Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

đáp án thi môn triết học chủ nghĩa duy vật lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.4 KB, 63 trang )

ĐÁP ÁN THI MÔN: TRIẾT HỌC - CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Đề 1: Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay.
Trả lời:
I- Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một phương thức sản xuất riêng. Đó là
cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định. Phương thức sản xuất vật chất là sự thống nhất biện chứng của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Ngoài công
cụ lao động, trong tư liệu sản xuất còn có đối tượng lao động. Phương tiện sản
xuất (đường sá, cầu cống, xe cộ, bến cảng, hệ thống kho chứa ) là yếu tố quan
trọng của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng, vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành
lực lượng sản xuất, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Các yếu
tố cấu thành lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho
lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quy định
các quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách
khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người.
1
C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự


nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản
xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và
quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”. Quan hệ sản xuất là hình
thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau,
tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát
triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện
chứng
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã
hội.
Khi trình độ lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính
chất cá nhân. Nó thể hiện ở chỗ chỉ một người có thể sử dụng được rất nhiều
công cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Như vậy tất yếu
dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu mang tính tư nhân (với nhiều hình thức) về tư
liệu sản xuất.
Khi sản xuất bằng máy ra đời, trình độ lực lượng sản xuất công nghiệp đòi
hỏi, một người không thể đảm nhiệm tất cả các khâu của quá trình sản xuất, mà
mỗi người chỉ phụ trách được một khâu trong dây chuyền sản xuất. Như vậy quá
trình sản xuất đòi hỏi phải có nhiều người tham gia, sản phẩm lao động là thành
quả của nhiều người. Ở đây, lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hóa, tất yếu
một quan hệ sản xuất thích hợp với nó là quan hệ sản xuất mang tính xã hội về
tư liệu sản xuất.
Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu
hiện ở chỗ:
2
- Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và

phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển
của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù
hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó,
quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực
lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản
xuất tất yếu đã dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới
ra đời thay thế. C.Mác đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng ,
các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản
xuất hiện có trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển.
Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy
trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại
một cuộc cách mạng xã hội”. Nhưng rồi quan hệ sản xuất mới này sẽ lại trở nên
không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển hơn nữa; sự thay thế
phương thức sản xuất lại diễn ra.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến thái
độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã
hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v và do đó tác động
đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách
giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế
3

bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua
các quy luật kinh tế xã hội, đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản. Tuy nhiên, việc
giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải
giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con
người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua
cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua
chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã
hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong
đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản nhất.
II. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta
khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách
mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày
càng nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước hết ta hãy phân tích trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay:
- Về công cụ lao động ở nước ta nhìn chung là thấp nhưng khá đa dạng:
+ Công cụ lao động thủ công chiếm phần lớn trong nông nghiệp.
+ Trong công nghiệp chiếm 60% lao động giản đơn, nhưng bên cạnh
những công cụ thủ công đã có những công cụ lao động ở trình độ cơ khí, hiện
4

đại hóa, tự động hóa. Những công cụ lao động này thậm chí đan xen nhau trong
cùng nhà máy, cơ sở sản xuất.
Phương Tây nhìn một cách đại thể đi từ lao động thủ công lên máy móc
cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở ta hiện nay cùng một lúc có tất cả ba loại.
- Về đối tượng lao động ở nước ta hiện nay cũng khá đa dạng
Văn minh nông nghiệp đối tượng lao động chủ yếu là đất đai, đối với
nước ta có nhiều.
- Văn minh cơ khí đối tượng lao động là nguyên vật liệu, nhà máy, xí
nghiệp
Kinh tế tri thức, thông tin: thông tin là đối tượng lao động ở Việt Nam
cũng có.
- Thích ứng với nhiều loại công cụ, đối tượng lao động như vậy, kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác
nhau, có kinh nghiệm kỹ năng của người lao động thủ công, giản đơn ; có kinh
nghiệm, kỹ năng của người lao động cơ khí, máy móc; có kinh nghiệm và kỹ
năng của người lao động đối với những máy móc hiện đại tự động hóa. Từ đó,
trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất ở những đơn vị sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau.
- Về khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay nhìn chung là thấp, chậm phát
triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước đứng đầu -> trình độ khoa
học kỹ thuật ở nước ta hiện nay cũng rất đa dạng.
Trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay nhìn chung là thấp
nhưng khá đa dạng, tức là nhiều trình độ. Theo quy luật thì quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay đa dạng, nhiều trình độ như vậy thì logic tất yếu đối với quan hệ sản
xuất, hay trong quan hệ sản xuất là chúng ta phải xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần. Hiện nay chúng ta có năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
5

