - AC) là thuồng luồng
mà sách chữ Hán của ta cũng gọi là giao long. Về sau trong
các sông ở Bắc nước ta, giống crocodile thành hiếm, thỉnh
thoảng thấy một con, người ta cũng gọi là thuồng luồng,
nhưng người thường khơng biết hình dạng nó thế nào nên
247
tưởng tượng nó là một giống thủy qi hình dạng như rắn”
(Sảd, tr.26). Tờ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) cũng giảng thuồng luồng
là “cá sấu” (nghĩa 2), bên cạnh nghĩa 1 là “lồi vật đữ ở dưới
nước, hình rắn, hay hại người” Con luồng (long) - cá sấu
này cũng có mặt trên trống đồng Ngọc Lũ, ở vòng tròn trong
cùng trên mặt trống. Ta thấy giữa những cánh sao của ngơi
sao 14 cánh là những hình quạt bằng nhau, giữa mỗi hình
quạt có hình một mũi tên chĩa về phía tâm của hình trịn,
mỗi bên có một cái hình tựa như một quả trứng nhỏ. Mỗi
hình quạt đó chính là một cái đầu cá sấu nhìn trực diện cách
điệu hóa từ cái đầu của một con cá sấu thật chỉ nổi lên khỏi
mặt nước với hai con mắt (là hai “quả trứng”) cịn thân hình
của nó thì trầm ở dưới nước.
Trang mang hittp://vi.oldict.com cing khang định rằng
“Tô-tem của người Việt nguyên thủy là con cá sấu” Thế là
trong tên của Lạc Long Quân, ta thấy có Hạc và Cá Sấu, đều
là hai lồi động vật mà tập tính sinh hoạt đã tìm thấy ở mơi
trường của vùng đầm hổ Động Đình và sơng Thao những
điều kiện hồn tồn thích nghi. Lạc Long Quân là vua của
vùng đầm hồ Động Đình, nơi đó, đứng đầu các lồi sống
dưới nước là Cá Sấu cịn đứng đầu các lồi có thể bay trên
trời là Hạc. Ý nghĩa của cái tên Lạc Long Quân, theo chúng
tơi, là như thế.
Đương thời số 39-40
Xn Nhâm Thìn - 2012
248
Do nghi
goi la Ngay Oudc gia Van ty
Các báo đưa tin cuộc tọa đàm “Nguyễn Van Vinh và hành
trình chữ quốc ngữ” do Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh phối
hợp với Nxb. Tri Thức tổ chức đã diễn ra vào chiều 17-2 tại
Hà Nội. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn
Văn Vĩnh đã có cơng trong việc phát triển tiếng Việt hiện đại.
Ơng là người có nhiều đóng góp vào việc truyền bá chữ quốc
ngữ với mục đích rõ ràng nhằm nâng cao dân trí, phát triển
văn hóa dân tộc bằng một công cụ mới. Các báo cũng cho
biết tại hội thảo lần này, các diễn giả đã cùng trao đổi về văn
bản kiến nghị Nhà nước xem xét lấy một ngày trong năm để
kỷ niệm chữ viết quốc gia (chữ quốc ngữ) và thành lập hội
đồng khoa học cấp nhà nước đánh giá toàn bộ sự nghiệp văn
hóa của Nguyễn Văn Vĩnh, vai trị lịch sử và những đóng góp
của ơng trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Có báo cịn chính
thức chạy tít “Cần có một ngày vinh danh chữ quốc ngữ”
Chính cái tít này làm cho chúng tơi băn khoăn.
“Cần có một ngày vinh danh chữ quốc ngữ”? Chúng tôi
cho rằng cách đặt vấn đề như thế này là hồn tồn khơng
hợp lý. Ai đã đặt ra chữ quốc ngữ và những kẻ đó đã đặt ra
249
thứ chữ này nhằm mục đích gì thì có vẻ như những người
nêu lên cái để nghị trên đây không cần hoặc khơng hề biết
đến. Xin thưa thẳng rằng đó là các cố đạo người phương Tây
và họ đã đặt ra thứ chữ đó chỉ vì một mục đích duy nhất là
truyền đạo (Công giáo). Dĩ nhiên là, như nhiều người đã
để xướng hoặc thừa nhận, trong việc sáng chế ra thứ chữ
này, khơng thể khơng có sự đóng góp của một số người Việt.
