Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Chuyển đổi số trong mô hình đại học - doanh nghiệp: Kinh nghiệm của Viện Công nghệ Massachusetts và một số bài học rút ra cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.93 KB, 10 trang )

Đậu Xuân Đạt
Trần Thị Ngát
Trường Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội
Tóm tắt: Viện Cơng nghệ Massachusetts (MIT) là một viện tư thục theo mơ hình
đại học - doanh nghiệp và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình đào tạo,
nghiên cứu và cung ứng các dịch vụ cho xã hội. Q trình thực hiện mơ hình đại học
- doanh nghiệp của MIT đã gắn liền với quá trình chuyển đổi số từ năm 1999 đến nay.
Khơng chỉ thích ứng được với biến đổi của thị trường mà MIT cịn có thể vượt qua
được những thách thức do đại dịch Covid 19 mang lại. Vì vậy, cần thiết có các bài học
kinh nghiệm về chuyển đổi số từ MIT cho một số trường đại học của Việt Nam hướng
tới mơ hình này nhằm đổi mới, bắt nhịp với xu thế phát triển chung và từng bước hội
nhập với xu hướng phát triển của các trường đại học trên thế giới.
Từ khóa: Mơ hình đại học doanh nghiệp, chuyển đổi số, trực tuyến, số hóa, Việt Nam
Summary: Massachusetts Institute of Technology (MIT) is a private
Entrepreneurial University and has made great achievements in the process of training,
research and providing services to society. The implementation of the Entrepreneurial
University of MIT has been associated with the digital transformation from 1999 to the
present. Not only adapting to market changes, but also being able to overcome the
challenges brought by the Covid 19 pandemic. Therefore, it is necessary to have
lessons on digital transformation from MIT for a number of Vietnamese universities
towards this model in order to innovate, keep pace with the general development trend
and gradually integrate with the trend development direction of universities in the world.
Keywords: Entrepreneurial
digitalization, Vietnam

University,

digital

transformation,


online,

1. Chuyển đổi số trong mô hình đại học - doanh nghiệp
Cũng giống như các mơ hình đại học truyền thống về chức năng đào tạo và
nghiên cứu thì mơ hình trường đại học - doanh nghiệp (Entrepreneurial
University) còn thực hiện chức năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho xã
hội. Mơ hình đại học - doanh nghiệp (ĐH-DN) tạo ra các sản phẩm và dịch vụ từ
việc chuyển các trung tâm nghiên cứu thành các doanh nghiệp/xí nghiệp ngay
trong trường đại học. Các doanh nghiệp này sẽ thực hiện từ việc khảo sát thị
trường, nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngày nay, nhiều học giả đang
quan ngại do mơ hình này tập trung nhiều hơn về hiệu quả hoạt động cung cấp
477


sản phẩm và dịch vụ cho thị trường mà xa rời mục tiêu xã hội và cơng bằng.
Ngồi ra, mơ hình ĐH-DN có thể khiến nhà trường coi sinh viên là “khách hàng’’
để thương mại hóa các mục tiêu trong đào tạo và nghiên cứu. Mơ hình ĐH-DN
mặc dù vẫn còn nhiều điểm bất cập nhưng trong thực tế đây vẫn là mơ hình được
nhiều trường đại học nổi tiếng thế giới hướng tới và đạt được nhiều thành tựu
đáng kể, đặc biệt là các trường đại học phi lợi nhuận. Mơ hình ĐH-DN đáp ứng
đúng thực chất nhu cầu thị trường và hoạt động trong môi trường cạnh tranh nên
các chương trình đào tạo, nội dung giảng dạy, hoạt động nghiên cứu, cách tuyển
chọn giảng viên dựa vào tiêu chuẩn thị trường vẫn sẽ giúp cho nhà trường thực
hiện tốt chức năng đào tạo và nghiên cứu.
Các trường đại học nổi tiếng thế giới như Viện Công nghệ Massachusetts
Institute of Technology (MIT), Đại học Stanford, Californi, Washington,
Minnesota, Michigan, Georgia… của Mỹ; Đại học Luxembourg; Đại học quốc
gia Singapore (NUS); Đại học Thanh Hoa, Phúc Đán của Trung Quốc…đã xây
dựng thành cơng mơ hình ĐH-DN thơng qua đáp ứng các điều kiện về nâng cao
năng lực lãnh đạo quản lý, cải cách chương trình đào tạo gắn với thực tiễn, phát

