Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Mô hình tố tụng hình sự một số quốc gia điển hình trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.27 KB, 13 trang )

MƠ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH TRÊN
THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Bành Quốc Tuấn
Lương Khải Ân
Trịnh Tuấn Anh
Tóm tắt: Bài viết phân tích, và đánh giá các mơ hình tố tụng hình sự tại một số quốc
gia điển hình trên thế giới hiện nay (Hoa Kỳ, Cộng hịa Pháp). Từ đó đề xuất các kinh
nghiệm cho mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở phù hợp thực tiễn thủ tục tố tụng
hình sự và đảm bảo phù hợp với thơng lệ quốc tế.
Từ khóa: Mơ hình tố tụng hình sự, tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng hình sự
Abstract: The article analyzes and evaluates criminal procedure models in some
typical countries in the world today (the United States, the French Republic). From there,
we propose experiences for the Vietnamese criminal procedure model on the basis of being
consistent with the practice of criminal procedures and ensuring compliance with
international practices.
Keywords: Criminal procedure model, criminal procedure, criminal procedural law
1. Dẫn nhập
Mơ hình tố tụng hình sự theo cách hiểu chung nhất, là cách thức tổ chức hoạt động tố
tụng hình sự tìm đến sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị
tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của tố
tụng hình sự (TTHS) và cả trình tự, thủ tục và các điều kiện để tiến hành các hành vi tố tụng
cụ thể trong quá trình giải quyết vụ án hình sự1. Trên thế giới hiện nay có nhiều mơ hình
TTHS khác nhau tùy theo truyền thống pháp luật. Đa số mọi người thường hay nhắc đến hai
mơ hình TTHS phổ biến là mơ hình tố tụng tranh tụng (điển hình Hoa Kỳ); mơ hình thẩm


PGS.TS., Viện Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Thủ Dầu Một (TDMU) - Chủ tịch hội đồng khoa
học Trung tâm TTTM Phía Nam (STAC)

TS.LS., Viện Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Thủ Dầu Một (TDMU)



ThS.,Trường Đại học Kiến Trúc Đà Nẵng - Hòa giải viên Trung tâm TTTM Phía Nam (STAC); Email:

1
Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thủy (2010), “Hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải
cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 17(178), tr.5-11
94


vấn (điển hình Cộng hịa Pháp)2. Trong những năm gần đây, dưới tác động sâu sắc của tồn
cầu hóa, pháp luật các quốc gia theo mơ hình tố tụng thẩm vấn ở Châu Á, Mỹ La Tinh đã
đưa vào áp dụng một số yếu tố tranh tụng; và điều này đã dẫn đến một xu hướng về mơ hình
TTHS pha trộn. Tuy nhiên, khoa học tư pháp hình sự Việt Nam, và nước ngồi có nhiều
quan điểm cho rằng: “Chỉ có hai loại mơ hình tố tụng đặc trưng là mơ hình TTHS thẩm vấn,
và mơ hình TTHS tranh tụng; hai loại mơ hình đã tiếp thu, ảnh hưởng lẫn nhau mà khơng
tồn tại mơ hình TTHS pha trộn3”. Dù theo quan điểm nào thì về cơ bản khoa học tư pháp
hình sự Việt Nam và thế giới đều thừa nhận có hai mơ hình TTHS chủ yếu là tranh tụng,
điển hình là mơ hình TTHS của Hoa Kỳ; và thẩm vấn, điển hình là mơ hình TTHS của Cộng
Hịa Pháp.
2. Mơ hình tố tụng hình sự một số quốc gia điển hình trên thế giới
2.1. Mơ hình tố tung hình sự của Hoa Kỳ
Mơ hình TTHS của Hoa Kỳ điển hình của mơ hình TTHS tranh tụng là điều khơng
phải bàn cãi. Nhìn cách tổng quan, với đặc trưng của hệ thống pháp luật không thành văn,
Hoa Kỳ không có Bộ luật TTHS tồn diện, các quy tắc TTHS liên bang bao gồm 61 quy tắc
thủ tục, quy định về các thủ tục giải quyết một vụ án hình sự4. Nghiên cứu cho thấy, mơ hình
TTHS của Hoa Kỳ có một số đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, có sự phân định rành mạch quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
tố tụng.
(i) Bên buộc tội bao gồm cơ quan điều tra; và cơ quan công tố [Cần lưu ý trong mơ
hình TTHS Hoa Kỳ, cơng tố viên khơng có bất cứ quyền hạn giám sát nào đối với cơ quan
điều tra, Tòa án. Chức năng duy nhất của văn phịng Cơng tố là truy tố].