Nhưng dù cho những người Việt này có đóng góp đến đâu
thì họ cũng chỉ là những kẻ làm theo kế hoạch của mấy ông
cố đạo kia, đồng thời cũng chỉ đóng góp với cái ý thức là để
phụng sự cho tôn giáo mà họ là những tân tín đồ. Những
người Việt này cũng tuyệt đối khơng vì một quyền lợi nhỏ
nhoi nào của dân mình, nước mình cả (họ chỉ phụng sự cho
“nước Chúa” mà thôi). Trước đây, thực dân Pháp đã quy cái
công tập thể này về cho ông cố đạo Alexandre de Rhodes
nhằm tạo uy tín và gây cảm tình cho sự thống trị của chúng
trong lòng của người dân Việt Nam. Chúng đã mạo nhận A.
de Rhodes là người của Pháp nhưng sự mạo nhận này, gần
đây nhất đã bị một người Cơng giáo, đồng thời là một linh
mục vạch trần.
Người đó là Roland Jacques, người đã học xong chương
trình Ban cử nhân và tiền tiến sĩ về Việt học và Viễn Đông
học tại INALCO
(Học viện Quốc gia về Ngôn
ngữ và Văn
minh phương Đông), chuyên gia về Giáo luật Công giáo, Tiến
sĩ Luật học tại Đại học Paris XI và Tiến sĩ Giáo luật tại Học
viện Công giáo Paris, hiện là Khoa trưởng Phân khoa Giáo
luật tại Đại học Saint-Paul, Ottawa, Canada. Trong quyển Les
missionnaires portugais et les débuts de I’ Eglise catholique au
Viet-nam (Cdc nha truyén giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu
của Giáo hội Công giáo Việt Nam), in song ngữ Pháp - Việt,
T.1 (Định Hướng Tùng Thư, 2004), R. Jacques viết:
250
“Đến khi chữ quốc ngữ da bat dau được sử dụng chính
thức tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, người ta cố truy tìm
lịch sử của nó, bấy giờ tên tuổi Alexandre de Rhodes đã sớm
được công nhận như là người khai sinh ra việc chuyển vần
La Tinh vào tiếng Việt. Rồi từ đó ơng được nâng lên tận mây
xanh như một ngơi sao đứng một mình, soi sáng cho đêm tối
của quá khứ xa xưa(...). Chính quyền thực dân và Giáo hội
đều đã ca ngợi thiên tài truyền giáo và ngữ học có một khơng
hai của vị tu sĩ dịng Tên, tán dương những lợi ích đem lại
cho Việt Nam trong thời đại mới (...). Nhưng có những sự
việc thường được xem
là hiến nhiên tmmà thực sự lại sai...
(Chúng tôi nhấn mạnh - AC)? (Sảd, tr.27).
Đáng tiếc là cái sự sai trái bị lợi dụng để tuyên truyền này
vẫn con dé lai cai di hai đáng xấu hổ là một số người Việt
Nam vẫn còn để cao sự sáng chế chữ quốc ngữ một cách mù
quáng. Có người cịn vì muốn để cao nó mà hạ thấp vai trị
và tác dụng của chữ Nơm trong nền văn hóa của dân tộc.