triển đội ngũ giảng viên, chất lượng người học đánh giá qua chương trình khởi
nghiệp, hình thành các đối tác tin cậy và đặc biệt các trường đại học này thành
lập và phát triển được nhiều doanh nghiệp uy tín trên thị trường.
Khác với các mơ hình đại học truyền thống, áp lực cạnh tranh đã thôi thúc
các trường đại học theo mơ hình ĐH-DN chủ động để thích ứng tốt hơn với các
thách thức từ biến đổi thị trường trong thời gian qua, đặc biệt là đại dịch Covid
19. Một trong những phương thức hiệu quả mà các trường đại học này sớm thực
hiện đó là số hóa, ứng dụng số, chuyển đổi số trong các hoạt động đào tạo, nghiên
cứu, chuyển giao công nghệ và cung ứng sản phẩm cho thị trường thông qua các
doanh nghiệp được thành lập trong nhà trường.
2. Kinh nghiệm từ Viện Công nghệ Massachusetts - Mỹ
MIT là một viện đại học tư thục hàng đầu thế giới, với nhiệm vụ hàng đầu là
thực hiện đào tạo và nghiên cứu luôn gắn chặt với yêu cầu thực tế. MIT tiền thân
là trường Land Grant, là một đối tác phát triển của tiểu bang Massachusetts. MIT
là trường đại học chuyên ngành, gồm 34 khoa, phòng ban, trung tâm và phịng thí
nghiệm. Trường có hơn 1000 giảng viên, đào tạo gần 4500 sinh viên đại học và
hơn 6500 sinh viên sau đại học và sinh viên tham gia các khố học về cơng nghệ
nâng cao. Tuy nhiện, sinh viên của MIT chủ yếu là sinh viên nước ngồi.
Năm 1999, MIT bắt đầu số hóa để phục vụ cho hoạt động đào tạo, nghiên
cứu từ việc thành lập Hội đồng MIT về Công nghệ Giáo dục. Hội đồng này đã
đưa ra chương trình MIT OpenCourseWare (OCW) để định vị MIT trong môi
trường học tập từ xa e-learning. Chương trình OCW đã khởi xướng một mơ hình
478


số hóa mới để phổ biến kiến thức và hợp tác giữa các học giả trên khắp thế giới.
Mặc dù được sự ủng hộ của giảng viên song để số hóa được các tài liệu thì gặp
rất nhiều khó khăn trong quá trình xác định quyền sở hữu và xin phép xuất bản
đối với số lượng lớn các tài liệu khóa học đã đăng ký bản quyền của các giảng
viên MIT. Sau khi đảm bảo tính hợp pháp việc số hóa các tài liệu thì chương