(ii) Bên gỡ tội gồm người bị tình nghi phạm tội (Nghi can, bị can; và bị cáo); và luật
sư bào chữa. Trong mơ hình TTHS Hoa Kỳ, quyền của người bị tình nghi phạm tội được mở

Robert Strang, “More adversarial, but not completely adversarial”: Reformasi of the Indonesian criminal
procedure code, 32 Fodham Int’l L.R. 188, trang 129
3
Nguyễn Ngọc Kiện (Sách chuyên khảo- chủ biên năm 2019), “Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm”, Nxb. Tư pháp.
4
Federal Rules of Criminal Procedure, [ (truy cập ngày 1/6/2021)
95
2


rộng và triệt để tôn trọng thông qua quyền được im lặng (quy tắc mirada), ngun tắc suy
đốn vơ tội….5
Trong giai đoạn điều tra, và truy tố để cân bằng với vị thế của cơ quan điều tra, văn
phịng cơng tố, pháp luật Hoa Kỳ quy định quyền hạn của luật sư bào chữa tương đối rộng
rãi. Theo đó, sau khi hồ sơ vụ án và bị cáo đã được chuyển tịa án thì sự tham gia của luật sư
bào chữa là bắt buộc trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng tại tịa án, và luật sư phải
tham gia mọi phiên điều trần tại tòa án, trừ khi bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa6.
(iii) Tòa án với tư cách là người ra phán quyết dựa trên kết quả tranh tụng giữa hai
bên, tức là công tố viên và luật sư bào chữa. Thẩm phán và bồi thẩm đồn thường khơng
nhận và nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi phiên xét xử diễn ra. Tuy nhiên, nếu lời buộc tội
rõ ràng khơng có cơ sở pháp lý thì theo yêu cầu của bị cáo và luật sư, tịa án có thể bác bỏ
ngay lập tức những lời buộc tội7. Thẩm phán và bồi thẩm đồn khơng thu thập chứng cứ mà
chỉ nghe, cân nhắc bên nào đưa ra chứng cứ hợp pháp, lập luận có căn cứ hơn để ra phán
quyết thuyết phục. Cụ thể, trong lúc nghị án tại Tịa án, bồi thẩm đồn chỉ xem xét lại lời
khai của các nhân chứng, và văn bản, vật chứng mà thẩm phán đã chấp nhận làm chứng cứ;
và bồi thẩm đoàn đã nghe hoặc thấy trong phần xét xử. Trong q trình nghị án, bồi thẩm

đồn sẽ giải quyết bất cứ vấn đề nào liên quan đến mức độ tin cậy của nhân chứng (tức là
nhân chứng nào có thể tin được, nhân chứng nào khơng thể tin được). Trong quá trình nghị
án, sau khi giải quyết tất cả các tranh cãi về tình tiết vụ án và quyết định tình tiết vụ án, bồi
thẩm đồn sẽ áp dụng luật nào theo sự chỉ dẫn của thẩm phán đối với các tình tiết đó, và ra
quyết định của mình. Phán quyết phải được tất cả nhất trí8.
Thứ hai, quy tắc chứng cứ (rules of evidence) là nhân tố chi phối toàn bộ các hoạt
động tố tụng.
*Quy tắc loại trừ chứng cứ

Xem thêm: Trịnh Tuấn Anh, Nguyễn Thị Thanh Nhã (2019), “Nguy tắc suy đốn vơ tội và quyền được im
lặng trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, Số 38, tr. 8 - 15.
6
Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013), “Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ”,
Nxb.Chính trị Quốc gia,
7
Irving R. Kaufman, Criminal Procedure in England and the United States: Comparisons in Initiating
Prosecutions, 49 Fordham L. Rev. 26 (1980).
8
Alan B. Morrison, “Fundamentals of American Law”, Oxford University Press, 2007.
96
5


Án lệ Weeks v. United States đã ghi nhận rằng, nếu một bằng chứng được các cơ quan
tố tụng thu thập một cách trái phép vi phạm các quyền nhất định của bị can/bị cáo mà hiến
pháp quy định chẳng hạn, quyền không bị khám xét và giam giữ một cách bất hợp lý thì
bằng chứng đó sẽ bị loại ra khỏi q trình xét xử và khơng được phép sử dụng để chống lại
bị cáo9.
* Quy tắc liên bang về bằng chứng
Ở Hoa Kỳ, quy tắc liên bang về bằng chứng được hiểu là, trước khi thông tin hay bất