Thậm chí có người, như tác giả Lại Ngun Ân, cịn cho rằng
“Khơng thể nói chữ Nơm
thuần Việt được, vì chữ Nơm
do
người Việt vay mượn từ tiếng Hán nên chịu nhiều ảnh hưởng
từ nền văn hóa Trung Hoa. Chữ quốc ngữ mới là ngôn ngữ
của người Việt” Cái câu một chục âm tiết này chứa đựng hai
cái sai rất ngớ ngẩn. Thứ nhất là cái sai mà TS. Trần Trọng
Dương đã nêu:
“Câu nói Chữ quốc ngữ ruới là ngôn ngữ của người Việt là
câu sơ suất nhất. Bởi lẽ “chữ viết” không thể là “ngôn ngữ”
được, chữ viết chỉ là cái vỏ ghi âm của ngôn ngữ mà thơi.
Như
tiếng Việt có lịch sử 12 thế kỷ. Từ
góc nhìn
lịch đại,
tiếng Việt có hai hệ thống ghi âm khác nhau. Thứ nhất là chữ
Nơm,
thứ hai là chữ quốc ngữ. Nói một cách dễ hiểu hơn,
251
chữ Nôm và chữ quốc ngữ là hai hệ thống chữ viết cho cùng
một ngơn ngữ: Tiếng Việt”
Cịn như nói rằng “chữ quốc ngữ mới là chữ của người
Việt” thì hiển nhiên là đã phớt lờ lịch sử một cách quá thô
thiển. Chữ Nôm là thứ văn tự đã giúp cho cha ông chúng
ta sáng tạo và ghi lại nhiều tác phẩm
đặc sắc, từ Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng đúc quốc âm thi tập đời Lê
Thánh Tông, Bạch Vân An quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh
Khiêm đến Truyện Kiểu của Nguyễn Du, v.v... và nhiều tác
phẩm khuyết danh khác thì chẳng có lẽ nó lại khơng phải của
người Việt? Thực ra, nếu khơng tiếc thì giờ, thì cịn có thể
phân tích kỹ thêm cái ý sau đây của Lại Ngun Ân: Khơng
thể nói chữ Nơm
thuần Việt được. Thế thì cái thứ chữ do
mấy ơng Tây đeo thánh giá đem từ nước của mấy ổng sang
thì thuần Việt chăng? Rõ ràng cái câu của ông Lại Nguyên
Ân chẳng qua là một lời nói đùa để góp vui cho seminar.
Cịn về thực chất thì, nói chung, chúng tơi tán thành ý
kiến của tác giả Trần Trọng Dương cho rằng “muốn xác định
cái nào là THUẦN
VIỆT ở góc độ văn tự học và văn hóa học,
thì chúng ta phải có một hệ tiêu ch:
Thứ nhất là về chủ thể sử dụng.
Thứ hai là về chủ thể sáng tạo.
Thứ ba là về #guồn gốc văn hóa.
Thứ tư là về thời điểm hình thành.
Thứ năm về mục đích chức năng.
Thứ sáu là về quãng thời gian sử dụng.
Thứ bảy là về số lượng văn bản cổ hiện còn.
252
Thứ tám là về nội dung đề cập.
Thứ chín là về sự góp mặt của các danh nhân.
Nói chung, chúng tơi thấy ý kiến của Trần Trọng Dương
có lý ở nhiều chỗ, mặc dù cũng có một số chỗ có thể bàn
thêm - và thực tế cũng đã có người nhận xét, chẳng hạn Đào
Tiến Thi. Mà ngay sự bắt bẻ của ơng Đào Tiến Thi nhiều chỗ
cũng đâu có lý, chẳng hạn: “Sao lại coi chữ quốc ngữ chỉ có ở
mỗi cộng đồng Thiên chúa giáo được?” Nhưng Trần Trọng
Dương hồn tồn đúng vì đã hạn định thời gian cụ thể là £ữ
giữa thế kỷ XX trở về trước. Ơng Thi cịn chứng minh sự lép
vế của chữ Nơm so với chữ Hán bằng câu:
“Sự coi rẻ văn Nôm
đến mức, Nguyễn Du sau khi viết
thiên tuyệt bút Truyện Kiểu vẫn phải có lời bạt để khẳng định
đây là Lời q cóp nhặt đơng dài dùng để mua vui mà thôi”
Nhưng xin thưa rằng “lời quê” ở đây là văn chương của
chính Nguyễn Du chứ đâu có phải là chữ Nôm.
