Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài thu hoạch diễn án hành chính hồ sơ 12 nguyễn thị tuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.37 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn

: Kỹ năng cơ bản của luật sư khi tham gia giải
quyết các vụ việc hành chính

Mã hồ sơ

: LS.HC12/DA1

Diễn lần

:

Ngày diễn

:

Giáo viên hướng dẫn:
Vai diễn

: Người bị kiện

Họ và tên:
Lớp:
Số báo danh:

TP Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm …




2


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
I.
1.
a.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC
Những người tham gia tố tụng
Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết – sinh năm 1982, địa chỉ tổ 9 Phường
Đông Lân, Thành phố P tỉnh G.L
Người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện: Ông Mai Anh Tuấn, địa chỉ
33 đường Minh Khai, Thành phố P, tỉnh G.L
b.
Người bị kiện: Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, Thể thao và du lịch tỉnh G.L,
địa chỉ 06 Trần Hưng Đạo, Thành phố P, tỉnh G.L
Người đại diên theo uỷ quyền của người bị kiện: Ơng Dương Văn Thành –
Phó Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
2.
Tóm tắt nội dung vụ việc
Bà Nguyễn Thị Tuyết (“bà Tuyết”) là chủ Cơ sở kinh doanh Phịng trọ Hồng
Lan theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ cá thể số 39A 8005684 cấp ngày
19/11/2012.
Vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 23/12/2013, Đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L (“Thanh tra Sở VH-TT & DL”) đã tiến hành kiểm
tra cơ sở kinh doanh của Bà Tuyết tại địa chỉ: Số 241, đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh
G.L và lập Biên bản vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch

số 11/BB-VPHC đối với bà Tuyết (“Biên bản 11/BB-VPHC”), biên bản này ghi nhận
là: “Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hồng Lan, phịng số 11 có ơng Nguyễn Văn
Thường và bà Nguyễn Thị Lành khơng có Giấy chứng nhận đăng ký kết hơn đang
quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục); Phịng số 9 có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị
Thùy không có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đang xem tivi; tại thời điểm kiểm tra,
tại Phòng số 11 chủ Cơ sở kinh doanh Phịng trọ Hồng Lan khơng vào sổ bà Nguyễn
Thị Lành. Kết luận: Chủ Cơ sở Phịng trọ Hồng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để
xảy ra hành vi vi phạm như trên”. Sau khi có kết luận hành vi vi phạm, Thanh tra Sở
VH-TT & DL tạm giữ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ cá thể số 39A 8005684
của Cơ sở kinh doanh Phịng trọ Hồng Lan.
Ngay ở thời điểm bị lập Biên bản vi phạm hành chính, ơng Nguyễn Văn
Thường (“ơng Thường”), ơng Phan Văn (“ơng Văn”) và bà Nguyễn Thị Thùy (“bà
Thùy”) đều có Bản tường trình. Theo đó, ơng Thường xác nhận có th phịng nghỉ tại
Phịng trọ Hồng Lan vào ngày 23/12/2013 để ở cùng với vợ mình là bà Nguyễn Thị
Lành. Ơng Văn và bà Thùy xác nhận có th Phịng số 9 tại Phịng trọ Hồng Lan để
nghỉ ngơi, hai người có mối quan hệ là đã tổ chức đám hỏi nhưng chưa làm đám cưới
vì ơng ngoại mất và hiện tại bà Thùy đang mang bầu.
Ngày 16/01/2014, Thanh tra Sở VH-TT & DL đã làm tờ trình số 02/TT-TTr
ngày 16/01/2014 xin gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt hành chính, tờ trình đã
được Giám đốc Sở VH-TT & DL phê duyệt.
Ngày 10/3/2014, trên cơ sở Biên bản số 11, ông Trần Ngọc Minh – Chánh
Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh G.L (“Chánh Thanh tra Sở VH-TT
& DL”) ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa,
thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP (“Quyết định số 23”) đối với bà Tuyết, hình thức xử
phạt là phạt tiền với mức phạt là 15.000.000 đồng do có hành vi vi phạm là “thiếu tinh
thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện
3


về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm (Áp dụng khoản 1 Điều 25 Nghị định