kỳ đối tượng nào có thể được sử dụng làm bằng chứng chống lại bị can/bị cáo thì thơng tin
đó hoặc những đối tượng đó đầu tiên phải được cơng tố viên trình bày tại tịa án trong một
phiên xét xử dưới hình thức lời khai của một nhân chứng có thẩm quyền và trước mặt bồi
thẩm đồn. Hơn nữa, lời khai đó và những đối tượng nêu trên phải đáp ứng các yêu cầu về
chấp nhận bằng chứng (hợp pháp) nêu trong các quy tắc liên bang về bằng chứng; lời khai
miệng phải được các bị can kiểm tra chéo; và lời khai hay các đối tượng này phải được tịa
án chính thức cơng nhận là bằng chứng của vụ án10.
*Quy tắc chứng cứ tiềm năng
Án lệ của Hoa Kỳ đã ghi nhận rằng, cơng tố viên có nghĩa vụ phải tiết lộ cho bị can/bị
cáo khi yêu cầu về bất kỳ bằng chứng tiềm năng nào mà công tố viên đang có; bằng chứng
đó có thể có lợi cho bị can/bị cáo về mặt tội danh hay vấn đề trừng phạt (kết án) sau này11.
Thứ ba, chế định mặc cả nhận tội và nguyên tắc tùy nghi truy tố.
* Chế định mặc cả nhận tội
Theo Từ điển Black’s Law thì mặc cả nhận tội là một thỏa thuận giữa bên buộc tội và
bên bào chữa trong đó bị cáo thừa nhận hành vi phạm của mình để đổi lấy một bản án nhân
đạo hơn và tránh việc bị xét xử tại tịa12. Trong mơ hình TTHS Hoa Kỳ thì mặc cả nhận tội
là sự thỏa thuận song phương giữa công tố viên và người bị buộc tội, trong đó, cơng tố viên
sẽ tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự theo hướng có lợi cho người bị buộc tội để đổi lại lời

Robert M. Bloom and David H. Fentin, “A More Majestic Conception: the Importance of Judicial Integrity
in Preserving the Exclusionary Rule ", University of Pennsylvania Journal of Constitutional Law 13, no.1
(2010): 47
10
Alan B. Morrison, “Fundamentals of American Law”, Oxford University Press, 2007.
11
Xem: Brady v. United States, 397 U.S. 742 (1970), [ />12
Black’s Law Dictionary, 6th ed. (St. Paul, MN: West, 1990), tr. 1152
97
9



nhận tội13. Nếu người bị buộc tội vi phạm thỏa thuận - bao gồm không nhận tội hoặc nhận
tội nhưng không đúng với thỏa thuận, công tố viên sẽ không bị ràng buộc các trách nhiệm
theo các cam kết như thỏa thuận. Mặt khác, nếu công tố viên không giữ đúng cam kết, người
bị buộc tội có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ thẩm phán. Người bị buộc tội có thể đề xuất thẩm
phán cho phép họ rút khỏi thỏa thuận nhận tội, hoặc yêu cầu công tố viên tuân thủ đúng cam
kết14.
Kết quả của quá trình mặc cả trong phần lớn các trường hợp là sự thừa nhận của bị cáo
về việc đã thực hiện một tội phạm nhẹ hơn, nhưng sự nhận tội không nhất thiết phải đạt
được thơng qua thủ tục mặc cả. Thơng thường, có 3 loại mặc cả nhận tội được quy tắc TTHS
Liên bang thừa nhận. Để đổi lại sự thừa nhận có tội cho một số bị cáo, công tố viên đồng ý
rằng: (i) Sẽ không đưa ra các cáo buộc khác; (ii) Không phản đối một lý lẽ bào chữa cụ thể
mà bị cáo định đưa ra; (ii) Thỏa thuận với bị cáo về một bản án nhất định mà tòa án sẽ đưa
ra và tòa án sẽ bắt buộc phải đưa ra một bản án nếu chấp nhận thỏa thuận nhận tội. Nếu đạt
được mặc cả nhận tội thì thỏa thuận này phải cơng khai đầy đủ cho tịa án và được lưu trong
hồ sơ vụ án.
* Nguyên tắc tùy nghi truy tố
Trong hệ thống liên bang, công tố viên có quyền chủ động khởi tố vụ án, Theo án lệ
Bordenkircher v. Hayes thì Tịa án tối cao liên bang Hoa Kỳ đã mô tả: “Trong hệ thống của
chúng ta, chừng nào các cơng tố viên có lý do chắc chắn để tin rằng bị cáo đã thực hiện một
hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật, thì quyết định có hay khơng truy tố; và truy tố
về tội gì trước bồi thẩm đồn sẽ hồn tồn thuộc về quyền quyết định của công tố viên.
Trong giới hạn được xác định bởi định nghĩa các hành vi vi phạm có thể bị buộc tội được
luật pháp quy định một cách hợp hiến, thì việc lựa chọn có ý thức một số hành vi để thực
hiện cho bản thân nó khơng phải là một hành vi vi phạm hiến pháp liên bang, chừng nào sự
lựa chọn đó là [khơng] cố ý dựa theo một tiêu chuẩn vô lý15
Thứ tư, độc lập tư pháp.
13