Chúng tôi cho rằng sự tranh luận về vấn để này chưa chấm
dứt ngay được vì đây là chuyện lớn về ngơn ngữ và văn hóa
của dân tộc. Ta cần thận trọng. Về cá nhân Nguyễn Văn Vĩnh
và sự đóng góp của ơng trong lĩnh vực sử dụng chữ quốc ngữ
thì chúng tơi hồn tồn khơng có ý kiến. Chỉ xin nói rõ:
Việc đề nghị “Cần có một ngày vinh danh chữ quốc ngữ”
là một đề nghị hoàn toàn mơ hồ. Vinh danh nó cũng có
nghĩa là vinh danh ln mấy ông Tây đeo thánh giá và những
người Việt đã phụng sự cho việc truyền đạo của họ. Chúng
tôi để nghị gọi đó là “Ngày dân ta quyết định lấy chữ quốc
ngữ làm quốc gia văn tự”, gọi tắt là “Ngày Quốc gia Van tu”.
Đương thời số 43 (67) - 2012
253
Bung nao chat chia noi binh khi?
Trên một tờ tạp chí số 17 (tháng 11-2008), giải đáp câu
hỏi của độc giả, một vị giáo sư đã giảng câu thơ “Võ Mục
hung trung liệt giáp binh” trong bài “Minh Lương” của Lê
Thánh Tông là “Trong bụng Vũ Mục chất chứa binh khí?
Chúng tơi cảm thấy khơng an lịng vì vị giáo sư đã biến cái
bụng của ông Vũ Mục thành một kho binh khí. Thực ra thì
ở đây, Đức Vua của chúng ta đã dùng hai chữ giáp binh Fl E§
theo nghĩa bóng và cái nghĩa bóng này cũng đã được cho
sẵn trong từ điển. Xuất xứ của mấy chữ hưng trung liệt giáp
bình trong câu thơ của Lê Thánh Tơng là thành ngữ hung
trung giáp bỉnh lll !! !ỊL 1š. Hán Đại thành ngữ đại từ điển
do La Trúc Phong #' f† 4 chủ biên
xuất bản xã, Thượng Hải, 1997) cho
nay thì xuất xứ từ “Ihơi Hạo truyện”
nghĩa là bụng đầy thao lược. Vậy hai
được dùng theo nghĩa bong dé chi tai
quốc diễn nghĩa, hồi 33, cũng có chép
(Hán ngữ đại từ điển
biết chính thành ngữ
trong Ngụy thư và có
tiếng giáp binh ở đây
nang vé quan su. Tam
một bài thơ dân gian
ca ngợi Quách Phụng Hiếu với thành ngữ này:
Thiên sinh Quách Phụng Hiếu
Hào kiệt quán quần anh
254
Phúc nội tàng kinh sử
Hung trung ẩn giáp binh.
Lời thơ khẳng định họ Quách là một nhân vật văn (kinh
sử) võ (giáp binh) song toàn. Mà câu thơ Vũ Mục hung trung
liệt giáp binh của Lê Thánh Tơng thì rõ ràng là đã vận dụng câu
Hung trung ẩn giáp binh của bài thơ dân gian trên, trừ phi đây
là chuyện những tư tưởng đẹp gặp nhau một cách “kỳ diệu”
Vị Giáo sư không cần tra từ điển nên mới biến cái bụng
của ơng Vũ Mục thành một kho binh khí! Có thể có người
nói: “Ây, thì vị Giáo sư cũng dùng hai tiếng binh khí theo
nghĩa bóng đấy chứ!” Nhưng xin thưa rằng giáp binh trong
tiếng Hán thì có cái nghĩa bóng đã nói chứ xưa nay, cả trong
tiếng Việt tồn dân lẫn trong tiếng Việt văn học, hai tiếng
bình khí tuyệt đối khơng có cái nghĩa bóng đó. Vậy xin mạn
phép sửa chữ “khí” trong lời giảng của vị Giáo sư thành chữ
lược mà giảng câu thơ của Đức Vua thành: Bụng của Vũ Mục
chứa đầy binh lược.