trình OCW đã phải dành rất nhiều thời gian và nỗ lực kỹ thuật cần thiết để chuyển
đổi các tài liệu giáo dục sang định dạng trực tuyến nhằm đảm bảo bản quyền
trong tài liệu OCW vẫn thuộc về MIT, các thành viên trong giảng viên hoặc sinh
viên của MIT.
Sau khi thực hiện số hóa các tài liệu, MIT đã thực hiện ứng dụng số vào
năm 2002 thông qua trang web OCW để cung cấp thử nghiệm tài liệu của 32
khóa học đầu tiên. Quá trình thử nghiệm thành cơng đã thúc đẩy nhanh chóng
thúc đẩy quá trình chuyển đổi số. Tháng 9 năm 2003, OCW đã xuất bản tài liệu
khóa học thứ 500, trong đó một số khóa học đã chuyển đổi thành video các bài
giảng trực tuyến hoàn chỉnh đến người học. Đến năm 2004, có đến 900 khóa học
MIT đã được cung cấp trực tuyến. Năm 2005, MIT đã hợp tác với các trường đại
học lớn ở Mỹ và trên thế giới thành lập OpenCourseWare Consortium, nhằm tìm
cách mở rộng phạm vi tiếp cận và tác động của các tài liệu khóa học mở, thúc
đẩy các tài liệu khóa học mở mới và phát triển các mơ hình bền vững để xuất bản
tài liệu khóa học mở.
Năm 2007, OCW đã giới thiệu một trang web để học nâng cao cho các
trường thành viên MIT các khóa học ở cấp trung học cơ sở về tốn giải tích, vật
lý, hóa học và sinh học nhằm hỗ trợ giáo dục STEM của Hoa Kỳ. Năm 2011,
OCW đã thực hiện 15 khóa học đầu tiên cho những người học độc lập, mang tên
OCW Scholar. Hiện nay, các khóa học của OCW Scholar được cung cấp chuyên
sâu hơn và các tài liệu được trình bày theo trình tự hợp lý tạo điều kiện cho việc
tự học. Ngoài ra, kể từ năm 2012 đến nay OCW đã bổ sung tính năng tương tác
trực tiếp giữa các bên tham gia khóa học ngay trên trang web. Năm 2012, Harvard
và MIT đã phối hợp nghiên cứu để ra mắt edX. EdX cung cấp khóa học trực
tuyến mở (MOOC) khổng lồ nhằm cung cấp các cơ hội học tập trực tuyến cho
công chúng ở nhiều nước trên thế giới.
Ngày nay đã có nhiều tổ chức trên thế giới tham gia phong trào xây dựng
mơ hình giáo dục trực tuyến mở đại trà và nhiều tổ chức giáo dục bắt đầu cung
cấp các khóa học MOOCs. Nhờ các khóa học qua trực tuyến mà việc ghi danh
và hoàn thành chứng chỉ tại khơng chỉ MIT mà cịn nhiều trường đại học nổi

tiếng thế giới khác như Standford, Harvard, Yale…đã trở nên đơn giản hơn. Tính
đến năm 2020, edX - hệ thống MOOCs do Học viện MIT và Ðại học Harvard
phối hợp thành lập đã có hơn 3.000 khóa học trực tuyến với hơn 33 triệu người
479


học đến từ 196 quốc gia. Trong khi đó, Coursera - nền tảng MOOCs do ÐH
Standford xây dựng đã có hơn 130 nghìn học viên tham gia khoảng 6.400 khóa
học do hơn 200 trường ÐH và tổ chức trên toàn thế giới cung cấp. Các khóa học
trực tuyến mà đi đầu là MIT, cũng được đầu tư phát triển tại khu vực châu Á vài
năm trở lại đây, trong đó có Việt Nam. Khơng dừng lại ở việc miễn phí, MOOCs
đã thu hút được nhiều người trên toàn cầu tham gia là vì tính thực tiễn, hữu ích
của các khóa học. Do đó, MOOCs cũng đặt ra cam kết giúp người học đủ khả
năng vận dụng ngay kiến thức các khóa học vào cơng việc thực tế qua phương
pháp tích hợp lý thuyết với thực hành. Các bài học luôn được yêu cầu phải thiết
kế ngắn gọn với phần lý thuyết phong phú và dẫn chứng, minh họa thực tế, bảo
đảm tính ứng dụng cao, tăng khả năng tương tác.
Từ năm 2003 đến 2007, các nội dung trong video của khóa học chủ yếu ở
định dạng RealMedia. Bước chuyển đổi số có tính lan tỏa lớn bắt đầu từ năm
2008, MIT đã hợp tác thành công với Google để định dạng RealMedia của OCW
chuyển sang sử dụng YouTube làm nền tảng phát trực tuyến video kỹ thuật số
chính cho trang web. Các tệp video và âm thanh OCW cũng được cung cấp đầy
đủ để tải xuống ngoại tuyến trên iTunes U và Internet Archive. Hiện nay iTunes
U, phiên bản học tập của iTunes đã có hơn 500.000 bài giảng có sẵn để tải về
miễn phí. Ngồi ra, MIT cũng đã hợp tác với Irynsoft tạo ra phần mềm
LectureHall ứng dụng trên Iphone để cung cấp cho các giảng viên, người học và
cộng đồng sử dụng hiệu quả các tài nguyên tri thức mà MIT đã số hóa.
Gần 22 năm kể từ năm 1999, q trình số hóa, ứng dụng số và chuyển đổi
số được MIT thực hiện thành công trong việc đào tạo và nghiên cứu. Đại dịch
Covid 19 bùng phát mạnh ở Mỹ đã khiến cho nhiều hoạt động kinh tế, văn hóa,