Qua đó chúng ta có thể nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ quan duy
ý chí của thời kỳ 1975-1986 do chủ quan, nóng vội muốn đi nhanh lên chủ nghĩa
xã hội nên chúng ta đã đối lập tuyệt đối chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản
dẫn đến tư tưởng đồng nhất việc cải tạo các thành phần kinh tế không xã hội chủ
nghĩa với việc xóa bỏ nó, thiết lập ngay thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa
trên quan hệ sản xuất XHCN thuần nhất, đẩy QHSX vượt lên quá so với trình độ
của LLSX, xóa bỏ hinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xây dựng nền kinh tế hiện
vật tập trung quan liêu bao cấp. Đồng nghĩa với nó là ta đã đánh mất đi kiến
thức, kinh nghiệm về tổ chức, quản lý, phá đi nền móng cơ sở xây dựng, phát
triển kinh tế của mình. Do tả khuynh nóng vội, duy ý chí nên chúng ta cũng
không chú trọng tới hợp tác kinh tế quốc tế, tự cung tự cấp là chủ yếu, chỉ hợp
tác với một số nước trong phe XHCN, nhưng chủ yếu là nhận viện trợ của các
nước bạn bè trên thế giới.
Cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung chỉ thích hợp với nền kinh tế của
LLSX hiện đại, trong khi LLSX ở nước ta thì rất lạc hậu và không đồng đều, tư
duy ý chí của người lao động nước ta là tư duy làm ăn nông nghiệp tùy tiện, ý
thức tổ chức kỷ luật thấp, hầu hết người làm công tác tổ chức quản lý đều xuất
thân từ công nhân, nông dân lao động không có kiến thức, trình độ về tổ chức,
quản lý điều hành nên không thể thích nghi với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập
trung. Chúng ta thực hiện chế độ phân phối bình quân, cao bằng do đó không tạo
được động lực cho người sản xuất. Ngoài ra chính cơ chế quản lý kế hoạch hóa
tập trung đã sinh ra bệnh quan liêu, tả khuynh, nóng vội, xa dân trở nên phổ biến
trong đội ngũ những người làm nhiệm vụ tổ chức quản lý tử trung ương đến cơ
sở.
Cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung tỏ ra phù hợp với thời kỳ chiến
tranh, nó tập trung được sức người, sức của phục vụ chi viện cho tiền tuyến,
nhưng sau khi hòa bình lập lại, chúng ta đã duy trì quá lâu mô hình đó nên dẫn
tới nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
Trước tình hình khủng hoảng đó, đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra những
khuyết điểm sai lầm, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế xã hội; qua việc chỉ ra

6
nguyên nhân của những yếu kém sai lầm, Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi
mới, bắt đầu bằng đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, để từ đó đổi mới
cơ cấu kinh tế, chuyển nền kinh tế một thành phần sang nền kinh tế nhiều thành
phần, dựa trên cơ sở đa dạng các loại hình sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân),
phù hợp với trình độ và tính chất LLSX của nước ta đó là thấp và không đồng
đều.
"Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX).
"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
"Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc".
Từ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế chuyển sang đổi mới phương thức phân
phối: chuyển phương thức phân phối bình quân, bao cấp sang phương thức phân
phối theo hiệu quả của sản xuất, kinh doanh; chuyển mục tiêu nền sản xuất là