Thằng Dallas là thằng nào?
Tạp chí Hồn Việt số 25 (7-2009) có đăng bài phỏng vấn
bà Bùi Mộng Điệp, “thứ phi” của Cựu hoàng Bảo Đại, do
nhà văn - nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thực hiện. Trả
lời câu hỏi đầu tiên của ơng Nguyễn Đắc Xn, bà Bùi Mộng
Điệp nói:
- (..) Trong thời gian sắp ký Hiệp định Genève, Dallas
gặp ông Bảo Đại ở nhà hàng gần hồ Léman (Thụy Sĩ). Hai
người khơng dám ngồi ăn trong nhà vì sợ gián điệp thu âm,
phải dọn ra ngoài vườn. Hai người Pháp theo hầu ông Bảo
Đại cũng cho ăn riêng ở một chỗ xa. Lúc về ông Bảo Đại bảo
255
tôi: “Thằng Dallas bảo đại ý là Ngài lùi đi. Ngài đừng về Việt
Nam nữa. Ngài cứ ngồi im ở bên này. Mỹ sẽ đuổi Pháp ra và
lấy Việt Nam lại cho”
Những lời trên đây dĩ nhiên là của bà Bùi Mộng Điệp.
Nhưng chữ thì hiển nhiên là của ơng Nguyễn Đắc Xn. Vậy
thì, với chữ của ơng Nguyễn Đắc Xuân, ta phải đặt câu hỏi:
- Thằng Dallas là thằng nào?
Và câu trả lời của chúng ta sẽ là:
- Chẳng có thằng Dallas nào cả.
Cịn cái thằng mà ơng Nguyễn Đắc Xuân ghi là “Dallas”
thì tên họ đầy đủ của hắn ta là John Foster Dulles. Họ của
han 1a Dulles chi khéng phải “Dallas” Có lẽ ơng Nguyễn Đắc
Xn chỉ nghe có cái âm chứ chưa nhìn thấy chữ nên mới
bién Dulles thanh Dallas. Dallas la tén của thành phố lớn thứ
ba cua bang Texas (My), sau Houston va San Antonio. Con
Dulles mới đúng là họ của ngoại trưởng Mỹ mà bà Bùi Mộng
Điệp
muốn
nói
đến.
John
Foster
Dulles
là Bộ
trưởng
Bộ
Ngoại giao của Mỹ từ 21-1-1953 đến 22-4-1959, trong nhiệm
kỳ tổng thống của Dwight D. Eisenhower. Ông ta là Trưởng
phái đoàn của Mỹ tại Hội nghị Genève 1954 về Đơng Dương.
Có thứ thủ đơ mà khơng phải là thủ đô
“Quán mắc cỡ” trên Tuổi trẻ cười số 365(1-10-2008) có
cặp hỏi - đáp sau đây. Độc giả Cart (Nam Định) hỏi: “Trên
An ninh Thế giới ngày 16-7-2008, tác giả Lê Đoàn viết: “Dự
án này là một phần của kế hoạch mà Linz (Austria) đang gấp
rút hoàn thành để được cơng nhận là thủ đơ kiểu mẫu văn
hóa châu Âu vào năm 2009” Phải chăng nước Áo đã “dời đô”
ra khỏi Viên, thưa cô Tú?” Cô Tú đáp gọn: “Thủ đô nước Áo
256
van dat tai Vienna, con Linz la mét trong những thành phố
lớn của nước này”
Hóa ra cả độc giả Cart lẫn cô Tú đều không hiểu vấn
dé. Van để là ơng Lê Đồn đã hồn tồn đúng: Thủ đơ văn
hóa châu Au (Phap: Capitale européenne de la culture, Anh:
European Capital of Culture, Tay Ban Nha: Capital Europea
đe la Cultura, Đức: Europäische Kulturhauptstadt,v.v.. ) là một
danh hiệu phong cho một hoặc hai thành phố của Liên minh
châu Âu từng năm một. Chủ trương này được Hội đồng Bộ
trưởng của Liên minh đưa ra ngày 13-6-1985 theo sáng kiến
của nữ Bộ trưởng Bộ Văn hóa Hy Lạp là Melina Mercouri
nhằm làm cho công dân các nước châu Âu hiểu biết nhau và
gần gũi nhau hơn. Danh hiệu ban đầu 1a Thanh phé (Ville,
City, Ciudad,
Stadt, v.v..) văn
hóa
châu Âu, đến năm
1999
mới đổi danh từ Thành phố thành Thủ đơ. Những thành phố
có vinh dự này sẽ tổ chức các sinh hoạt và những cuộc giao
lưu văn hóa, nghệ thuật theo đặc trưng riêng của mình. Năm
2009, Vilnius (Litva) và Linz (Áo) là Thủ đơ văn hóa châu Âu.