167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ)”.
Ngày 18/3/2014, Thanh tra Sở VH-TT & DL có Cơng văn số 02/2014/CV-TTr
đính chính lại một số nội dung của Quyết định số 23.
Ngày 24/3/2014, bà Tuyết có Đơn khiếu nại về việc xử phạt hành chính đến Sở
VH-TT & DL.
Ngày 27/3/2014, Chánh Thanh tra Sở VH-TT & DL ra Thông báo số 01/TBTTr về việc thụ lý giải quyết khiếu nại của bà Tuyết đối với Quyết định số 23.
Ngày 7/4/2014, Sở VH-TT & DL có cơng văn số 167/CV-VHTTDL phản hồi
một số nội dung trong Đơn khiếu nại của bà Tuyết, đồng thời yêu cầu bà Tuyết chấp
hành Quyết định số 23.
Ngày 10/4/2014, UBND Tỉnh G.L ra công văn số 119/PHD-VP với nội dung trả
lại đơn Khiếu nại của Bà Tuyết do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch
UBND tỉnh.
Ngày 11/4/2014, bà Tuyết tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi đến Chủ tịch UBND
tỉnh G.L, Giám đốc Sở VH-TT & DL và Giám đốc Sở Công an tỉnh G.L về việc không
chấp nhận công văn trả lời đơn khiếu nại của Sở VH-TT & DL.
Ngày 20/04/2014, Giảm đốc Công an tỉnh G.L ra Công văn trả lại Đơn khiếu
nại của Bà Tuyết ngày 11/4/2014 do không thuộc thẩm quyền.
Ngày 20/4/2014, Chánh Thanh tra Sở VH-TT & DL đã ban hành Quyết định số
01/QĐ-TTr về việc giải quyết đơn khiếu nại xử phạt vi phạm hành chính (lần đầu).
Nội dung quyết định: “Giữ nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐXPHC ngày 10/3/2014”.
Ngày 02/5/2014, bà Tuyết nộp Đơn khởi kiện đến Tòa án Nhân dân tỉnh G.L
(“TAND tỉnh G.L”), yêu cầu tuyên hủy bỏ Quyết định số 23 của Chánh Thanh tra Sở
VH-TT & DL..
Ngày 13/5/2014, TAND tỉnh G.L đã ban hành Thơng báo thụ lý vụ án hành
chính số 03/2014/TB-THC theo Đơn khởi kiện của bà Tuyết với yêu cầu: Hủy bỏ
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch
số 23/QĐ-XPHC ngày 10/03/2014 của Chánh thanh tra Sở VH-TT&DL tỉnh G.L.
Ngày 29/5/2014, Chánh Thanh tra Sở VH-TT & DL có Cơng văn số
04/2014/TTr gửi TAND tỉnh G.L trình bày tóm tắt nội dung xử lý vụ xử lý vi phạn
hành chính và giải quyết đơn khiếu nại quyết định xử phạt hành chính của bà Tuyết.

Ngày 10/9/2014, TAND tỉnh G.L ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
04/2014/QĐST-XX.
II.
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN
1.
Cơ sở pháp lý
Luật tố tụng hành chính 2015 (“Luật TTHC”);
Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành
Luật Tố tụng hành chính (“Nghị quyết số 104”);
Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Luật tố tụng hành chính do
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 29/7/2011(“Nghị
quyết số 02”);
Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 Quy định thời hạn, trình tự, thủ
tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người khơng thi hành
bản án, Quyết định của Tòa án (“Nghị định số 71”);
Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 31/8/2016
Quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong
4


-

việc thi hành quy định của Luật tố tụng hành chính (“Thơng tư liên tịch số
03”);
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 (“Luật XLVPHC”);
Luật khiếu nại 2011 có hiệu lực ngày 01/7/2012 (“Luật khiếu nại”).

Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn
xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình (“Nghị định

