Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số kinh nghiệm trong việc lựa chọn, xây dựng, nhân rộng mô hình xóa đói, giảm nghèo và chống tái nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc Mông và Dao tại các huyện khu vực núi đất –

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.24 KB, 8 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC LỰA CHỌN, XÂY DỰNG, NHÂN
RỘNG MƠ HÌNH XĨA ĐĨI, GIẢM NGHÈO VÀ CHỐNG TÁI NGHÈO BỀN
VỮNG CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG VÀ DAO TẠI CÁC HUYỆN KHU
VỰC NÚI ĐẤT – BÀI HỌC TỪ DỰ ÁN Ở XÃ BẢN PÉO,
HUYỆN HỒNG SU PHÌ, TỈNH HÀ GIANG
Nguyễn Viết Hiệp(1), Đàm Thế Chiến(2), Ngơ Văn Giới(3)
Tóm tắt
Sau 3 năm thực hiện chính (2000 – 2002), 3 năm hỗ trợ nhân rộng mơ hình (2003 – 2005) và 8
năm theo dõi, đánh giá (2006 – 2013), kết quả cho phép rút ra nhận xét ban đầu, trong tổng số 11 mơ
hình được thực hiện trên cả 2 nhóm đối tượng, những mơ hình phù hợp cho nhóm đồng bào dân tộc
Mông sống trên núi đất gồm: 1. Mơ hình trồng cây lâm nghiệp (Sa Mộc); 2. Mơ hình trồng, khai thác
lâm sản ngồi gỗ; 3. Mơ hình trồng thâm canh ngô xuân hè và tăng vụ đậu tương hè thu trên đất nương
rẫy; 4. Mơ hình thâm canh lúa cạn trên đất nương rẫy; 5. Mơ hình thâm canh lúa trên đất ruộng bậc
thang 1 vụ; 6. Mơ hình chăn ni bị lấy thịt và sức kéo; 7. Mơ hình chăn ni ong. Các mơ hình phù
hợp cho nhóm đồng bào dân tộc Dao gồm: 1. Mơ hình trồng thâm canh, tăng vụ đậu tương xuân trên
đất ruộng bậc thang 1 vụ; 2. Mơ hình thâm canh lúa trên đất ruộng bậc thang 1 vụ; 3. Mô hình chăn
ni bị sinh sản và sức kéo; 4. Mơ hình chăn ni ong; 5. Mơ hình chăn ni vịt; 6. Mơ hình ni cá
chép vàng tại ruộng bậc thang; 7. Mơ hình trồng mới, cải tạo, thâm canh chè Shan tuyết. Các kinh
nghiệm được rút ra là: Việc hỗ trợ nhân rộng mơ hình chỉ được tiến hành sau khi có q trình tự đánh
giá của người dân vùng xây dựng mơ hình. Nên lồng ghép hoạt động của mơ hình với các hoạt động
khác tại địa phương. Khi đưa giống mới, nhất là giống đậu tương, ngô vào trồng trên đất nương, rẫy
đối với đồng bào dân tộc Mông phải rất cẩn trọng do khả năng chống mối mọt của các giống ngô, đậu
tương mới kém rất xa các giống bản địa, tốt nhất là sử dụng giống địa phương có can thiệp về kỹ thuật
chăm sóc, bón phân.
Từ khóa: Mơ hình xóa đói, giảm nghèo; Bài học kinh nghiệm; Dân tộc Mông, Dao; Khu vực núi
đất; Hà Giang
(1): Viện Thổ nhưỡng Nơng hóa
(2): Trung tâm Nghiên cứu Đất, Phân bón vùng Trung du
(3): Khoa Khoa học Mơi trường & Trái Đất, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên

1. ĐẶT VẤN ĐỀ


Người Dao (người Mán) với dân số
khoảng 800 nghìn người, thường sống ở lưng
chừng núi, nơi ở phân tán, rải rác 5 – 7 nóc
nhà, hoạt động sản xuất chủ yếu là ruộng bậc
thang, nương định canh, chỉ một số ít là thổ
canh hốc đá. Người Mơng (H’mong, Mèo),
dân số khoảng 1.100 nghìn người, thường
sống trên núi cao, hoạt động sản xuất chủ yếu
là nương định canh hoặc du canh (Nguyễn
Văn Huy, 2003). Đây là 2 nhóm tộc người
sinh sống trong những vùng xung yếu về an
ninh và quốc phịng của đất nước (ví dụ như
tỉnh Hà Giang). Ổn định cuộc sống cho họ
đồng nghĩa với việc tạo ra sự bền vững về
chính trị, ổn định về xã hội.
Xố đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn miền núi, nhất là vùng đồng bào
2 dân tộc này đã được Đảng, Nhà nước ta quan
tâm, giải quyết từ rất sớm. Nhà nước đã giành