giáo dục ảnh hưởng nặng nề. Tuy nhiên, hiệu trưởng L. Rafael Reif của MIT cho
biết, do nhiều năm kinh nghiệm về ứng dụng trực tuyến và chuyển đổi số nên
hoạt động đào tào, nghiên cứu của MIT vẫn đảm bảo tính hiệu quả cao dù MIT
gặp khó khăn khơng chỉ từ đại dịch và cịn từ chính phủ Mỹ (tháng 7/2020 Chính
phủ Mỹ đã ra thơng báo sinh viên nước ngoài đang theo học tại Mỹ sẽ phải về
nước hoặc đứng trước nguy cơ bị trục xuất nếu như đăng ký tồn bộ các tín chỉ
theo hình thức học trực tuyến). Vậy tại sao MIT lại thành cơng trong q trình
chuyển đổi số? Để trả lời câu hỏi này ta đi sâu phân tích các khía cạnh đặc trưng
từ mơ hình ĐH-DN:
Thứ nhất, vai trị quan trọng của các trung tâm và doanh nghiệp được MIT
thành lập trong việc thu hút kinh phí lớn từ hoạt động tài trợ của các ngành công
nghiệp. Thành công từ việc chuyển đổi số của MIT có vai trị đặc biệt quan trọng
của các doanh nghiệp được MIT thành lập trong quá trình huy động nguồn vốn
để thực hiện quá trình số hóa đến chuyển đổi số. Ngồi ngân sách của MIT thì
480


hàng năm các doanh nghiệp của MIT huy động được hàng tỷ USD cho q trình
chuyển đổi số. Thí dụ tính đến năm 2013, riêng chương trình OCW đã nhận
khoảng 3,5 tỷ USD từ các quỹ đầu tư mạo hiểm của các doanh nghiệp tài trợ thân
thiết với các doanh nghiệp của MIT.
Đó là các ngành cơng nghiệp đóng vai trị quan trọng trong các hoạt động
thương mại hố các kết quả nghiên cứu. Nguồn vốn đã giúp cho MIT nâng cao
chất lượng giáo dục, theo chủ tịch MIT, mối quan hệ giữa trường với các ngành
công nghiệp trong hoạt động nghiên cứu và kinh doanh đã giúp cho trường nâng
cao chất lượng giáo dục, đa dạng hoá nguồn tài trợ và tạo ra phương thức mới về
năng lực đóng góp của trường cho cộng đồng. Nguồn kinh phí do các công ty
cấp không chỉ được phân bố cho các đề án nghiên cứu ứng dụng mà còn chia xẻ
cho các nghiên cứu cơ bản đặc biệt là vốn mạo hiểm. Quan hệ hợp tác giữa MIT
với các công ty Amgen và Merek là rất chặt chẽ. Các công ty này đã ủng hộ cho

nhiều lĩnh vực nghiên cứu cơ bản như sinh học, các công nghệ mới y sinh, năng
lượng, chuyển đổi số… và ln duy trì các cuộc đối thoại về các xu hướng phát
triển công nghệ giữa các nhà khoa học với các công ty. Vốn cung cấp cho các
nghiên cứu trong lĩnh vực công nghiệp chiếm tới 16 đến 26% tổng vốn R&D, tỷ
lệ này là cao hơn so với Stanford và Berkeley.
Thứ hai, nguồn kinh phí cho khoa học và cơng nghệ. Để có khả năng thành
lập nhiều cơng ty thì cần thu hút nguồn tài chính để tài trợ cho các hoạt động
nghiên cứu. Các nhân viên chuyển giao công nghệ của MIT cho biết, càng tiếp
cận với nguồn tài chính dành cho hoạt động R&D lớn thì cơng nghệ phát triển
tốt và giá trị thương mại càng cao. MIT cịn có các trung tâm nghiên cứu chuyên
sâu. Theo khảo sát của Quỹ khoa học quốc gia (NSF) về nghiên cứu và phát triển
học thuật, MIT đã chi 435 triệu USD cho hoạt động nghiên cứu, đứng thứ 11
trong số các trường đại học Mỹ và đứng thứ 8 trong các trường tư nhân.
Thứ ba, chất lượng đào tạo của các khoa. Yếu tố chủ chốt dẫn tới sự thành
công trong chuyển giao công nghệ của MIT là nhờ chất lượng của khoa, năng lực
của khoa trong hoạt động đổi mới và thương mại hố. MIT ln đưa ra mục tiêu
là trường đạt chất lượng cao, do đó đã xây dựng được các khoa mạnh nhất, thu
hút sinh viên tài năng nhất. Chất lượng đào tạo của các khoa tại MIT được Uỷ
ban nghiên cứu quốc gia Mỹ xếp hạng là 4,7 điểm trên thang điểm 5 về cơng
nghệ. Chất lượng về chương trình đào tạo của MIT cũng lọt vào top 10, trong đó
ngành cơng nghệ thơng tin được xếp thứ nhất và ngành sinh học đứng vị trí thứ
hai. Đây là điều kiện quan trọng để sinh viên MIT sau khi tốt nghiệp có thể tham
gia được vào nguồn nhân lực cơng nghệ số. Nhân sự của MIT được tuyển dụng
từ nhiều nơi khác nhau, những người được tuyển dụng là những người có năng
481