Quotient chứ khơng phải là “Quotation” hay “Questions”
Trong bài “Góp thêm với cuộc trao đổi cách dạy văn”
trén Van nghé (trung ương) số 13 (29-3-2008), tác giả Đỗ
Văn Khang có viết:
- “Vậy theo tơi, dạy học là dạy trí khơn cho học sinh. Có
hai thứ trí khơn đã được lập trình thành hai chỉ số đó là IQ
và EQ.
1Q (Intelligence Quotation) = Chỉ số thông minh.
EQ (Emotion Quotation) = Chỉ số nhạy cảm.
257
Như thế, dạy học là đào tạo năng lực người. Khi bám sát
hai chỉ tiêu trên, thì dạy văn sẽ dạy cái gì? Xin thưa, dạy cả hai
thứ. Nhưng day văn trước nhất là dạy sự nhạy cảm” (tr.21).
Chúng tôi khơng biết có phải dạy văn trước nhất là
đạy sự nhạy cảm hay không; chỉ biết chắc chắn rằng chỉ số
thông minh không phải là “Intelligence Quotation” mà là
Intelligence Quotient (IQ) cịn chỉ số nhạy cảm
cũng khơng
phai la “Emotion Quotation” ma la Emotion Quotient, chuaén
hon niia thi phai la Emotional Quotient (EQ), thường được
xem nhu 1a cach ni tat ctla Emotional Intelligence Quotient
(EIQ). Quotient méi la chi sé cht Quotation thi lai la su trich
dẫn, lời trích dẫn, câu trích dẫn, v.v...
Khác với tác giả Đỗ Văn Khang, tác giả Nguyễn Hoàng Đức
thi lai nhdm Quotient thanh “Questions” nén da viét trong “Van
đề của người trí thức Việt Nam học cịn chọc bát cơm?”:
“Phép thử chỉ số thơng minh
IQ (Intelligent Questions)
của thế giới hiện nay cũng dựa trên đặc tính này của ý thức, đưa
ra câu hỏi để chứng nghiệm “Yes or No?” (“Có hay khơng?”).”
Nhung question dau phải là chỉ số mà là câu hỏi nên cái
danh ngi Intelligent Questions ma éng Nguyén Hoang Dtic
đã cẩn thận chú thích trong ngoặc đơn chỉ có nghĩa là những
câu hỏi thơng minh chứ chỉ số thơng minh IQ thì phải là
Intelligence Quotient, nhu da ndi ở trên. Cuối cùng, xin nói
thêm rằng tuy “quotient” có nghĩa là “thương số” nhưng ta
quen dịch thành “chỉ số” Cách dịch này không vi phạm nội
dung của khái niệm gốc vì thực ra, ở đây, “thương số” cũng
chỉ là hạ danh (hyponym) mà “chỉ số” có thể được quan niệm
là thượng danh (hyperonym).