riêng một Chương trình xây dựng các mơ hình
ứng dụng Khoa học Công nghệ và phát triển
kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi. Dự án
“Xây dựng mô hình canh tác bền vững trên đất
dốc tại xã Bản Péo, huyện Hồng Su Phì, tỉnh
Hà Giang” là một trong những dự án thuộc
chương trình trên. Dự án được thực hiện ở
huyện Hồng Su Phì thuộc vùng núi đất của
tỉnh Hà Giang, nơi có đồng thời cả 2 dân tộc
sinh sống là dân tộc Mông và dân tộc Dao.

Sau khi dự án chính kết thúc, từ năm 2003
đến năm 2005, chương trình VietCanSol đã hỗ
trợ cho việc duy trì và mở rộng những kết quả
thiết thực của dự án Bản Péo với đề tài nhánh:
“Hỗ trợ chuyển giao kết quả mơ hình canh
tác bền vững trên đất dốc ở xã bản Péo ra
diện rộng quy mơ xã và huyện Hồng Su Phì,
tỉnh Hà Giang”. Sự hỗ trợ của chương trình đã
góp phần quan trọng vào việc nhân rộng các
kết quả hữu ích của các mơ hình phù hợp với

217


sự mong mỏi của người dân địa phương.
Thông qua kết quả hỗ trợ này, rất nhiều bài
học kinh nghiệm được rút ra từ vấn đề lựa
chọn mơ hình, đến việc tổ chức nhân rộng mơ
hình sao cho người dân dần dần tiếp thu và
ứng dụng KHCN ngày càng nhiều và có hiệu
quả, trên cơ sở đó góp phần thúc đẩy cơng
cuộc phát triển kinh tế xã hội, xố đói giảm
nghèo và bảo vệ mơi trường lâu dài của huyện
Hồng Su Phì nói riêng, khu vực vùng cao núi
đất có 2 đồng bào dân tộc Dao, Mơng sinh
sống nói chung.
2. ĐỊA ĐIỂM, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Khái quát về địa điểm thực hiện
Tỉnh Hà Giang: Là một tỉnh miền núi, có

90% là đồng bào các dân tộc thiểu số (người
Mông chiếm 32%, Dao chiếm 15,1%), tỉnh
miền núi nghèo khó nhất trong cả nước. Tỉnh
có 3 khu vực địa hình là: Vùng núi đá, vùng
núi đất và vùng thấp.
Huyện Hồng Su Phì: Là 1 huyện thuộc
khu vực vùng cao núi đất, 12 dân tộc sinh
sống.
Xã Bản Péo: Nằm ở phía Đơng - Nam
huyện Hồng Su Phì, cách huyện lị khoảng 25
km, là một trong số xã nghèo của huyện
Hồng Su Phì, thuộc diện hỗ trợ chương trình
135, hoạt động chính là sản xuất nông lâm
nghiệp, cơ sở hạ tầng rất thấp, tập quán,
phương thức canh tác lạc hậu, và là một trong
những điểm nóng về di dân tự do của huyện
trước đây. Tồn xã có 3 dân tộc: Hmơng, Dao,
Tày, sống ở 4 thôn bản: Bản Péo, Nậm Dịch,
Thành Công và Kết Thành.
2.2. Phương pháp thực hiện
- Phương pháp xây dưng mơ hình:
ONFARM.
- Các biện pháp kỹ thuật áp dụng:
Áp dụng giống mới: Các giống lúa mới
(San ưu 63, LN 931), đậu tương (DT90, DT
99, AK 06...), ngô (CP - DK999), giống cỏ
chăn ni (Stiria, TD580, cỏ Voi, Watemala),
vịt chun trứng (Khakicampbell)… có phẩm