số 167”);
Nghị định 71/2009/NĐ-CP ngày 28/8/2009 về tổ chức và hoạt động của thanh
tra văn hóa, thể thao và du lịch (“Nghị định số 71”);
Pháp lệnh phòng, chống mại dâm số 10/2003/PL-UBTVQH11 ngày 17/3/2003
(“Pháp lệnh phòng, chống mại dâm số 10/2003”).
2.
Điều kiện khởi kiện
a.
Đối tượng khởi kiện:
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 do
Chánh thanh tra Sở VH-TT & DL ban hành.
Quyết định này là quyết định hành chính cá biệt về lĩnh vực xử lý vi phạm hành
chính, áp dụng đối với bà Nguyễn Thị Tuyết, do Chánh thanh tra Sở VH-TT & DL tỉnh
G.L ban hành theo thẩm quyền cá nhân theo khoản 5 Điều 10 Nghị định số 71, Điều
24 và khoản 2 Điều 46 của Luật XLVPHC. Do đó, quyết định này thuộc đối tượng
khởi kiện hành chính theo khoản 2 Điều 3 Luật TTHC.
Tuy nhiên, Luật sư đề nghị khởi kiện cả Quyết định số 01/QĐ-TTr ngày
20/4/2014 về việc giải quyết Đơn khiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
23/QĐ-XPHC (“Quyết định số 01”) vì Quyết định số 01 ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền lợi của bà Tuyết. Nếu chỉ khởi kiện hủy bỏ Quyết định số 23 thì Quyết định số
01 vẫn còn hiệu lực là giữ nguyên nội dung của Quyết định số 23, do đó vẫn ảnh
hưởng tới quyền và lợi ích của bà Tuyết.
b.
Quyền khởi kiện:
Quyết định số 23 là quyết định xử phạt đối với bà Tuyết, quyết định này có tác
động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Tuyết, căn cứ theo khoản 8 Điều
3, Điều 5 cũng như Điều 115 Luật TTHC, bà Tuyết là chủ thể khởi kiện và có quyền
khởi kiện Quyết định số 23.
c.
Yêu cầu khởi kiện:

Yêu cầu Tịa án hủy tồn bộ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐXPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh G.L;
u cầu Tịa án hủy tồn bộ Quyết định số 01/QĐ-TTr ngày 20/4/2014 về việc
giải quyết đơn khiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐXPHC; và
Bồi thường thiệt hại đối với các tổn thất về doanh thu và uy tín của cơ sở kinh
doanh nhà trọ Hoàng Lan cho bà Tuyết trong khoảng thời gian bị thu giữ giấy
phép kinh doanh.
d.
Thẩm quyền của Tòa án:
Tòa án có thẩm quyền giải quyết là TAND tỉnh G.L – bà Tuyết đã khởi kiện đến
đúng Tịa án có thẩm quyền với các căn cứ sau đây:
Thẩm quyền theo loại việc: Đây là khiếu kiện quyết định hành chính (cụ thể là:
Quyết định số 23). Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật TTHC, khiến kiện
này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính.
5


-

Thẩm quyền theo cấp: bà Tuyết khởi kiện quyết định hành chính do Chánh
Thanh tra Sở TT-VH & DL tỉnh G.L (cấp tỉnh) ban hành. Do đó, thẩm quyền
thuộc Tịa án nhân dân cấp tỉnh theo khoản 3 Điều 32 Luật TTHC.
e.
Thời hiệu khởi kiện:
Ngày 17/3/2014, bà Tuyết nhận được Quyết định số 23. Bà Tuyết đã làm Đơn
khiếu nại ngày 11/4/2014 và được giải quyết khiếu nại bằng Quyết định số 01 ngày
20/4/2014. Do đó, thời hiệu khởi kiện với 02 quyết định này là đến ngày 21/4/2015. Bà
Tuyết làm Đơn khởi kiện vào ngày 02/5/2014, đã được Tòa thụ lý vào ngày 13/5/2014,
đáp ứng điều kiện khởi kiện trong thời hạn 01 năm theo quy định tại Điều 116 Luật
TTHC.

III. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
Vấn đề cần chứng minh: Tính bất hợp pháp của Đối tượng khởi kiện – Quyết định số
23
Về thẩm quyền: Quyết định số 23 khơng được ban hành bởi người có thẩm
quyền theo pháp luật hiện hành.
Về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số 23: Quyết định số 23 được ban
hành khơng đúng trình tự thủ tục:
• Biên bản số 11 ghi không đầy đủ thông tin, dùng mẫu áp dụng quy định pháp
luật chưa có hiệu lực thi hành tại thời điểm xảy ra hành vi được cho là vi
phạm.
• Quyết định số 23 không được ban hành đúng thời hạn luật định.
• Căn cứ pháp luật để ban hành Quyết định số 23 chưa có hiệu lực tại thời
điểm xảy ra vi phạm, vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam về
hiệu lực hồi tố.
• Nội dung của Quyết định số 23 không đầy đủ và chưa phù hợp với quy định
pháp luật xử phạt vi phạm hành chính hiện hành.
Về nội dung Quyết định số 23:
• Căn cứ để xử lí vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm của bà Tuyết là
không có.
• Thiếu chứng cứ, căn cứ để chứng minh bà Nguyễn Thị Tuyết có hành vi
thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh
doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm.
1.
Hỏi Người bị kiện:
Hỏi để chứng minh sự sai phạm trong trình tự, thủ tục ban hành Quyết
định số 23
Hỏi về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
Đồn thanh tra đã đến kiểm tra, phát hiện vi phạm và lập Biên bản số 11 đối với
Cơ sở kinh doanh Phòng trọ Hoàng Lan của bà Tuyết vào ngày nào?
Ngày 10/3/2014, Chánh Thanh tra Sở VH-TT & DL ban hành Quyết định số 23

đối với bà Tuyết đúng không?
Quyết định số 23 có phải là quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên cơ sở
Biên bản số 11 khơng?
Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định thời hạn ra Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính là 07 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành
chính, trường hợp phức tạp và nghiêm trọng có thể xin gia hạn thêm nhưng tối
đa không quá 60 ngày, vậy, thời hạn từ lúc lập Biên bản số 11 đến lúc ban hành
Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP có đúng với thời hạn luật định
khơng?
6


-

-

-

-

-

-

Tình tiết nào trong vụ việc này được làm căn cứ để xác định Tính đặc biệt
nghiêm trọng?
Hỏi về căn cứ pháp lý áp dụng cho việc xử phạt
Ngày xảy ra hành vi mà theo ông là vi phạm hành chính là ngày nào?
Việc xử phạt này dựa trên căn cứ pháp lý nào?
Vì sao trong Biên bản số 11 ông căn cứ theo Nghị định 158/2013/NĐ-CP nhưng

đến khi ra Quyết định số 13, ông lại căn cứ theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP?
Ơng giải thích sao về sự khơng thống nhất trong áp dụng quy định pháp luật
này?
Nghị định 158/2013/NĐ-CP nêu trên có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2014, vậy việc áp dụng nó để xử lý hành vi vi phạm hành chính ngày
23/12/2013 là đúng hay sai?
Nghị định 167/2013/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 28/12/2013, ơng dùng Nghị
định này làm căn cứ xử phạt hành vi của bà Tuyết xảy ra ngày 23/12/2013 có
đúng khơng?
Ơng giải thích thế nào về việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật chưa có
hiệu lực để lập Biên bản vi phạm hành chính và ban hành Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính (cụ thể là Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 và
Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013)?
Hỏi về giá trị pháp lý của cơng văn đính chính Quyết định số 23
Ngày 18/03/2014 quý cơ quan ban hành công văn số 02/2014/CV-TTr đính
chính quyết định số 23 phải khơng?
Quy định về việc giải quyết khiếu nại phải bằng quyết định và việc đính chính
một quyết định phải bằng một quyết định hoặc tương đương. Việc quý cơ quan
dùng công văn số 02/2014 ngày 18/03/2014 để đính chính quyết định số 23
đúng hay sai?
Hỏi để chứng minh có sự vi phạm về thẩm quyền
Căn cứ pháp luật nào để Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xử phạt
hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội?
Dựa trên căn cứ pháp luật nào để Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt
động mua dâm, bán dâm?
Theo quy định tại Nghị định số 167 “Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch có
thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính đối với
những hành vi quy định tại Mục 4 Chương II”. Vậy Điều 25 theo căn cứ xử
phạt có thuộc mục 4 chương II Nghị định 167 số không?

Hỏi để chứng minh có sự sai phạm về nội dung Quyết định số 23
Đồn Thanh tra có kết luận Cơ sở kinh doanh Phịng trọ Hồng Lan có hành vi
vi phạm liên quan đến hoạt động mại dâm hoặc tổ chức mại dâm tại thời điểm
lập Biên bản số 11 khơng?
Đồn Thanh tra có biết được nội dung tường trình về mối quan hệ của ông
Thường và bà Lành, của ông Văn và bà Thùy Tại thời điểm lập Biên bản số 11,
không? Dù đã biết nhưng vẫn quyết định xử phạt hành chính đối với cơ sở kinh
doanh nhà trọ Hồng Lan đúng hay khơng?
Từ thời điểm kiểm tra, lập biên bản đến khi ban hành Quyết định số 23, ông
dựa vào căn cứ nào để chứng minh được hành vi hoạt động mại dâm tại thời