Người Đơ thị số 64 (10-1-2010)
258
Nod ty dong nquyén
Hum
là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi
bằng chữ jill, mà âm Hán - Việt chính thống hiện dai la ham,
có nghĩa là hổ trắng. Ở đây, ta có một sự mở rộng nghĩa từ hổ
trắng thành hổ nói chung. Sự mở rộng hoặc sự thu hẹp nghĩa
là một hiện tượng bình thường trong ngữ nghĩa học. Cùng
một từ gốc trong các ngôn ngữ Germanic mà Tïer của tiếng
Đức có nghĩa là động vật nói chung cịn đeer của tiếng Anh
thì chỉ dùng để chỉ hươu, nai. Trong tiếng Hán, bàn có nghĩa
là mâm nhưng đi vào tiếng Việt thì nó lại đồng nghĩa với cái
vật mà tiếng Anh, tiếng Pháp gọi là £able, trên đó người ta có
thể để cái mâm. Vậy thì từ hàm sang him, ta khéng có gì để
băn khoăn về mặt ngữ nghĩa.
Ngồi hum ra, hàm cịn có những điệp thức, tức biến thể
ngữ âm khác là: hạn, hồm, hầm. Ở đây, ta có một sự tương
ứng thật đẹp về phụ âm đầu [h] và thanh điệu (thanh 2, dấu
huyền) giữa hàm, hùm, hồm, hẩm. Còn về sự tương ứng giữa
thanh
2 (dấu huyền)
của hàm
với thanh
6 (dấu nặng)
hạm, ta có hàng loạt trường hợp tương tự:
- lề (trong lề thói) ~ lệ (trong luật lệ);
- lồn (trong lăng lồn) ~ loạn (trong nhiễu loạn);
259
của
- lổ (trong loã lồ) ~ lộ (trong lộ liễu);
- vì (trong bởi vì) ~ vi (chỉ nguyên nhân); v.v...
Hạm là một từ của phương ngữ Nam Bộ, như đã được
ghi nhận trong Dictionarium Anamitico Latinum (viét tay,
1772 - 1773) của Pigneaux de Béhaine, trong từ điển cùng
tên của J.L. Taberd (Serampore,
1838), Dai Nam
quéc am tu
vị của Huinh-Tinh Paulus Cua, Viét Nam tu dién cia Lé Van
Đức, v.v... Hạm là hổ to, cọp lớn.
Về sự tương ứng giữa nguyên âm “ô” của hổm với nguyên
âm “a” của hàm, ta cũng có nhiều trường hợp tương tự để
chứng minh:
- bạ (trong danh bạ) cũng đọc là bộ;
- hộp (trong đồ hộp) ~ hạp [H (= hộp);
- ném (trong gid nédm) ~ nam (trong nam bắc); v.v...
Về sự tương ứng giữa hổm với hừm thì, trước nhất,
“ơ” và “u” đều là ngun âm trịn mơi nên chuyển đổi với
nhau
là chuyện
hồn
tồn có thể xảy ra; huống
chi, thứ
đến, cả hồổm lan hum déu đã được ghi nhận như là những
bién thé trong Dictionarium Annamiticum,
Latinum
(TW dién Viét-B6-La)
Lusitanum et
cla A. de Rhodes
(Roma,
1651). Điều này chứng tỏ rằng vào giữa thế kỷ XVII thì
hồm và hùm vẫn còn đang tranh chấp với nhau một chỗ
đứng trong vốn từ vựng của tiếng Việt nhưng cuối cùng
thì hổm, xưa hon, da bi hum thay thế.
Cuối cùng, vé mdi tuong ting gitia hom va hdém thi ta co
mot su that hién nhién: hdm 1a mot biến thé ngữ âm hậu ky
cua hum, nhu có thể thấy trong một số bản phiên âm Truyện
260
Kiểu từ chữ Nôm sang chữ quốc ngữ, chẳng hạn bản của Tản
Đà. Biến thể nay đã tranh chấp với hửzn cái chỗ đứng chính
thức trong từ vựng tiếng Việt nhưng trong cuộc tranh chấp
này thì kẻ hậu sinh là hẩm
đã không đánh bật nổi bậc tiền
bối là hửzn nên đến nay chỉ còn sống lây lất trong thổ ngữ của
một số địa phương mà thơi.