lực thực sự, do đó MIT được xem như là toà tháp về học thuật tại Mỹ. Hoạt động
của giảng viên và nghiên cứu viên đều chú ý tới xu hướng thương mại hố. MIT
có hơn 53% số sinh viên đại học về các ngành công nghệ.

Thứ tư, là cơ cấu tổ chức. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức dựa trên ba trụ cột,
các văn phịng chuyển giao cơng nghệ, các chương trình khởi nghiệp và các hoạt
động nghiên cứu liên ngành. Nhiều tổ chức trong trường đại học đã tạo điều kiện
thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Ba bộ phận chính có vai trị quan trọng:
+ Văn phịng chuyển giao cơng nghệ: MIT có các chương trình chuyển giao
cơng nghệ năng động và thành cơng. Cơ quan chuyển giao các bằng sáng chế
(TLO) của MIT được thành lập năm 1945. Văn phịng TLO ln khuyến khích
các khoa đưa ra công nghệ mới, tiến hành thẩm định và định giá thị trường, sau
đó tiến hành đăng ký quyền sở hữu trí tuệ. TLO cịn đáp ứng u cầu của các nhà
đầu tư mạo hiểm, cùng thảo luận về sự thích ứng của cơng nghệ mới với các lĩnh
vực công nghiệp mà các khoa của MIT đang tiến hành nghiên cứu. MIT cũng xác
định việc chuyển giao công nghệ không được làm suy giảm tới chất lượng đào
tạo của trường. Sau khi chuyển giao công nghệ 15% tiền phí trả cho TLO, cịn
lại 1/3 dành cho các nhà sáng chế, 1/3 dành cho các phòng ban học thuật và 1/3
nộp vào quỹ chung của MIT. Các cơng trình nghiên cứu không phải là tài sản
riêng của bất cứ ai, phải được xuất bản công bố rộng rãi. Chỉ có bằng sáng chế
và bản quyền phát minh được quản lý thông qua cơ quan chuyển giao. Năm 2004
số lượng bằng phát minh sáng chế của MIT là 510, dẫn đầu trong các trường đại
học Mỹ, tiếp theo sau đó của Stanford là 270, của Berkeley là 110. MIT thu được
khoảng 60 triệu USD từ việc chuyển nhượng bản quyền.
+ Các chương trình khởi nghiệp: Trung tâm khởi nghiệp thuộc trường quản
trị Sloan của MIT, đã kết nối sinh viên trong trường, các khoa và đưa ra chương
trình nghiên cứu trong lĩnh vực thương mại điện tử, hoạt động tạo ra sản phẩm
mới, hoạt động mạo hiểm, hoạt động thành lập doanh nghiệp. Các nhà khoa học,
nhà quản lý và các kỹ sư công nghệ của MIT đã không chỉ tạo ra sản phẩm mới, ý
tưởng mới mà còn thành cơng trong các hoạt động thương mại hố trên phạm vi
tồn cầu, bởi vì các sản phẩm của họ được chấp nhận rộng rãi trên thế giới. Ngoài
hoạt động chuyển giao, MIT cịn khuyến khích sinh viên trong trường có hồi bão
mạo hiểm kiên nhẫn để đạt được thành cơng trong lĩnh vực công nghệ cao.
+ Trung tâm nghiên cứu liên ngành hỗ trợ cho chuyển đổi số: Đã từ lâu,