sản xuất ra những "sản phẩm" để chia nhau theo bìa, tem phiếu sang sản xuất
7
hàng hóa tuân theo quy luật giá trị. Điều này đã có tác dụng kích thích sản xuất,
kích thích người lao động ứng dụng khoa học, công nghệ để tạo ra nhiều sản
phẩm có chất lượng cao.
Trong bối cảnh hiện nay lực lượng sản xuất quốc tế hóa, giao lưu quốc tế
ngày càng mở rộng, quan hệ quốc tế ngày càng đa dạng, tình hình hợp tác- đấu
tranh - phụ thuộc rồi lại hợp tác phát triển "đan xen" chúng ta đã chủ trương
"đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa", chuyển từ cơ chế "đóng kín" với thế
giới bên ngoài sang cơ chế "mở" để Việt Nam hội nhập với cộng đồng quốc tế,
hội nhập với nền kinh tế thế giới đầy năng động. Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, nhất thiết
phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp. Muốn phát triển lực lượng sản xuất không có cách nào khác là phải
tiến hành công nghiệp hóa và kết hợp ngay từ đầu công nghiệp hóa với hiện đại
hóa, đồng thời gắn với phát triển kinh tế tri thức. Tranh thủ cơ hội thuận lợi do
bối cảnh quốc tế tạo ra và lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, trong đó đặc biệt coi trọng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội X đã nêu bật đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các
lĩnh vực khác
Việc khẳng định tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy mọi tiềm năng, năng lực
sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Giải phóng và phát triển mạnh mẽ LLSX
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, nâng cao năng suất lao động, đời sống

nhân dân được cải thiện, góp phần nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi nước kém
phát triển.
8
Tuy nhiên, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tự nó chứa đựng những
mâu thuẫn. Có những thành phần kinh tế vì lợi ích của mình có thể hoạt động
theo hướng TBCN. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã là nền
tảng của nền kinh tế nước ta song hiện nay còn chưa hoàn toàn thích nghi với cơ
chế thị trường, làm ăn còn kém hiệu quả, nên đang diễn ra cuộc đấu tranh "định
hướng" gay gắt. Vì vậy để thực hiện được sự định hướng XHCN trong điều kiện
nền kinh tế thị trường, thì việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
nhà nước giữ vai trò quyết định.
Sự vận dụng ngày càng đúng đắn hơn lý luận hình thái KTXH của chủ
nghĩa Mác trong những năm đổi mới vừa qua đã đem lại những thành tựu to lớn.
Đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vượt qua cơn chấn động chính
trị và sự hẫng hụt thị trường do những biến động ở Liên Xô Đông Âu gây ra.
Kinh tế phát triển, đời sống người dân được cải thiện, chính trị ổn định, an ninh
quốc phòng được giữ vững, địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng
cao.
9
Đề 2:
Đồng chí hãy phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trương
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay?
Trả lời:
I - Cơ sở lý luận
1. Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
(Xem câu 1)
2. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay.
Trước hết ta hãy phân tích trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay.

- Về công cụ lao động ở nước ta nhìn chung là thấp nhưng khá đa dạng:
+ Công cụ lao động thủ công chiếm phần lớn trong nông nghiệp.
+ Trong công nghiệp chiếm 60% lao động giản đơn, nhưng bên cạnh
những công cụ thủ công đã có những công cụ lao động ở trình độ cơ khí, hiện
đại hóa, tự động hóa. Những công cụ lao động này thậm chí đan xen nhau trong
cùng nhà máy, cơ sở sản xuất.
Phương Tây nhìn một cách đại thể đi từ lao động thủ công lên máy móc
cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở ta hiện nay cùng một lúc có tất cả ba loại.
- Về đối tượng lao động ở nước ta hiện nay cũng khá đa dạng
Văn minh nông nghiệp đối tượng lao động chủ yếu là đất đai, đối với
nước ta có nhiều.
Văn minh cơ khí đối tượng lao động là nguyên vật liệu, nhà máy, xí
nghiệp
Kinh tế tri thức, thông tin : thông tin là đối tượng lao động ở Việt Nam
cũng có.
- Thích ứng với nhiều loại công cụ, đối tượng lao động như vậy, kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác
nhau, có kinh nghiệm kỹ năng của người lao động thủ công, giản đơn; có kinh
nghiệm, kỹ năng của người lao động cơ khí, máy móc, có kinh nghiệm và kỹ
10
năng của người lao động đối với những máy móc hiện đại tự động hóa. Từ đó,
trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất ở những đơn vị sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau.
- Về khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay nhìn chung là thấp, chậm phát
triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước đón đầu-> trình độ khoa
học kỹ thuật ở nước ta hiện nay cũng rất đa dạng.
Trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay nhìn chung là thấp
nhưng khá đa dạng, tức là nhiều trình độ. Theo quy luật thì quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay đa dạng, nhiều độ như vậy thì logic tất yếu đối với quan hệ sản xuất,