Thế là ta có một dãy điệp thức (theo thứ tự thời gian mà
chúng tôi đoán định) như sau:
hồm ~ hàm ~ hạm ~ hum ~ ham.
Đây là ngũ tự đồng nguyên, năm chữ cùng gốc, trong
đó hàm là âm Hán - Việt chính thống trong thư tịch, đồng
thời là một hình vi rang buéc (bound morpheme)
con ham,
hém, hum, hém là âm ngoài thu tịch (nhưng tất nhiên vẫn
là âm
Hán
morpheme),
- Việt), đồng
là những
thời là những
hình vị tự do
(free
từ độc lập, có thể (hoặc từng) hành
chức một cách bình thường trong lời ăn tiếng nói hằng ngày.
Hùm không phải là một từ của khẩu ngữ
1ừ điển tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học do Hồng Phê
chủ biên, từ ấn bản 1992 cho đến những ấn bản gần đây, đều
khẳng định rằng hờn là một từ thuộc khẩu ngữ. Thật là một
sai lầm đáng tiếc. Bất cứ ai có cảm thức chính xác và nhạy
bén về tiếng Việt cũng đều có thể thấy rằng giữa hổ và hừm,
thi hum thiéng ma hé thi thường. “Khẩu ngữ” thế nào được
khi mà trong Truyện Kiểu, kiệt tác của văn học cổ điển Việt
Nam, him thi bao san ma hé thi bat vé 4m tin: miéng hum
noc ran (cau 2016), ban hum
bn sói (cau 2122), rau hum
ham én (cau 2167), truéng hum
(cau 2315), hum
thiêng (cầu
2516), kể răng hàm sới (câu 2670). Rồi ở ngồi đời thì người
261
dân u nước đã tơn vinh nhà u nước Hồng Hoa Thám là
Hùm thiêng n Thế. Cịn dân gian thì từ xửa từ xưa đã đúc
két: Hum chết để da, người ta chết để tiếng. Ở đây, nếu ta thay
hừm bằng hổ thì câu tục ngữ sẽ mất thiêng. Đã khơng nói
hum là một từ có tính chất văn chương thì chớ; tại sao lại nói
nó là một từ của khẩu ngữ?
Râu hùm thì oai ở chỗ nào?
Thật lịng, chúng tơi cũng khơng thấy râu hùm thì oai
vệ ở chỗ nào cả. Cứ nói cho khách quan thì chẳng qua
nó cũng cùng một “mẫu mẩ” với râu mèo mà thôi. Chẳng
qua nó ăn theo cái diện mạo tổng quát của con hổ, với cặp
mắt có tác dụng thơi miên (hổ thị đam đam), cái mõm
với
bốn cái răng nanh to chắc và sắc nhọn, cái đầu với ba màu
lông đen, trắng và da bò tạo thành những hoa văn gần
như những vịng trịn đồng tâm, cộng với đám lơng nhung
trắng xù ra chung quanh làm cho vẻ mặt càng thêm dữ
dẫn, v.v... Chứ riêng râu của nó thì...
Khốn
nỗi, trong Truyện Kiểu, để tả cái uy, cái dũng của
Từ Hải, thi hào Nguyễn Du lại viết:
Rau hum, ham én, may ngai;
Vai nam tdc réng, than mudi thuéc cao.
Duong dudng mét dang anh hào;
Côn quyển hơn sức, lược thao gồm tai.
Tài kể chuyện và kỹ xảo dùng từ của Nguyễn Du đã buộc
nhiều người phải suy nghĩ nát óc xem râu hùm thì oai ở chỗ
nào... mà hình như vẫn khơng thấy mấy ai giảng cho ra lẽ. Hễ
nói đến râu hùm của họ Từ thì có những tác giả thường hay
rẽ sang lối khác. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu viết:
262