Peter Westen and David Westin, A Constitutional Law of Remedies for Broken Plea Bargains, California

LawReview 66, no. 3 (May 1978):
14
Nguyễn Hải Yến (2019), “Thỏa thuận nhận tội trong hệ thống tư pháp hình sự Hoa Kỳ”, Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, Số 5, tr. 53-58.
15
Stephen F. Ross, Bordenkircher v. Hayes: Ignoring Prosecutorial Abuses in Plea Bargaining, 66 Cal. L.
Rev. 875 (1978).
98


Trong mơ hình TTHS Hoa Kỳ, độc lập tư pháp được chia thành sự độc lập của thể chế
và sự độc lập trong quyết định. Sự độc lập về thể chế là khái niệm thể hiện sự tách biệt của
ngành tư pháp (tòa án) đối với các nhánh hành pháp, lập pháp16. Sự độc lập trong quyết định
là khả năng của một thẩm phán ra các quyết định chỉ duy nhất dựa trên các tình tiết của vụ
án và quy định của luật áp dụng mà không chịu bất kỳ áp lực bên ngoài nào. Thẩm phán phải
được tự do hành động theo chỉ định của pháp luật và sự hiểu biết ngay tình về pháp luật.
2.2. Mơ hình tố tụng hình sự của Cộng hịa Pháp
Thứ nhất, cơ quan tố tụng (Cơ quan cảnh sát, Viện cơng tố, Tịa án) được giao
nhiệm vụ chứng minh tội phạm
Trong mơ hình TTHS của CH Pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng bao tịa án được
giao nhiệm vụ, đi tìm sự thật vụ án và phương pháp điều tra, thẩm vấn là phương pháp tố
tụng chủ yếu được áp dụng trong tất của các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án17. Thủ
tục điều tra vụ án hình sự bao gồm điều tra sơ bộ (điều tra của cảnh sát) và điều tra tòa án
(điều tra dự thẩm). Trong giai đoạn điều tra sơ bộ, cơ quan cảnh sát tư pháp có các thẩm
quyền kiểm tra căn cứ, khám xét, kê biên và tạm giữ. Mục đích của điều tra sơ bộ là tìm
kiếm người phạm tội, xác nhận dấu hiệu, đánh giá hành vi của tội phạm. Trong giai đoạn
điều tra dự thẩm thì thủ tục thẩm tra của Tịa sơ thẩm là nhằm mục đích xác định sự thật của
vụ án. Thủ tục này có ý nghĩa: (i) Đảm bảo rằng những vụ án có chứng cứ yếu hay khơng đủ
chứng cứ buộc tội thì khơng cần đưa ra trước Tòa; (ii) Để điều tra một cách cẩn trọng các
chứng cứ nhằm đảm bảo quyết định cuối cùng của tòa án về tội phạm với các bằng chứng rõ

ràng18. Khi Dự thẩm kết thúc cuộc điều tra và thấy rằng đã đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì
chuyển hồ sơ vụ án cho Viện trưởng Viện công tố để ra quyết định truy tố. Quyết định truy
tố có hình thức văn bản do Viện trưởng Viện cơng tố quyết định trong đó ghi tóm tắt việc,
chứng cứ buộc tội, gỡ tội yêu cầu Dự thẩm chuyển vụ việc cho Tịa án xét xử nếu Viện
trưởng Viện cơng tố thấy rằng đã có đầy đủ chứng cứ buộc tội, nếu không, yêu cầu Dự thẩm
ra quy định miễn tố.

Nguyễn Đăng Dung (2004), “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, Nxb.Tư pháp,
David Turns (2003), “Certain Criminal Proceedings in France (Republic of the Congo v France)”, The
International and Comparative Law Quarterly, Vol. 53, No. 3 (Jul., 2004), pp. 747-752 (
18
E.A.Tomlinson, Comparative criminal justice issues in the united states, west Germany, England and
France: Nonadversarial justice: the French experience, 42 Maryland shool of law review.
99
16
17


Do đó, Mơ hình TTHS của Cộng Hịa Pháp khơng quá chú trọng tới việc phân định
rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS và xác định địa vị pháp lý của các chủ thể.
Thứ hai, mơ hình TTHS của Cộng hịa Pháp đề cao vai trị, tính tích cực, và chủ
động của tòa án
Tòa án và các thẩm phán có vai trị tích cực, chủ động trong việc đi tìm sự thật vụ án
bằng việc tự tiến hành hoạt động điều tra, thu thập, xác minh làm sáng tỏ các chứng cứ. Điều
này được thể hiện qua thủ tục Điều tra dự thẩm có trách nhiệm thu thập chứng cứ buộc tội và
cả chứng cứ gỡ tội. Thủ tục điều tra dự thẩm là thủ tục tố tụng viết, được tiến hành một cách
bí mật, được lập thành văn bản lưu trong hồ sơ, không tranh tụng và dự thẩm có quyền ra
lệnh khám xét, giữ và nghe lén điện thoại, trực tiếp thẩm vấn bị cáo với nội dung rộng hơn
so với việc hỏi cung của cảnh sát. Các bên đương sự tham tố tụng, các thẩm phán, giám định
viên và các luật sư phải có nghĩa giữ bí mật việc điều tra.