hay trong quan hệ sản xuất là chúng ta phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần. Hiện nay chúng ta có năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn đến nhiều hình thức sở hữu, nhiều
hình thức phân phối. Ngày nay chúng ta có ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập
thể, tư nhân. Phân phối theo lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác, thông qua phúc lợi xã hội.
II. Cơ sở thực tiễn:
Nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, một nước thuộc địa
nửa phong kiến bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH không qua giai đoạn phát
triển TBCN. -> Con đường vô vàn khó khăn, vừa xây dựng lại phải vừa tìm con
đường đi, bước đi thích hợp cho mình.
Để xây dựng thành công CNXH phải có một nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và muốn phát triển lực lượng sản xuất phải
xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
1. Trước đổi mới:
Thời kỳ 1975-1986 do sai lầm trong nhận thức và tư duy, chúng ta rơi vào
tả khuynh, nóng vội, chủ quan, duy ý chí bất chấp quy luật khách quan, muốn di
nhanh lên chủ nghĩa xã hội nên chúng ta đã đối lập tuyệt đối chủ nghĩa xã hội
11
với chủ nghĩa tư bản dẫn đến tư tưởng đồng nhất việc cải tạo các thành phần
kinh tế không xã hội chủ nghĩa với việc xóa bỏ nó, thiết lập ngay thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên quan hệ sản xuất XHCN thuần nhất, đẩy
QHSX vượt lên quá xa so với trình độ của LLSX, xóa bỏ kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, xây dựng nền kinh tế hiện vật tập trung quan liêu bao cấp. Đồng
nghĩa với nó là ta đã đánh mất đi kiến thức, kinh nghiệm về tổ chức, quản lý,
phá đi nền móng cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế của mình. Do tả khuynh
nóng vội, duy ý chí nên chúng ta cũng không chú trọng tới hợp tác kinh tế quốc
tế, tự cung tự cấp là chủ yếu, chỉ hợp tác với một số nước trong phe XHCN,

nhưng chủ yếu là nhận viện trợ của các nước bạn bè trên thế giới.
Cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung chỉ thích hợp với nền kinh tế có
LLSX hiện đại, trong khi LLSX ở nước ta thì rất lạc hậu và không đồng đều, tư
duy ý chí của người lao động nước ta là tư duy làm ăn nông nghiệp tùy tiện, ý
thức tổ chức kỷ luật thấp, hầu hết người làm công tác tổ chức quản lý đều xuất
thân từ công nhân, nông dân lao động không có kiến thức, trình độ về tổ chức,
quản lý điều hành nên không thể thích nghi với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập
trung. Chúng ta thực hiện chế độ phân phối bình quân, cào bằng do đó không tạo
được động lực cho người sản xuất. Ngoài ra chính cơ chế quản lý kế hoạch hóa
tập trung đã sinh ra bệnh quan liêu, tả khynh, nóng vội, xa dân trở nên phổ biến
trong đội ngũ những người làm nhiệm vụ tổ chức quản lý từ trung ương đến cơ
sở.
Cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung tỏ ra phù hợp với thời kỳ chiến
tranh, nó tập trung được sức người, sức của phục vụ chi viện cho tiền tuyến,
nhưng sau khi hòa bình lập lại, chúng ta đã duy trì quá lâu mô hình đó nên dẫn
tới nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng tụt hậu so với sự tiến bộ chung
của các nước hàng chục đến hàng trăm năm.
2. Từ khi đổi mới:
Trước tình hình khủng hoảng đó, đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra những
khuyết điểm sai lầm, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế xã hội; qua việc chỉ ra
nguyên nhân của những yếu kém sai lầm, Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi
12
mới, bắt đầu bằng đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, để từ đó đổi mới
cơ cấu kinh tế, chuyển nền kinh tế một thành phần sang nền kinh tế nhiều thành
phần, dựa trên cơ sở đa dạng các loại hình sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân),
phù hợp với trình độ và tính chất LLSX của nước ta đó là thấp và không đồng
đều.
"Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển qua độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học