MIT đứng ra tài trợ vốn cho các hoạt động nghiên cứu liên ngành cho các cơ
quan nghiên cứu ngoài phạm vi của trường. MIT có 60 trung tâm nghiên cứu và
phịng thí nghiệm. Phịng thí nghiệm trong lĩnh vực điện tử được thành lập năm
1946 là phịng thí nghiệm hiện đại nhất của MIT. Bên ngồi MIT có phịng thí
482


nghiệm Lincoln dẫn đầu trong lĩnh vực điện tử phục vụ an ninh quốc phòng được
thành lập năm 1951. Viện nghiên cứu y - sinh học Whitehed với các nhân viên
làm việc cho khoa sinh học của MIT được lọt vào top 3 các viện nghiên cứu sinh
học trên toàn thế giới. Các công ty thành công như Millennium, Pharmar ceutical
và Biogen đều xuất phát từ các trung tâm nghiên cứu này.
3. Một số bài học rút ra cho các đại học hướng tới mơ hình đại học - doanh
nghiệp chuyển đổi số
Thực tế hiện nay, nhiều trường đại học ở Việt Nam đã và đang hướng tới
mơ hình đại học doanh nghiệp thơng qua các hình thức liên kết chặt chẽ với
doanh nghiệp như Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại
học Kinh tế Quốc dân, Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội…Từ kinh nghiệm
của MIT cho thấy, để các trường thực hiện chuyển đổi số thành cơng thì q trình
chuyển đổi số nên chú trọng các nội dung sau:
Kinh nghiệm của OCW của MIT cho thấy, các trường đại học Việt Nam
nên xây dựng quy trình hết sức bài bản từ việc số hóa, ứng dụng số và chuyển
đổi số. Trước mắt cần khuyến khích các giảng viên, người học đăng ký bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ các các bài giảng, cơng trình nghiên cứu, các khóa học. Sau
đó thực hiện số hóa các tài liệu, video rồi ứng dụng các phần mềm phù hợp, có
thể qua các phần mềm giảng dạy trực tuyến E-learning hoặc các phần mềm khác.
Chú trọng tăng cường số lượng các video, bài giảng, tài liệu trong quá trình ứng
dụng số trên các phần mềm phù hợp. Cuối cùng là chuyển đổi số, tức là chuyển
đổi thành các định dạng phù hợp cho từng đối tượng cụ thể (sinh viên, giảng viên,
cộng đồng) trong một thời gian dài và đảm bảo bản quyền vẫn phải thuộc các

trường đại học.
Khuyến khích tham gia các khóa học trực tuyến, trong đó có các khóa học
trực tuyến mở đại chúng. Trong thời gian giãn cách xã hội do Covid 19, nhiều
trường đại học ở Việt Nam giảng dạy, làm việc qua Zoom, Zavi, Email,
Facebook, E-learning…Tuy nhiên, đây mới chỉ là ứng dụng công nghệ số thông
qua việc giảng dạy, hội họp. Nhiều nền tảng miễn phí nên dễ dàng bị đánh cắp
thông tin. Trong khi, yêu cầu của một trường đại học cần nhiều hơn so với những
phần mềm đó mang lại. Khơng chỉ là các video mà cịn phải là rất nhiều tài liệu
liên quan khác cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu. Vì vậy, các trường đại học
này cần khai thác thêm các khóa học trực tuyến mở đại chúng như Moocs,
Coursera, edX, Udemy, FutureLearn… Thực tế ở Việt Nam MOOCs đã được
Trường ÐH Mở TP Hồ Chí Minh là cơ sở giáo dục đại học cơng lập tiên phong
triển khai mơ hình này từ đầu năm 2021, cung cấp những khóa học trực tuyến
miễn phí cho cộng đồng.
483