Phiên tịa trong mơ hình TTHS của CH Pháp thực chất là sự tiếp tục của q trình điều
tra liên tục, nối tiếp chứ khơng phải là sự cạnh tranh giữa các bên đối trọng nhau trong vụ án
hình sự và thời điểm mấu chốt là q trình xét hỏi, thẩm tra, đánh giá tồn diện các chứng cứ
tại phiên tịa. Do đó, trong giai đoạn xét xử, việc thẩm vấn trước Tòa phải do chủ tọa chủ
động thực hiện chứ không phải do các bên. Vì vậy, vai trị của cơng tố và luật sư bào chữa
khơng nổi bật như mơ hình TTHS Hoa Kỳ. Có ý kiến cho rằng: “Vai trị của luật sư được
xem như là bổ sung cho công cuộc đi tìm sự thật của Tịa án và để bảo đảm rằng các hoạt
động tố tụng đã diễn ra đúng luật, các quyền và lợi ích hợp pháp của nghi can không bị xâm
phạm”19.
Thứ ba, chứng cứ và sự tồn tại của hồ sơ vụ án hình sự
Việc sử dụng hồ sơ vụ án với các chứng cứ viết để xét xử là đặc trưng cơ bản của mơ
hình TTHS của CH Pháp. Điều này xuất phát từ CH Pháp là quốc gia theo truyền thống dân
luật, chứng cứ là các văn bản, tài liệu đóng vai trị quan trọng. Khơng những các tài liệu
chứng cứ có ý nghĩa củng cố các tình tiết trong vụ án mà trong một số loại án như lừa đảo,

Nguyễn Thị Thuỷ (2011), “Các mô hình tố tụng hình sự điển hình trên thế giới và xu hướng hồn thiện mơ
hình tố tụng hình sự ở các nước hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, Số 10/2011, tr. 41 - 47.
100
19


gian lận tài chính, các văn bản chính thức (từ cơ quan, tổ chức khác) cũng có giá trị lớn,
được xem là chứng cứ để chứng minh tội phạm20.
Trong TTHS của CH Pháp thì hồ sơ vụ án do các cơ quan tố tụng lập thành và được bổ
sung, hoàn thiện qua các giai đoạn tố tụng. Giai đoạn sau có trách nhiệm kiểm tra, tiếp tục
bổ sung, hồn thiện hồ sơ của giai đoạn trước chuyển tới. Tất cả các tài liệu, chứng cứ trong
hồ sơ đều là chứng cứ quan trọng, làm cơ sở cho Tòa án tiến hành các hoạt động xét xử. Tại
phiên tòa, thẩm phán căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ để chủ động đặt câu
hỏi với bị cáo nhằm kiểm tra tính có căn cứ, giá trị chứng minh của các thông tin, tài liệu
trong hồ sơ vụ án21.

3. Ưu điểm cơ bản của các mơ hình tố tụng hình sự và gợi mở cho Việt Nam
3.1. Ưu điểm cơ bản của các mơ hình tố tụng hình sự điển hình trên thế giới
3.1.1. Mơ hình TTHS của Hoa Kỳ
Thứ nhất, Phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong q trình TTHS. Theo
đó, chức năng buộc tội thuộc về cơ quan điều tra, viện công tố; chức năng gỡ tội thuộc về
người bị buộc tội, luật sư bào chữa. Việc tuyên án được thực hiện bởi thẩm phám và bồi
thẩm đồn giữ vai trị xét xử, và hướng dẫn luật. Phiên tịa mang tính đối chất đối tụng cao
giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, nhằm tìm kiếm sự thật khách quan của vụ án.
Thứ hai, Nhà nước trao nhiều quyền cho người bị buộc tội tự bảo vệ các quyền lợi của
mình và có cơ chế bảo đảm thực thi các quyền này trên thực tiễn. Qúa trình tố tụng gắn liền
với quyền bào chữa, quyền được im lặng22. Từ đó, cho phép người bị buộc tội và luật sư bào
chữa dễ dàng tiếp cận hồ sơ vụ án của các bên tham gia tố tụng, mang đến những chứng cứ
có lợi nhất .
Thứ ba, Coi trọng việc sử dụng án lệ hình sự và quyền tư tố bên cạnh quyền cơng tố23.
Đồng thời coi trọng thủ tục mặc cả nhận tội; và luật hình thức. Do đó, địi hỏi các bên tham
Stewart Field (2006), “State, Citizen, and Character in French Criminal Process”, Journal of Law and
Society, Vol. 33, No. 4 (Dec., 2006), pp. 522-546
21
Nguyễn Thị Thủy (2012), “Mơ hình tố tụng hình sự và vấn đề xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong tố tụng hình sự”, Kiểm sát, (9), tr. 46-51, 55.
22
Xem thêm: Nguyễn Ngọc Kiện (2019), “Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm”, Nxb. Tư pháp;
Võ Văn Tài, Trịnh Tuấn Anh (2015), “Nguồn góc, bản chất, phạm vi áp dụng của quyền im lặng trong tố
tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, Số 11 (186), tr. 35 - 43
23
Nguyễn Ngọc Kiện (2016), “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh,
101
20