chất tốt, thích ứng với địa phương vào cơ cấu

giống cây trồng và vật nuôi.
Áp dụng các biện pháp canh tác, chăn
ni tiên tiến: Tạo đường băng chống xói mịn,
cây che phủ đất, bón phân hợp lý cho các
giống địa phương, phòng trừ sâu bệnh, tiêm
phòng dịch, làm chuồng trại, kỹ thuật tách đàn
ong, quay mật bằng thùng chuyên dụng....
Tập huấn kỹ thuật: Theo phương thức
cầm tay chỉ việc, tập huấn tại chỗ.
3. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
3.1. Một số kết quả tóm tắt về xây dựng mơ
hình ở xã Bản Péo
Trong pha 1 (2000 – 2002), 11 mơ hình
đều được thực hiện đồng thời trên cả 2 nhóm
hộ dân tộc Dao và Mông với số lượng bằng
nhau về hộ tham gia. Sang pha 2 (pha kéo dài
của dự án, 2003 - 2005), tùy thuộc vào hiệu
quả của từng mơ hình với các nhóm hộ khác
nhau mà số lượng hộ tham gia, nhân rộng có
sự khác nhau.
Theo cấu trúc từ trên xuống dưới, hiệu
quả của từng mơ hình được trình bày tóm tắt
như sau
 Mơ hình trồng cây lâm nghiệp (Sa mộc)
Trong 2 năm đầu tiên (2001, 2002), dự án
tiến hành hướng dẫn kỹ thuật làm giàu vốn
rừng, thiết kế khoanh ni rừng đầu nguồn
trong mơ hình là 20 ha, phân chia các lơ đất
dốc bằng những băng cỏ chống xói mịn và
băng cốt khí. Đồng thời cung cấp 5 vạn cây

giống sa mộc cho 100 hộ (50 hộ dân tộc Mông
và 50 hộ dân tộc Dao). Năm 2005, trên cơ sở
nhu cầu thực tế của người dân địa phương, dự
án đã hỗ trợ bán phần (hỗ trợ tiền giống, kỹ
thuật chăm sóc) cho 27 hộ dân tộc Mơng gieo
ươm thành công 45 kg giống sa mộc bản địa
(tỷ lệ sống đạt 92%) nhằm phục vụ cho mùa
trồng rừng mới năm 2006, 2007. Do chu kỳ
thu hoạch của cây sa mộc là 8 - 10 năm nên
đối với diện tích sa mộc dự án hỗ trợ trồng
năm 2002 mới bắt đầu cho thu hoạch. Số sa
mộc còn lại đều được bảo vệ và chăm sóc tốt
đảm bảo khơng để xảy ra hiện tượng cháy
rừng, chết do sâu hoặc bệnh.

Hình 1: Phát cây giống (ảnh trên) và rừng Sa mộc 2 tuổi (ảnh dưới)

218


 Mơ hình trồng, khai thác lâm sản ngồi
gỗ
Năm 2001, chương trình bắt đầu hỗ trợ mơ
hình trồng thảo quả, sa nhân dưới tán rừng cho
40 hộ gia đình. Năm 2004, diện tích này bắt
đầu cho thu hoạch. Nhận thấy lợi nhuận cao,

17 hộ dân tộc Mông đã chủ động đề xuất dự án
hỗ trợ kỹ thuật nhân ươm thảo quả, 21 hộ nhân
giống Sa nhân. Dự án đã hỗ trợ cho các hộ này

một phần kinh phí mua hạt giống và tổ chức
tập huấn kỹ thuật.

Hình 2: Vườn ươm cây thảo quả (ảnh trái) và chăm sóc cây thảo quả (ảnh phải)
Ngô xuân hè: Giống mới CP - DK999 và kỹ
 Mơ hình trồng thâm canh ngơ xn hè
thuật canh tác đã được đưa vào với 90 hộ tham
và tăng vụ đậu tương hè thu trên đất nương
gia, năng suất đạt 52,6 tạ/ha (đối chứng 31,1
rẫy
tạ/ha).
Hàng năm trên đất nương đồi ở Bản Péo chỉ
có một vụ ngơ xn hè khơng có thâm canh
Đậu tương hè thu: Năm 2001, giống mới,
với giống địa phương năng suất thấp sau đó bỏ
ngắn ngày DT99 được đưa vào cho 82 hộ tham
hóa. Mơ hình này giúp người dân nâng cao
gia, năng suất đạt trên 10 tạ/ha (đối chứng: 5
năng suất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ ngô
tạ/ha). Các năm sau diện tích tăng lên 34 – 40
xn hè – bỏ hố sang ngơ xn - đậu tương hè
ha/năm.
thu, tăng diện tích và thời gian che phủ đất.