và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức
tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ" (Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX).
"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
" Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc".
Từ đổi mới cơ cấu kinh tế chuyển sang đổi mới cơ chế quản lý: chuyển cơ
chế quản lý hành chính tập trung quan liêu sang quản lý theo cơ chế thị trường
nhằm phát huy mọi tiềm lực (nội lực, ngoại lực) của các thành phần kinh tế, khai
thác tiềm lực kinh tế nước ngoài để phát triển lực lượng sản xuất.
Từ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế chuyển sang đổi mới phương thức phân
phối: chuyển phương thức phân phối bình quân, bao cấp sang phương thức phân
13
phối theo hiệu quả của sản xuất, kinh doanh; chuyển mục tiêu nền sản xuất là
sản xuất ra những "sản phẩm" để chia nhau theo bìa, tem phiếu sang sản xuát
hàng hóa tuân theo quy luật giá trị. Điều này đã có tác dụng kích thích sản xuất,
kích thích người lao động ứng dụng khoa học, công nghệ để tạo ra nhiều sản
phẩm có chất lượng cao.
Trong bối cảnh hiện nay lực lượng sản xuất quốc tế hóa, giao lưu quốc tế
ngày càng mở rộng, quan hệ quốc tế ngày càng đa dạng, tình hình hợp tác - đấu

tranh - phụ thuộc rồi lại hợp tác phát triển "đan xen" chúng ta đã chủ trương
"đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa", chuyển từ cơ chế “đóng kín” với thế
giới bên ngoài sang cơ chế “mở” để Việt Nam hội nhập với cộng đồng quốc tế,
hội nhập với nền kinh tế thế giới đầy năng động. Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, nhất thiết
phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp. Muốn phát triển lực lượng sản xuất không có cách nào khác là phải
tiến hành công hóa và kết hợp ngay từ đầu công nghiệp hóa với hiện đại hóa,
đồng thời gắn với phát triển kinh tế tri thức. Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, trong đó đặc biệt coi trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội X đã nêu bật đường lối đối
ngoại độc lạp tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác
Sự vận dụng ngày càng đúng đắn hơn lý luận hình thái KTXH của chủ
nghĩa Mác trong những năm đổi mới vừa qua đã đem lại những thành tự to lớn.
Đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vượt qua cơn chấn động chính
trị và sự hụt hẫng thị trường do những biến động ở Liên Xô Đông Âu gây ra.
Việc khẳng định tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
14
tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy mọi tiềm năng, năng lực sáng tạo
trong sản xuất kinh doanh. Giải phóng và phát triển mạnh mẽ LLSX phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực,nâng cao năng suất lao động, đời sống nhân dân
được cải thiện, góp phần nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi nước kém phát triển.
Đường lối đúng đắn đó đã tạo ra động lực lớn thúc đẩy nền kinh tế đất
nước phát triển, thực hiện công cuộc đổi mới chúng ta đã thu được nhiều thắng

lợi to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. GDP bình quân tăng 7,51%,
bình quân thu nhập đầu người đạt trên 640 USD, kinh tế vĩ mô tương đối ổn
định, cơ cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại
hống
Thể chế kinh tế thị trường XHCN bước đầu được xây dựng. Thị trường
hàng hóa phát triển tương đối nhanh, một số thị trường hàng hóa mới ra đời.
Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất
quan trọng.
Văn hóa và xã hội tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn phát triển kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, đời sống các tầng lớp nhân dân
được cải thiện, chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường;
quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN có tiến bộ cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Vai trò lãnh đạo của Đảng tiếp tục
được tăng cường.
Tuy nhiên,nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tự nó chứa đựng những
mâu thuẫn. Có những thành phần kinh tế vì lợi ích của mình có thể hoạt động
theo hướng TBCN. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng
của nền kinh tế nước ta song hiện nay còn chưa hoàn toàn thích nghi với cơ chế
thị trường, làm ăn còn kém hiệu quả, nên đang diễn ra cuộc đấu tranh định
hướng gay gắt. Vì vậy để thực hiện được sự định hướng XHCN trong điều kiện
kinh tế thị trường, thì việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà
nước giữ vai trò quyết định.
15
Đề 3+4
"Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng
sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người đã thay đổi
phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách
kiếm sống của mình, loài người thay đỏi cả những quan hệ xã hội của mình.
Cái cối xay chạy bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng

hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp".
- Đề 3: Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nói rõ yêu cầu với
việc phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay?
- Đề 4: Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nói rõ ý nghĩa của
vấn đề này từ đó đề ra một số giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất ở
Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
I. Cơ sở lý luận
Sản xuất vật chất là một hình thái hoạt động thực tiễn quan trọng, diễn ra
ở một phạm vi rộng lớn trong suốt chiều dài lịch sử, mỗi giai đoạn lịch sử luôn
có những " cách thức" sản xuất vật chất khác nhau, Mác gọi đó là phương thức
sản xuất.
Vậy, phương thức sản xuất là gì? Phương thức sản xuất là cách thức con
người tiến hành sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội
loài nguwoif.
Với một cách thức sản xuất nhất định của sản xuất xã hội, trong đời sống
xã hội sẽ xuất hiện những tính chất, kết cấu đặc điểm tương ứng về mặt xã hội.
Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của một xã
hội cụ thể, thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính
chất cách mạng. Dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại lịch
sử mà người ta biết được thời đại kinh tế đó thuộc về hình thái kinh tế - xã hội
nào.
Trong quá trình sản xuất, con người có quan hệ "song trùng": quan hệ của
con người với tự nhiên (gọi là lực lượng sản xuất), quan hệ của con người với
16
con người (gọi là quan hệ sản xuất). Phương thức sản xuất chính là sự thống
nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất
tương ứng.
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội,
quan hệ giữa những con người trong xã hội, Các Mác viết :" Những quan hệ xã

hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực
lượng sản xuất mới, loài người đã thay đổi phương thức sản xuất của mình, và
do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình,loài người thay đổi
cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay chạy bằng tay đưa lại xã hội có
lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đư lại xã hội có nhà tư bản công
nghiệp".
Quan điểm trên của Các Mác đã khái quát một cách đầy đủ về mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội, mà trong đó quan hệ sản xuất, là
quan hệ cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội. Đồng thời Các Mác
cũng đã chỉ ra vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ
xã hội và sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất là quan hẹ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quy định
các quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách
khách quan quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. C. Mác viết : "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự
nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản
xuất được,người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau;
và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất". Quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của sản xuất, giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với
17
nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối với sự vận động, phát
triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động.Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ

giữa con người với tự nhiên. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng
sản xuất cấu thành từ nhiều yếu tố: Người lao động, tư liệu sản xuất trong đó
công cụ lao động là yếu tố quyết định. Ngoài công cụ lao động,trong tư liệu sản
xuất còn có đối tượng lao động, phương tiện sản xuất (đường sá, cầu cống, xe
cộ, bến cản, hệ thống kho chứa ) là yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất.
Đặc biệt là khoa học, trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng, vừa thâm nhập vào các yếu tố
cầu thành lực lượng sản xuất, đem lại sự thay đổi về chất lượng sản xuất. Các
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan là
cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất.
Sự vận động phát triển của xã hội bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển
của lực lượng sản xuất, trong đó có công cụ lao động là yếu tố động nhất. Theo
quy luật khách quan, xu hướng sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và
phát triển. Xuất phát từ yêu cầu sinh tồn và mục đích, nhu cầu của cuộc sống
con người, con người không bao giờ thỏa mãn với những cái đã có, mà thường
xuyên nảy sinh những nhu cầu cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu ấy, con người phải
thường xuyên khám phá tự nhiên, chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên, qua đó
làm phong phú tri thức kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo của mình, trên
cơ sở ấy sáng tạo ra những công cụ sản xuất mới tiến bộ hơn. Quá trình đó làm
cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng.
Vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội,
cũng chính là vai trò quyết định của nó đối với quan hệ sản xuất. Lực lượng sản
xuất trong đó có công cụ lao động phát triển kéo theo sự thay đổi, phát triển của
quan hệ sản xuất, vì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất, từ đó làm cho phương thức sản xuất thay đổi, phát triển, cũng có nghĩa là
18
thay đổi phương thức, cách thức sản xuất của một thời đại kinh tế, Mác viết "Do
có được những lực lượng sản xuất mới loài người thay đổi phương thức sản
xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuât, cách kiếm sống của mình,