Tăng cường vai trò của các trung tâm, viện nghiên cứu trong các trường đại
học theo hướng mơ hình ĐH-DN. Đặc biệt, các trung tâm hoặc các doanh nghiệp
trong trường đại học phải tạo lập được mối quan hệ hết sức chặt chẽ giữa nhà
trường với doanh nghiệp. Nhà trường và các ngành công nghiệp là hai tổ chức
luôn hoạt động một cách độc lập, tách biệt nhau, nhưng có mối quan hệ liên kết
chặt chẽ với nhau. Trong đó các ngành cơng nghiệp là chủ thể chính, thúc đẩy
q trình đổi mới, trường đại học là trung tâm của các hoạt động đổi mới. Liên
kết, tương tác giữa nhà trường, các ngành công nghiệp trở thành xu thế tất yếu,
bởi vì trường đại học và các ngành cơng nghiệp đều hướng tới đổi mới và ứng
dụng công nghệ. Trường đại học là nơi sáng tạo ra tri thức mới, cịn các ngành
cơng nghiệp áp dụng các tri thức đó, cả hai đối tác cần đến nhau và hình thành
nên mục tiêu chung. Mối quan hệ này là điều kiện hình thành nên trường đại học
theo mơ hình doanh nghiệp, nhưng không phải là điều kiện đủ. Các trường đại

học khác nhau thì mục tiêu và hoạt động tham gia liên kết với các ngành cơng
nghiệp là hồn tồn khác nhau. Thí dụ, các trường đại học với chức năng đào tạo
thì tham gia vào thị trường lao động, quản lý nhân sự. Trường đại học nghiên
cứu tham gia vào q trình tạo tri thức mới và đào tạo. Cịn trường đại học doanh
nghiệp chủ yếu có ba chức năng đào tạo, nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ cho
xã hội. Do vậy, chỉ có trường đại học doanh nghiệp mới có thể tham gia tích cực
vào q trình đổi mới xã hội và nâng cao hiệu quả các hoạt động tương tác giữa
nhà trường và doanh nghiệp.
Nâng cao khả năng huy động vốn. Kinh nghiệm từ MIT cho thấy, các dự
án bao gồm cả dự án chuyển đổi số OCW, LectureHall… khơng chỉ có được
ngân sách đầu tư từ MIT mà phần lớn đến từ các doanh nghiệp thân thiết tài trợ,
thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm. Ở Việt Nam, nguồn thu của các trường đại
học chủ yếu dựa vào ngân sách và học phí của người học, đại học cơng lập tự
chủ thì chủ yếu từ học phí. Trong khi nguồn thu từ nghiên cứu khoa học và
chuyển giao cơng nghệ cịn rất hạn chế. Các trường đại học cần xây dựng chính
sách chuyển đổi số thông qua thu hút tài trợ các quỹ đầu tư mạo hiểm. Kinh
nghiệm của MIT về các dự án chuyển đổi số đó chủ yếu huy động vốn từ các
doanh nghiệp ở tiểu bang. Vì vậy, các trường đại học cũng xem xét ưu tiên huy
động vốn của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố hoặc các doanh
nghiệp mà nhà trường có lợi thế đào tạo. Ví dụ như trường đại học Công nghiệp
Dệt may Hà Nội nên tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ tập đoàn
Vinatex hoặc các doanh nghiệp dệt may ở Hà Nội và các tỉnh lân cận để thực
hiện quy trình từ số hóa đến chuyển đổi số trong thời gian tới.
484


Nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Một
trong những đặc trưng rất cơ bản của mơ hình ĐH-DN là nghiên cứu khoa học
và chuyển giao công nghệ phát triển mạnh. Các kết quả nghiên cứu không phải
chỉ để xuất bản mà trở thành nguồn lực đổi mới, đóng góp cho nền kinh tế, cho