Hình 3: Ngơ xn hè (ảnh trái) và đậu tương hè thu tăng vụ (ảnh phải) trên đất nương
 Mơ hình thâm canh lúa cạn trên đất
 Mơ hình thâm canh lúa trên đất ruộng
nương rẫy
bậc thang 1 vụ
Trong 2 năm đầu tiên, dự án tiến hành đưa

Trong 2 năm 2001, 2002, dự án đã hỗ trợ
giống lúa cạn mới là LN 931 (quy mô 8 ha,
nơng dân xây dựng 20 ha mơ hình thâm canh
mỗi năm 4 ha), đồng thời tập huấn kỹ thuật
lúa trên đất ruộng bậc thang, giống ShanƯu 63
chăm sóc, bón phân cho 80 hộ khơng có nhu
với tổng số 222 lượt hộ tham gia. Năm 2004,
cầu sử dụng giống mới (chỉ sử dụng giống cũ
2005, ngoài việc vẫn tiếp tục duy trì các mơ
là giống Mộ địa phương). Điểm đặc biệt là hầu
hình mẫu, đề tài đã hỗ trợ thêm 1.135 kg giống
hết các hộ chỉ sử dụng giống cũ là các hộ dân
lúa ShanƯu 63 cho người dân địa phương
tộc Mông, sống ở các bản xa trung tâm xã. Sau
nhằm tạo điều kiện cho nhiều hộ được trực tiếp
khi đưa giống mới và tiến bộ kỹ thuật vào kết
tham gia mở rộng mơ hình. Năm 2005, diện
quả cho thấy giống LN 931, năng suất 20,7
tích trồng lúa lai ShanƯu 63 đã tăng lên 44 ha,
tạ/ha. Giống địa phương (lúa Mộ) 12 tạ/ha.
tăng 11 ha (33,3%) so với năm 2004. Điều này

219


cho thấy người dân đã nhận thức được hiệu
quả kinh tế của việc trồng lúa lai mang lại.
Năng suất lúa thực thu năm 2005 trong mơ
hình thâm canh tăng vụ đạt 7,63 tấn/ha tăng
gấp đôi so với năng suất lúa của địa phương.

 Mơ hình trồng thâm canh, tăng vụ đậu
tương xuân trên đất ruộng bậc thang 1 vụ
Do đặc thù của thời tiết nơi đây chỉ
trồng được 1 vụ lúa trên ruộng bậc thang vì
vậy hệ số sử dụng đất không cao, trong vụ
xuân phần lớn đất đai bị bỏ hố, chỉ có một
phần rất nhỏ gieo trồng giống địa phương năng
suất thấp. Từ năm 2001, dự án tiến hành xây

dựng mơ hình tăng vụ thơng qua trồng thâm
canh đậu tương hoặc ngơ xn hè. Năm 2001,
mơ hình đã triển khai được 2 ha đậu tương
xuân bằng giống TBKT AK06 với 34 hộ tham
gia. Vụ xuân 2002, dự án đã tiến hành triển
khai mang tính chất mở rộng. Đặc biệt, DT99,
AK06 đã được thu mua và bán theo giá chỉ đạo
cho bà con trong xã Bản Péo để nhân ra diện
rộng, có giống cung cấp cho vùng. Chính vì
vậy mà diện tích đậu tương xuân trên đất trồng
một vụ lúa đã tăng trên 6 lần (13,5 ha năm
2002) so với năm năm 2001 (có 2 ha), chiếm
khoảng khoảng 15% diện tích được trồng 2 vụ.

Hình 4: Mơ hình tăng vụ đậu tương xuân và thâm canh lúa trên đất ruộng bậc thang
1.000 kg cỏ giống Stiria và TD580 để nhân
 Mơ hình ni cá chép vàng tại ruộng
giống cho tồn vùng, cỏ phát triển tốt có khả
bậc thang
năng thích nghi. Đến năm 2005, mơ hình được
Trước đây, bà con tại địa phương có tập