gia tranh tụng phải có sự hiểu biết sâu sắc pháp luật mới mong dành phần thắng cho mình và
quá trình này kéo dài hàng trăm năm đã góp phần hình thành và thúc đẩy ý thức pháp luật và
nền văn hóa pháp lý trong lĩnh vực tư pháp hình sự của Hoa Kỳ .
3.1.2. Mơ hình TTHS của Cộng hòa Pháp
Thứ nhất, Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng (Tịa án, Viện
cơng tố, Cơ quan cảnh sát); các chủ thể khác khơng có nghĩa vụ chứng mình, người bị tình
nghi được coi là vơ tội cho đến khi chứng minh được có tội. Coi trọng việc hỏi cung, thẩm
vấn trong tiến trình TTHS để tìm ra sự thật; trong đó hoạt động điều tra có tính chất quyết
định (điều tra sơ bộ của cảnh sát và điều tra dự thẩm của Tòa án). Điều này, đảm bảo Nhà
nước dễ dàng kiểm soát tội phạm, song sẽ khơng tránh khỏi những sai sót nếu các chứng cứ
không đầy đủ, rõ ràng hoặc do ngụy tạo.
Thứ hai, Phiên tịa xét xử diễn ra nhanh chóng hơn và ít tốn kém thời gian, cơng sức,
chi phí tố tụng. Hoạt động xét xử là một giai đoạn tiếp nối của quá trình điều tra, truy tố, và
tại phiên tòa các hoạt động tố tụng chú trọng sự thẩm tra lại chứng cứ đã thu thập và thẩm
định của các cơ quan chuyên môn từ trước. Thẩm phán được nghiên cứu trước hồ sơ vụ án,
vạch ra kế hoạch và thực hiện kế hoạch đã cho phép nên rút ngắn thời gian xét xử. Đồng
thời, quy định cũng đề cao vai trò của thẩm phán, xây dựng cơ chế mở rộng hơn về thông
tin, chứng cứ của vụ án. Thẩm phán chịu trách nhiệm trong việc thẩm vấn, điều khiển phiên
tịa diễn ra trật tự, cơng bằng, khách quan và tuyên án bằng một phán quyết cụ thể. Thẩm
phán không bị hạn chế bởi những chứng cứ mà các bên lựa chọn tự đưa ra (có thể tự mình
tìm ra chứng cứ, kể cả khi các bên không mong muốn). Điều này cho thấy, Nhà nước trao
quyền hạn rất lớn cho các cơ quan tư pháp và thẩm phán, cũng như mong đợi trách nhiệm
cao khi thực thi công vụ.
Thứ ba, Coi trọng xây dựng Bộ luật TTHS (pháp điển hóa) như một bộ phận của luật
cơng
3.2. Gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, cải tiến mơ hình tụng hình sự
Mơ hình TTHS của Việt Nam hiện nay tiếp tục duy trì các nền tảng của mơ hình TTHS
thẩm vấn, nhưng tăng cường, kết hợp nhiều hơn các yếu tố tranh tụng, tập trung nhất là tranh

tụng tại phiên tịa. Nói cách khác, Mơ hình TTHS của Việt Nam theo hướng “pha trộn”, trên
102