xã hội đồng thời khơi nguồn cho các ý tưởng mới trong hoạt động nghiên cứu và
kinh doanh. Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ là lĩnh vực tạo nguồn
thu bổ sung rất lớn góp phần quan trọng vào q trình phát triển và nâng cao uy
tín, vị thế, thương hiệu và năng lực cạnh tranh của nhà trường. Vì vậy, các trường
đại học cần tích cực tìm kiếm các đề tài khơng chỉ từ nhà nước mà cịn tìm kiếm
đề tài từ các doanh nghiệp, đặc biệt là các đề tài để thực hiện chuyển đổi số cho
các doanh nghiệp đặt hàng.
Nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là nguồn nhân lực phục vụ cho phát
triển kinh tế số. Hiện nay ở Việt Nam vẫn chỉ chủ yếu đào tạo các ngành về công
nghệ kỹ thuật, công nghệ thông tin là phần nào đáp ứng được yêu cầu kinh tế số.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo thì các trường cần xác định cụ thể ngành
nghề nào có nhu cầu chuyển đổi số. Cần thiết hình thành các Vườn ươm khởi
nghiệp, thành lập doanh nghiệp, Trung tâm khởi nghiệp và chuyển giao công
nghệ để các tổ chức này cùng với đội ngũ giảng viên và doanh nghiệp thân thiết
tham gia đào tạo nguồn nhân lực có khả năng chuyển đổi số. Trong thời đại kinh
tế số, hoạt động của trường đại học sẽ rất thành công khi dựa trên các sáng kiến
nhờ hoạt động R&D, đầu tư nhờ có đội ngũ nhân lực chất lượng cao và nhiều
yếu tố khác. Khi sinh viên tốt nghiệp, muốn thành lập các công ty mới, quỹ đầu
tư mạo hiểm sẵn sàng cấp kinh phí, giới thiệu các nhà khoa học trẻ đã có kinh
nghiệm giúp đỡ các doanh nghiệp hoạt động.
Nâng cao trình độ của Bộ máy quản lý các trường đại học theo hướng năng
động. Có thể xem mơ hình ĐH-DN là mơ hình quản trị trường đại học giống như
quản trị doanh nghiệp với các đặc trưng năng động, linh hoạt, luôn gắn liền việc
giải quyết các khó khăn, tìm kiếm các cơ hội phát triển. Trong khi đó, mơ hình
quản trị trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay về cơ bản vẫn theo theo
cơ chế cũ, cơ chế kế hoạch hóa tập trung và một số trường hiện nay theo cơ chế
tự chủ. Vì vậy, cần có những người lãnh đạo có đầu óc doanh nghiệp, có tài năng
lãnh đạo, có tầm nhìn xa, có khả năng thuyết phục vần động, dám nghĩ, dám làm
để thực hiện chiến lược chuyển đổi số cho nhà trường và doanh nghiệp.
Ở các trường theo mô hình ĐH-DN thường thành lập Hội đồng giảng viên.

Hội đồng này chỉ có vai trị tư vấn cho Chủ tịch hội đồng trường và Ban Giám
hiệu chứ khơng có quyền quyết định. Những vấn đề hội đồng giảng viên đưa ra
485


xem xét thường rất đa dạng, phong phú. Từ đó đóng góp thêm ý kiến từ vấn đề
lý luận và thực tiễn về chuyển đổi số cho nhà trường.
Kết luận
Hiện nay vẫn chưa thể khẳng định mơ hình ĐH-DN là mơ hình tối ưu cho
các trường đại học trên thế giới. Tuy nhiên, qua nghiên cứu từ MIT có thể thấy
được tính chủ động và linh hoạt với từng bối cảnh thị trường. Q trình chuyển
đổi số của MIT khơng chỉ thể hiện qua chất lượng đào tạo ngày càng được nâng
cao mà các sản phẩm từ hoạt động nghiên cứu cũng được thương mại hóa. Chính
vì vậy, nghiên cứu kinh nghiệm từ chuyển đổi số của MIT có nhiều giá trị tham
khảo cho các đại học ở Việt Nam, đặc biệt là các đại học đang hướng tới mô hình
ĐH-DN hoặc là các đại học có mối liên hệ thân thiết với doanh nghiệp trong hoạt
động đào tạo và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
[1].
[2].
[3].

[4].
[5].
[6].
[7].

Etizkowitz.H (2002), MIT and the rise of Entrepreneurial science, Routledge. New York.
Louis.K.S, Blumental.D (1989), Entreprenuers in Academe: An Exploration of behaviors
among life scientists, Administrative Science Quarterly, Vol 34, No 1, 110-31.

Nguyễn Minh Hiển, Nguyễn Hoàng Lan (2014), Liên kết đại học và doanh nghiệp ở Việt
Nam: Thực trạng và giải pháp tháo gỡ các rào cản, Tạp chí Giáo dục và Thời đại, Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
O’Shea.R.P, Allen T.J (2005), Creating the Entrepreneurial University: The case of MIT,
Presented at Academy of Management Conference, Hawaii.
Trần Văn Tài, Trần Văn Tùng (2009), Liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp
trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. massachusetts-cho-radoi-khoa-hoc-truc-tuyen-mien-phi.htm
/>
486



×