loài người thay đổi cả những quan hệ xã hội " Những thời đại kinh tế khác
nhau không phỉa ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà chúng sản xuất bằng cách
nào với những tư liệu lao động nào.
Sự phát triển của quan hệ sản xuất cũng có nghĩa là sự phát triển của hạ
tầng cơ sở, từ đó kéo theo sự phát triển của thượng tầng kiến trúc, từ đó kéo
theo sự thay đổi phát triển của toàn bộ hình thái kinh tế xã hội.
Như vậy, từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất, của công cụ lao động đã
làm biến đổi thay đổi toàn bộ xã hội, "Những quan hệ đều gắn liền mật thiết với
những lực lượng sản xuất. Do có được lực lượng sản xuất mới, loài người đã
thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuât,
cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi cả những quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay chạy bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy
bằng hơi nước đư lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp".
Từ những cơ sở lý luận trên giúp ta nhận thức một cách khoa học, đúng
đắn về vai trò của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của xã hội loài người,
hay có thể nói một cách khác sự phát triển của lực lượng sản xuất chính là nguồn
gốc của sự phát triển xã hội loài người.
II. Yêu cầu đối với việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện
nay
Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng
cao đời sống nhân dân, phát triển xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực
để phát tiển lực lượng sản xuất. Muốn vậy chúng ta phải:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, nhất thiết phải ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. . Muốn phát triển lực lượng
sản xuất không có cách nào khác là phải tiến hành công hóa và kết hợp ngay từ
đầu công nghiệp hóa với hiện đại hóa, đồng thời gắn với phát triển kinh tế tri
19
thức. Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và lợi thế của nước ta
để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng

XHCN, trong đó đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn, giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Phát triển mạnh mẽ khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ. Trong sự
nghiệp đổi mới, khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta thấy cần
và có thể rút ngắn thời gian bằng những bước nhảy vọt xen lẫn những bước tuần
tự. Đảng ta đã đề ra chủ trương: tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức
cao và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ từng bước
phát triển kinh tế tri thức.
Sau 20 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều,tuy
"từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như công
nghệ thông tin, in- tơ - nét, điện thoại di động trong giai đoạn 2001 - 2005 đá
phát triển khá nhanh. Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần
Lan, Ấn Độ biết kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng
trwuognr kinh tế khá cao. Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tể tạo ra,
kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển tri thức,Đảng ta đã để
ra đường lối : "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức".
Trong bối cảnh toàn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển, tuy
chưa có công nghiệp hiện đại ,công nghệ cao nhưng biết chủ động hội nhập kinh
tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực thích hợp, thì vẫn
có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức. Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế
nông nghiệp và là nước đang phát triển thu nhập thấp,nhưng biết phát huy đội
ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công
nghệ cao, qua chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn
thời gian để tiến nhanh hơn. Muốn vậy,phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao
vủa phát triển kinh tế tri thức và vận dụng ngay vào công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong các lĩnh vực cần thiết.
20
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ : Tranh thủ thời cơ thuận
lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng
nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Như
vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ và vững chắc để xây dựng đường lối đúng
đắn, tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa sớm đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Phát triển nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực có chất lượng cao,
nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, giáo dục. Văn kiện Đại hội X khẳng định:
"Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc , gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển
kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội".Để văn hóa thật sự làm nền tảng tinh thần của xã hội, phải nâng cao chất
lượng,hiệu quả của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ - những lĩnh vực
được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.Lực
lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi nó xây dựng một quan hệ sản xuất phù
hợp. Quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là cơ sở lý luận để Đảng ta vận dụng trong việc xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải thực hiện
phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm
giải phóng sức sản xuất, giải phóng tiềm năng phát triển trong mỗi thành phần
kinh tế, mỗi cá nhân, mỗi vùng miền là cách để phát huy tối đa nội lực, tạo sức
bật để phát triển nhanh và bền vững. Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy mọi tiềm năng , năng
lực sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, nâng cao năng suất lao
21
động,đời sống nhân dân được cải thiện, góp phần nhanh chóng đưa nước ta ra