cơ sở rút kinh nghiệm mặt hạn chế của mô hình TTHS thẩm vấn, tiếp thu có chọn lọc các hạt
nhân hợp lý của mơ hình tranh tụng. Thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2015 trong thời gian
qua cho thấy, bên cạnh những ưu điểm trong việc phòng ngừa và trấn áp tội phạm, kiểm soát
tội phạm để giữ vững an ninh, trật tự thì mơ hình TTHS Việt Nam cũng đã bộc lộ khơng ít
hạn chế, biểu hiện như tình trạng tiến hành tố tụng oan, sai và lạm quyền; việc lạm dụng các
biện pháp cưỡng chế tố tụng. Bên cạnh đó, tại phiên tịa thẩm phán vẫn chưa thể hiện vị trí
trung tâm, điều hành phiên tịa trơi chảy, khoa học. Thẩm phán vẫn chiếm ưu thế trong hoạt
động xét hỏi, tham gia xét hỏi tường tận mà đáng lẽ trách nhiệm đó thuộc về kiểm sát viên,
luật sư bào chữa. Mặt khác, vị thế giữa kiểm sát viên (giữ quyền công tố) và người bào chữa
trong tố tụng vẫn chưa bình đẳng như đúng nghĩa,24 quyền con người của bị cáo vẫn chưa
được xem trọng. Do đó, việc tiếp tục tiếp thu các kinh nghiệm của các mơ hình TTHS phát
triển trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp) là cần thiết trong bối cảnh cải cách tư pháp tại Việt Nam
hiện nay đang được đề cao.
Thứ hai, bổ sung nguyên tắc truy tố tùy nghi trong tố tụng hình sự
Nguyên tắc tùy nghi truy tố vốn được xem là một trong những nguyên tắc riêng có của
các quốc gia áp dụng mơ hình TTHS tranh tụng (điển hình Hoa Kỳ), nhưng sau này đã được
các mơ hình TTHS khác thẩm thấu và tiếp thu. Nguyên tắc này tương phản với nguyên tắc
công tố (nghĩa là trong mọi trường hợp khi xác định có đủ chứng cứ cho rằng một người đã
thực hiện hành vi phạm tội phải truy tố người đó trước pháp luật). Như đã phân tích, mơ
hình TTHS của Hoa Kỳ đã giao cho cơng tố viên thẩm quyền quyết định truy tố hoặc không
truy tố một người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng phải bảo đảm tính hợp lý của việc
lựa chọn đó. Mơ hình TTHS Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp nhằm giảm tải sự gia tăng công việc
một cách không cần thiết cho Tòa án. Kinh nghiệm, ở CH Pháp cho thấy quyết định không
truy tố của Công tố viên ở Pháp chiếm khoảng 50% tổng số vụ án có thể bị truy tố. Các căn
cứ được đưa ra thường là chứng cứ không đủ, không xác định được người phạm tội hoặc
đơn giản là việc truy tố không phục vụ lợi ích của công cộng. Quyết định không tiếp tục truy

tố là một quyết định mang tính hành chính và khơng phải là đối tượng để kháng cáo mặc dù
nó có thể bị xem xét lại bởi một Công tố viên cấp cao hơn.
Đồn Đức Lương, Nguyễn Ngọc Kiện (2015), “Mơ hình tố tụng hình sự với yêu cầu cải cách tư pháp”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 16 (296), tr. 3-8
103
24


Thứ ba, tiếp thu các hạt nhận hợp lý của chế định mặc cả nhận tội
Pháp luật TTHS Việt Nam từ trước đến nay chưa bao giờ ghi nhận chế định mặc cả
nhận tội. Điều này dẫn đến những mâu thuẫn, tranh chấp quyết liệt khi xác định một hành vi
phạm tội mà chứng cứ còn mong manh, bên nào cũng cho rằng minh đúng hệ quả là nhiều
vụ án bị can/bị cáo kêu oan, khiếu nại, khiếu kiện kéo dài. Một phần xuất phát từ quan niệm
truyền thống của mơ hình TTHS thẩm vấn. Tuy nhiên, hiện nay thực tế đã chứng minh pháp
luật tố tụng hình sự Pháp, Nhật Bản đã ghi nhận chế định mặc cả nhận tội bởi các ưu điểm
của chế định này, điển hình như: (i) Mang lại lợi ích cho bị cáo thơng qua việc đề xuất một
sự buộc tội nhẹ hơn hoặc bản án có lợi; (ii) Tiết kiệm các nguồn lực tư pháp bằng cách tránh
được chi phí cho việc xét xử; (iii) Đem lại sự hài lòng cho bị hại thơng qua việc giải quyết
nhanh chóng vụ án, đặc biệt đối với những người không muốn khai báo tại phiên tịa25. Do
đó, BLTTHS Việt Nam cần thiết trong tương lai tiếp thu các hạt nhân hợp lý của chế định
mặc cả nhận tội.
Thứ tư, về chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội (bào chữa)
BLTTHS Việt Nam cần tạo cơ chế để luật sư bào chữa, người bị tình nghi trở thành
một bên có vị trí độc lập, bình đẳng với các chủ thể khác, nhất là chủ thể thực hiện chức
năng buộc tội trong việc chứng minh sự vô tội hoặc thực hiện việc gỡ tội. Đặc biệt cần tạo ra
cơ sở pháp lý đồng bộ để thực thi hiệu quả cơ chế luật sư có quyền tham gia TTHS ngay khi
thân chủ của mình bị tình nghi hoặc bị tố giác tội phạm, cho phép tiếp cận các kết quả giám
định tư pháp, loại bỏ các thủ tục rườm rà, cản trở người bào chữa thực thi trách nhiệm của
mình26. Hơn thế nữa, quyền tranh tụng bình đẳng tại phiên tịa xét xử cơng khai cần được
bảo đảm thực thi có hiệu quả trên thực tế. Qua đó người bào chữa chủ động tham gia vào các