7


điểm kiểm tra cũng như hành vi “Tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở
kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm”?
Dựa trên căn cứ nào để quy kết rằng bà Tuyết có hành vi tạo điều kiện cho
người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự để tổ chức
hoạt động mại dâm?
Biên bản 11/BB – VPHC được lập vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 23/12/2013 ghi
nhận hành vi vi phạm hành chính là “Tại thời điểm kiểm tra Phịng trọ Hồng
Lan Phịng số 11 có Ơng Nguyễn Văn Thường và Bà Nguyễn Thị Lành khơng
có Giấy chứng nhận đăng ký kết hơn đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình
dục); Phịng số 9 có Ơng Phan Văn và Bà Nguyễn Thị Thùy khơng có Giấy
chứng nhận đăng ký kết hơn đang ở chung phòng xem tivi; Tại thời điểm kiểm
tra tại Phòng số 11 chủ Cơ sở kinh doanh Phòng trọ Hồng Lan khơng vào sổ
Bà Nguyễn Thị Lành. Kết luận “chủ Cơ sở kinh doanh Phịng trọ Hồng Lan
thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hành vi vi phạm như trên” đúng không?
Quyết định số 23 xử phạt vi phạm hành chính Bà Tuyết đối với hành vi “thiếu
tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh

có điều kiện an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” đúng hay không?
Như vậy, hành vi bị xử phạt vi phạm hành chính trong quyết định và hành vi
được ghi nhận trong Biên bản vi phạm hành chính là khác nhau đúng khơng?
2.
Hỏi Người khởi kiện:
Bà cho biết Đồn kiểm tra đến cơ sở kinh doanh của bà vào thời điểm nào?
Biên bản số 11 ngày 23/12/2013 có nội dung như thế nào?
Khi đến nhà trọ của bà, Đoàn kiểm tra có đọc quyết định kiểm tra trước khi tiến
hành kiểm tra khơng?
Khi cho khách trọ th phịng, nhà trọ Hồng Lan có tiến hành kiểm tra giấy tờ
nhân thân của khách hay không?
Theo Bà, hành vi vi phạm như trong Quyết định số 23/QĐ-XP đã nêu: “thiếu
trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dung cơ sở kinh doanh có điều
kiện an ninh trật tự tổ chức hoạt động mại dâm” có đúng tại thời điểm diễn ra
sự việc hay không?
Bà nhận được Quyết định số 23 này khi nào, bằng phương thức giao nhận nào
và cho biết nội dung xử phạt trong Quyết định này?
Bà nhận quyết định đính chính (Cơng văn 02/2014/CV-TTr) vào ngày nào?
Sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính, bà có đồng ý với hành vi vi phạm, hình
phạt áp dụng đối với bà của Chánh Thanh tra Sở VH-TT & DL hay khơng?
Phía Thanh tra Sở cho rằng đã nhiều lần u cầu người khởi kiện lên cơ quan
làm việc nhưng không liên lạc được. Bà cho biết điều này có đúng hay không?
3.
Hỏi người làm chứng – ông Thường
Mối quan hệ giữa ơng và bà Lành là gì?
Tại sao ơng và bà Lành vẫn không cung cấp giấy tờ chứng minh ông bà là vợ
chồng?
IV.
BẢN LUẬN CỨ
Kính thưa Hội đồng xét xử! Thưa vị đại diện Viện kiểm sát, và tất cả những

người có mặt tại phiên tịa hơm nay!
Tơi là Nguyễn A – đến từ Công ty Luật TNHH A, Đồn Luật sư thành phố Hồ
Chí Minh. Tơi tham gia phiên tòa này với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho Người khởi kiện là Bà Nguyễn Thị Tuyết trong vụ án “Khiếu kiện yêu
cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của
8


Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh G.L” với Người bị kiện là
Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh G.L – ông Trần Ngọc Minh.
Vụ án được TAND tỉnh G.L thụ lý giải quyết và đưa ra xét xử ngày hôm nay.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như diễn biến tại phiên tịa hơm nay, tơi
xin trình bày một số ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người khởi kiện như
sau:
Qua phần trình bày của Người khởi kiện, Người bị kiện và phần hỏi cơng khai
tại phiên tịa đã thể hiện rõ nội dung của vụ. Tơi xin phép khơng tóm tắt lại nội dung
tranh chấp trong vụ án này.
Người khởi kiện yêu cầu Tịa án tun hủy tồn bộ Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014
của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh G.L. Tôi cho rằng yêu cầu
nêu trên của Người khởi kiện là hồn tồn có cơ sở chấp nhận bởi lẽ Quyết định số 23
ban hành không đúng với quy định của pháp luật cả về trình tự thủ tục, thẩm quyền,
nội dung thể hiện ở các nội dung sau đây:
Đầu tiên, xét về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số 23:
Thứ nhất, Quyết định số 23 không được ban hành đúng thời hạn luật định:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 66 Luật XLVPHC quy định:
“1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm
hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp
giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2

và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30
ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc
trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của
Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm
quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn
bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được
quá 30 ngày.”
Căn cứ vào quy định trên, có thể thấy, thời hạn tối đa để ra một quyết định xử
phạt vi phạm hành chính là 60 ngày nhưng phải thuộc “Trường hợp vụ việc đặc biệt
nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định
tại mục 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61”. Tuy nhiên, người bị kiện không thể đưa ra
giải thích tính đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp trong vụ án này là như
thế nào. Bên cạnh đó, cho dù vụ án này thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, có
nhiều tình tiết phức tạp thì vẫn vi phạm về vấn thời gian ra quyết định xử phạt, Biên
bản số 11 được lập vào ngày 23/12/2013 và ngày ban hành Quyết định số 23 là
ngày 10/3/2014, tức sau 77 ngày kể từ ngày lập Biên bản vi phạm, Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính mới được ban hành.
Đối chiếu theo quy định trên, Quyết định số 23 xử phạt vi phạm hành chính đối
với bà Tuyết được ban hành quá thời hạn theo quy định pháp luật.
Thứ hai, Quyết định số 23 sử dụng văn bản chưa có hiệu lực pháp luật để ra
quyết định xử lý vi phạm hành chính
Quyết định số 23 được ban hành căn cứ vào Biên bản số 11. Biên bản vi phạm
hành chính được lập vào ngày 23/12/2013 nhưng Quyết định số 23 lại căn cứ vào Nghị
định 167/2013/NĐ-CP có hiệu lực ngày 28/12/2013 (có hiệu lực sau ngày lập Biên bản
9


vi phạm hành chính) để ban hành. Bên cạnh đó, Biên bản số 11 cũng có dựa trên căn
cứ pháp lý là Nghị định số 158 có hiệu lực vào ngày 01/01/2014. Vào thời điểm xảy ra

vi phạm, Nghị định này vẫn chưa được áp dụng để thi hành việc xử phạt vi phạm hành
chính.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 73 Nghị định số 167:“đối với hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội;
phịng cháy và chữa cháy; phịng, chống bạo lực gia đình xảy ra trước ngày Nghị định
này có hiệu lực mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải quyết, thì áp dụng
các quy định có lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm”
Quyết định số 23 áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 25 Nghị định số 167 là
khơng có lợi cho bà Tuyết so với việc áp dụng các quy định xử lý hành vi vi phạm
hành chính tương đương tại các văn bản cũ như: Điểm đ khoản 3 Điều 14 Nghị định
số 73 hoặc khoản 2 Điều 20 Nghị định số 178 (là các quy định đã được thay thế bởi
Nghị định 167).
Như vậy việc áp dụng quy định tại Nghị định số 167 trong trường hợp này sẽ làm
tăng trách nhiệm hành chính và khơng có lợi cho người vi phạm. Điều này trái với
nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố nói chung và trái với quy định nêu trên tại khoản 1
Điều 73 của Nghị định số 167 nói riêng
Thứ ba, Quyết định số 23 có nội dung khơng đầy đủ và không phù hợp với quy
định của pháp luật
Quyết định số 23 khơng xác định ngày có hiệu lực thi hành. Hơn nữa, ngày giao
theo Điều 3 của Quyết định là “trong thời hạn 3 ngày” nhưng không rõ là 3 ngày kể từ
ngày nào. Nếu hiểu là 3 ngày kể từ ngày ra quyết định thì quy định như vậy là trái với
quy định tại Điều 70 Luật XLVPHC. Vì vậy nội dung nêu trên của quyết định khơng
phù hợp với quy định của pháp luật
Thứ tư, căn cứ để ban hành Quyết định số 23 là không phù hợp
Tại phần căn cứ của Quyết định số 23 có dẫn ra căn cứ ban hành Quyết định số
23 để xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Tuyết là Biên bản vi phạm hành chính do
Thanh tra Sở VH-TT & DL lập hồi 21 giờ 00 phút ngày 21/12/2013 tại số 241 Lê Lai,
Thành phố P, Tỉnh G.L. Nhưng ngày 21/12/2013, tại địa chỉ số 241 Lê Lai, Thành phố
P, Tỉnh G.L, bà Tuyết không hề bị lập Biên bản vi phạm hành chính nào. Thực tế, Biên
bản vi phạm hành chính được lập vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 23/12/2013.