khỏi nước kém phát triển.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, nhà nước: sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là
điều kiện chính trị tiên quyết bảo đảm có một Nhà nước đủ mạnh, trong sạch để
quản lý toàn bộ quá trình phát triển kinh tế thực hiện theo định hướng XHCN.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tự nó chứa đựng những mâu thuẫn. Có
những thành phần kinh tế vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo hướng
TBCN. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã là nền tảng của nền
kinh tế nước ta song hiện nay còn chưa hoàn toàn thích nghi với cơ chế thị
trường, làm ăn còn kém hiệu quả, nên đang diễn ra cuộc đấu tranh "định hướng"
gay gắt. Vì vậy để thực hiện được sự định hướng XHCN trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, thì việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà
nước giữ vai trò quyết định.
Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định lại vai trò chủ đạo, nền tảng trong chế
đạo kinh tế XHCN của nền kinh tế nhà nước : "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền
kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khách cùng phát
triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân". Mặc dù khẳng định lại quan điểm của các
kỳ Đại hội trước, nhưng đại hội Đảng lần thứ X cũng làm rõ nội hàm của khái
niệm chủ đạo của kinh tế nhà nước:
Một là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng
nền kinh tế quốc dân, hai là, kinh tế nhà nước là sức mạnh đằng sau các chính
sách điều tiết của Nhà nước, Ba là, hoạt đọng của kinh tế nhà nước nhằm để tạo
môi trường chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho doanh
nghiệp nhà nước; bốn là, khẳng định lại một lần nữa kinh tế nhà nước có nội
hàm rộng hơn doanh nghiệp nhà nước, hay nói cách khác, doanh nghiệp nhà
nước chỉ là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước.
22
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc

tế. Trong bối cảnh hiện nay lực lượng sản xuất quốc tế hóa, giao lưu quốc tế
ngày càng mở rộng, quan hệ quốc tế ngày càng đa dạng, tình hình hợp tác - đấu
tranh - phụ thuộc rồi lại hợp tác phát triển "đan xen" chúng ta đã chuyển từ cơ
chế "đóng kín" với thế giới bên ngoài sang chế "mở" để Việt Nam hội nhập với
cộng đồng quốc trế, hội nhập với nền kinh tế, thế giới đầy năng động giúp chúng
ta tiếp cận với khoa học công nghệ của các nước tư bản phát triển, tham gia vào
quá trình phân công lao động quốc tế, chuyển giao công nghệ Văn kiện Đại
hội X đã nêu bật đường lối đối ngoại độc lạp tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa,đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực khác
Tóm lại: Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Và muốn phát triển lực
lượng sản xuất phải xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay "Để đi lên CNXH, chúng
ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện
đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế" (Văn kiện Đại hội X).
23
Đề 5:
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có
viết: “Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của đảng ta về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội”.

Đồng chí hãy giải thích cơ sở lý luận của chủ trương trên, nêu rõ
những thuận lợi, khó khăn và những giải pháp cơ bản để thực hiện chủ
trương này.
Trả lời:
I- Cơ sở lý luận
Kinh tế thị trường tồn tại trong nhiều chế độ khác nhau, là một phương
thức phát triển sức sản xuất, kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có
tính độ lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó
tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có
một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển,
mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế
hàng hóa cụ thể. Điều này phù hợp với nhận định của C.Mác: “sản xuất hàng
hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản
xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không
giống nhau chúng ta hoàn toàn chưa biết một tí gì về những đặc điểm riêng
của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những
phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù trừu tượng của
lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các phương thức ấy”.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và
phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành
và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách
biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh
tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên
24
CNXH. Do vậy, trong chủ nghĩa tư bản và trong CNXH đều tồn tại kinh tế thị
trường, nhưng có những đặc trưng khác nhau. Kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là nền kinh tế thị trường phục vụ
lợi ích của giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường
là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ

bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao
cấp sang phát triển niền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thể
hiện; mục tiêu của nền kinh tế đạt đến một xã hội (dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh). Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát
triển sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, nâng cao
đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người dân
vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá
giả hơn.
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, trong
đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. (Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và và thúc đẩy các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân ). Mặc dù khẳng
định lại quan điểm của các kỳ Đại hội trước, nhưng Đại hội Đảng lần thứ X
cũng làm rõ nội hàm của khái niệm chủ đạo của kinh tế nhà nước: Một là, kinh
tế nhà nước là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh tế
quốc dân; hai là, kinh tế nhà nước là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết
của Nhà nước; ba là, hoạt động của kinh tế nhà nước nhằm để tạo môi trường
chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho doanh nghiệp nhà
25

×