hoạt động xét xử theo kế hoạch của tòa án, cung cấp những chứng cứ mới đáng tin cậy
(ngoài những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án) có nguồn gốc rõ ràng, hợp pháp để phản bác
các chứng cứ khác được xây dựng trước; những luận điểm gỡ tội về vụ án, kể cả quyền được
khiếu nại, tố cáo thay mặt thân chủ của mình nếu thấy có căn cứ minh chứng quyết định xét

Lê Huỳnh Tấn Duy (2081), “Chế định mặc cả nhận tội theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ và kinh
nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 05 (117), tr. 45 - 53
26
Báo Tuổi Trẻ (2016), “Thủ tục đăng ký bào chữa: Liệu có bình mới rượu cũ”?, [ />104
25


xử không khách quan, áp dụng không đúng quy định của pháp luật gây oan sai, xâm phạm
nghiêm trọng các hoạt động tư pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thủy (2010), “Hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự Việt
Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 17(178),
2. Robert Strang, “More adversarial, but not completely adversarial”: Reformasi of
the Indonesian criminal procedure code, 32 Fodham Int’l L.R. 188,
3. Craig M. Bradley (2007) , “Criminal Procedure: A Worldwide Study, Carolina
Academic
4. Federal Rules of Criminal Procedure, [ />(truy cập ngày 1/6/2021
5.

Trịnh Tuấn Anh, Nguyễn Thị Thanh Nhã (2019), “Nguy tắc suy đốn vơ tội và

quyền được im lặng trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Pháp luật và thực
tiễn, Số 38,
6. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013), “Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam, Đức và Hoa Kỳ”, Nxb.Chính trị Quốc gia,

7. Irving R. Kaufman, Criminal Procedure in England and the United States:
Comparisons in Initiating Prosecutions, 49 Fordham L. Rev. 26 (1980).
8. Alan B. Morrison, “Fundamentals of American Law”, Oxford University Press,
2007.
9. Robert M. Bloom and David H. Fentin, “A More Majestic Conception: the
Importance of Judicial Integrity in Preserving the Exclusionary Rule ", University of
Pennsylvania Journal of Constitutional Law 13, no.1 (2010): 47-80.
10.

Brady

v.

United

States,

397

U.S.

742

(1970),

[ />11.

Black’s Law Dictionary, 6th ed. (St. Paul, MN: West, 1990),

12.


Peter Westen and David Westin, A Constitutional Law of Remedies for

Broken Plea Bargains, California LawReview 66, no. 3 (May 1978):
13.

Nguyễn Hải Yến (2019), “Thỏa thuận nhận tội trong hệ thống tư pháp hình sự

Hoa Kỳ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 5
105


14.

Nguyễn Đăng Dung (2004), “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”,

Nxb.Tư pháp,
15.

David Turns (2003), “Certain Criminal Proceedings in France (Republic of

the Congo v France)”, The International and Comparative Law Quarterly, Vol. 53, No. 3
(Jul., 2004), pp. 747-752
16.

E.A.Tomlinson, Comparative criminal justice issues in the united states, west

Germany, England and France: Nonadversarial justice: the French experience, 42 Maryland
shool of law review.
17.


Nguyễn Thị Thuỷ (2011), “Các mơ hình tố tụng hình sự điển hình trên thế giới

và xu hướng hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự ở các nước hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, Số
10/2011,
18.

Stewart Field (2006), “State, Citizen, and Character in French Criminal

Process”, Journal of Law and Society, Vol. 33, No. 4 (Dec., 2006),
19.

Nguyễn Thị Thủy (2012), “Mô hình tố tụng hình sự và vấn đề xác định quyền

và nghĩa vụ của các chủ thể trong tố tụng hình sự”, Kiểm sát, (9),
20.

Võ Văn Tài, Trịnh Tuấn Anh (2015), “Nguồn góc, bản chất, phạm vi áp dụng

của quyền im lặng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, Số 11 (186),
21.

Nguyễn Ngọc Kiện (2016), “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ

thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh,
22.

Nguyễn Ngọc Kiện (2019), “Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ


thẩm”, Nxb. Tư pháp
23.

Đoàn Đức Lương, Nguyễn Ngọc Kiện (2015), “Mơ hình tố tụng hình sự với

u cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 16 (296), tr. 3-8

106



×