Ngày 18/3/2014, Thanh tra Sở VH-TT & DL tỉnh G.L ban hành Cơng văn số
02/2014/CV-TTr để đính chính một số nội dung trong Quyết định số 23, trong đó có
nội dung sai sót về căn cứ Biên bản vi phạm hành chính. Tuy nhiên, vì Quyết định số
23 là quyết định hành chính mang tính quy phạm pháp luật nên không thể dùng Công
văn – văn bản khơng mang tính quy phạm pháp luật để đính chính. Do đó, Cơng văn
số 02/2014/CV-TTr khơng có giá trị pháp lý để đính chính Quyết định số 23.
Do vậy, căn cứ để ban hành Quyết định số 23 là không đúng nên Quyết định số
23 khơng có cơ sở để được ban hành.
Tiếp theo, xét về mặt thẩm quyền, Quyết định số 23 được ban hành không
đúng thẩm quyền
Điều 69 Nghị định số 167 quy định: “Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch có
thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính đối với những
hành vi quy định tại Mục 4 Chương II”.
Tuy nhiên, Quyết định số 23 áp dụng căn cứ pháp lý để xử phạt vi phạm hành
chính là khoản 1 Điều 25 thuộc Mục 2, Chương II của Nghị định 167/2013/NĐ-CP
(quy định về Vi phạm hành chính về phịng, chống tệ nạn xã hội). Như vậy, hành vi vi
10


phạm quy định tại khoản 1 Điều 25 Nghị định số 167 không thuộc thẩm quyền xử lý
của Thanh tra Sở VH-TT & DL.
Do đó, việc Chánh thanh tra Sở VH-TT & DL tỉnh G.L ra Quyết định số 23 xử
lý hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 25 Nghị định số 167 là không đúng thẩm
quyền luật định.
Cuối cùng, xét về mặt nội dung, bà Tuyết khơng có hành vi vi phạm hành
chính “thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở
kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” như nêu
trong Quyết định số 23
Quyết định số 23 được ban hành căn cứ vào Biên bản vi phạm hành chính số
11/BB-VPHC. Theo đó, Quyết định số 23 đã xử phạt vi phạm hành chính đối với hành

vi “Thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh
doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” theo quy định
tại Điều 25 Nghị định số 167.
Tuy nhiên tại nhà trọ Hồng Lan do bà Tuyết làm chủ khơng hề có hành vi mua
bán dâm này, khơng có chứng cứ chứng minh cho sự việc nêu trên. Tại điều 3 Pháp
lệnh số 10/2003/PL-UBTVQH11 ngày 17/03/2003 về phịng, chống mại dâm có quy
định rõ “1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả
tiền hoặc lợi ích vật chất khác. 2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi
ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. 3. Mại dâm là hành vi mua
dâm, bán dâm”. Trong Biên bản số 11 cũng không thể hiện hay ghi nhận chứng cứ nào
cho hành vi mua bán dâm và trong các bản tường trình đến Sở TT-VH & DL, cũng như
tại phiên tịa hơm nay, ơng Thường – bà Lành và ông Văn – bà Thùy đã khẳng định rất
nhất qn và rõ ràng rằng khơng có hành vi mua bán dâm giữa họ, mối quan hệ giữa
họ là vợ, chồng. Đồng thời, tại thời điểm ngày 23/12/2013, trong phòng số 11 thậm chí
khơng tồn tại hành vi giao cấu mà chỉ đang xem tivi.
Bên cạnh đó, việc bố trí phòng nghỉ nam, nữ riêng là quy định cũ tại mục 8.5
phần IV Thông tư 02/2001/TT-BCA ngày 04/05/2001 về trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân kinh doanh ngành nghề có điều kiện “Phải bố trí phịng nghỉ nam riêng, nữ
riêng (trừ trường hợp là gia đình, vợ chồng)”. Song, thơng tư này đã hết hiệu lực và
được thay thế bởi Thông tư 33/2010/TT-BCA ngày 05/10/2010 quy định cụ thể điều
kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện có hiệu lực
từ ngày 20 tháng 11 năm 2010, theo đó bà Tuyết khơng có trách nhiệm phải yêu cầu
khách là các cặp nam nữ ở chung phòng phải chứng minh họ là vợ chồng.
Như vậy việc Quyết định số 23 kết luận bà Nguyễn Thị Tuyết “có hành vi vi
phạm hành chính: thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng
cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” là
khơng có cơ sở và khơng phản ánh đúng sự thật khách quan
Từ các lý lẽ nêu trên, tôi xin kết luận lại rằng:
1. Quyết định số 23 không được ban hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật.

2. Quyết định số 23 được ban hành không đúng thẩm quyền theo quy định pháp
luật
3. Bà Tuyết không có hành vi vi phạm hành chính “thiếu tinh thần trách nhiệm
tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh,
trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” như nêu trong Quyết định số 23 (Xét về
mặt nội dung của quyết định)
11


Do đó, kính đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 193 Luật TTHC
tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị Tuyết, tuyên hủy toàn
bộ Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Tỉnh G.L.
Tôi xin cảm ơn Hội đồng xét xử, cảm ơn những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia phiên tòa đã chú ý lắng nghe phần trình bày. Kính đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét.

12


NHẬN XÉT BUỔI DIỄN ÁN
Câu hỏi nhận xét 1: Anh/chị đánh giá phương pháp hỏi và nội dung hỏi của
Luật sư bảo vệ cho bà Tuyết tại phiên tòa (2,5 điểm)
Luật sư đặt ra có lợi cho phía người khởi kiện, tạo điều kiện cho người khởi kiện
có thể trình bày những nội dung có lợi cho mình
Luật sư đặt ra câu hỏi rõ ràng, ngắn gọn đi vào trọng tâm
Cách đặt câu hỏi và cách trả lời của người luật sư bảo vệ tức bà Tuyết thể hiện
các bên đã trao đổi, thảo luận trước về các câu hỏi và cách trả lời này. Việc này giúp
ích rất nhiều cho bà Tuyết, bà Tuyết sẽ khơng bị mất bình tĩnh, không bị quá bất ngờ,
và dẫn đến việc trả lời suông sẻ, làm căn cứ để cho luật sư tranh luận.

Đối với việc hỏi Người mình bảo vệ thì không nên hỏi quá nhiều đối với mỗi
luận điểm. Ở đây Luật sư đã hỏi bà Tuyết quá nhiều câu hỏi chỉ để chứng minh 1 luận
điểm về hành vi vi phạm
Đối với bên bị kiện, Luật sư đã đặt ra câu hỏi mang tính "tấn cơng", câu hỏi
mang tính dẫn dụ khiến đối phương trả lời câu hỏi theo ý của mình. Điển hình là các
câu hỏi để xác định về nội dung khác nhau tại Biên bản số 11 và Quyết định số 23;
cũng như câu hỏi về thời gian ra quyết định xử phạt, căn cứ pháp lý áp dụng vào quyết
định xử phạt từ đó chứng minh thời gian ra quyết định đã quá hạn và cơ sở pháp lý áp
dụng không phù hợp. Tuy nhiên, ngồi ưu điểm trên cịn tồn tại việc Luật sư đặt câu
hỏi tạo điều kiện để bên bị kiện trình bày có lời cho bên bị kiện. Ví dụ như, liên quan
đến vđ thời hạn, LS hỏi NBK "Căn cứ nào lại gia hạn", đây là cơ hội để NBK giải
trình lí do gia hạn. Ls chỉ nên dừng lại ở việc xác định tổng thời gian xử lý là bao
nhiêu.

13



×