nhân rộng ra các hộ trong tồn xã. Bên cạnh cỏ
qn ni cá chép tại ruộng nhưng chỉ phục vụ
qua đông, một số loại cỏ mới cũng đã bắt đầu
nhu cầu của gia đình. Năm 2004, 2005, dự án
được đưa vào trồng thử nghiệm và bước đầu
đã tố chức tập huấn kỹ thuật nuôi cá này cho
cho kết quả khả quan như cỏ voi, cỏ
112 hộ gia đình. Đảm bảo ngồi việc cung cấp
Watemala…Năm 2004, dự án hỗ trợ một phần
lương thực tại chỗ bà con có thể phơi hoặc bán
nhỏ tiền mua bị giống sinh sản, bị ni lấy
trực tiếp cho các thương lái đến mua vào mùa
thịt và bị cho sức kéo… ngồi ra còn tổ chức 3
thu hoạch. Năm 2007, sản lượng các chép ni
lớp tập huấn kỹ thuật về chăm sóc bị sinh sản,
tại ruộng được bán trực tiếp đã lên tới 5,4 tấn.
bị lấy thịt và bị cho sức kéo.
 Mơ hình trồng cỏ chăn ni, thú ý và
 Mơ hình trồng mới, cải tạo, thâm canh
hỗ trợ ni bị (sinh sản, lấy thịt và sức kéo)
chè Shan tuyết
Trong pha 1 của dự án, đã tiến hành cung
Dự án đã tiến hành tập huấn kỹ thuật và
cấp 01 tủ thuốc thú y cho trung tâm xã và 04
xây dựng 10 ha mơ hình trình diễn về kỹ thuật
túi thuốc thú y cho 4 khuyến nơng thơn bản với
bón phân, tỉa đốn, trồng cây che phủ đất và
đầy đủ trang thiết bị và một lượng thuốc thú y
băng chống xói mịn. Vì vậy năng suất chè tươi
cơ bản nhất. Dự án đã triển khai tiêm chủng

đạt 1.122 kg/ha (năng suất ngồi mơ hình là
phịng dịch cho tồn bộ đàn gia súc và một số
658 kg/ha).
gia cầm vùng dự án. Có 146 hộ tham gia mơ
hình phịng dịch. Dự án cũng đã cung cấp

Hình 5: Mơ hình trồng cỏ chăn ni (ảnh trái) và cải tạo, chăm sóc chè Shan tuyết

220




Mơ hình chăn ni ong
Dự án đã đã cấp 40 đàn ong giống và 01
thùng quay mật thủ công bằng inox cho địa
phương, bước đầu đã phát huy được hiệu quả
trong việc lấy mật ong, tăng số lần thu mật lên
2,5 lần, năng suất mật từ 2,4 lít lên 6 lít/thùng
cầu/năm (tăng 2,5 lần). Năm 2005, Bản Péo
phát triển được 188 tổ ong (tăng 14 tổ so với
năm 2004). Với lượng mật trung bình của một
tổ là 06 lít/năm và giá bán tại địa phương là

40.000 đồng/lít. Tồn xã đã thu được
45.120.000 đồng.
 Mơ hình chăn ni vịt
Bước đầu, dự án đã cấp 1.240 con vịt (740
con vịt giống chuyên trứng Khakicampbell)
cho 86 hộ tham gia mơ hình cùng với máng ăn,

thức ăn và thuốc phòng dịch bệnh ban đầu.
Cho đến nay đàn vịt đã ổn định, thích nghi dần
với điều kiện địa phương.

Hình 6: Mơ hình ni vịt chun trứng
là hoạt động thường xuyên của họ, người
3.2. Sự phù hợp của các mơ hình đối với
Mơng có rất nhiều giống lúa nương bản địa.
từng nhóm hộ theo dân tộc tại dự án Bản
Chính vì vậy, khi có mơ hình này họ hồ hởi áp
Péo
- Mơ hình trồng cây lâm nghiệp (Sa mộc):
dụng tuy nhiên họ thường ít chấp nhận giống
Người Mông sống gần rừng, canh tác nương
mới hơn so với người Dao mà chủ yếu họ học
rẫy là chính vì vậy mơ hình này rất được người
cách bón phân, mật độ gieo...
dân quan tâm. Thực tế có thể người dân tộc
- Mơ hình thâm canh lúa trên đất ruộng bậc
Dao cũng quan tâm tuy nhiên do khơng có diện
thang 1 vụ: Cũng giống như các đồng bào dân
tích đất rừng, đất nương mà chỉ có đất ruộng
tộc vùng cao khác, với người dân xã bản Péo bậc thang nên họ khơng có điều kiện áp dụng
Hồng Su Phì - Hà Giang, cây lúa vẫn là là cây
mơ hình này.
trồng quan trọng hàng đầu. Sản lượng lúa mỗi
- Mơ hình trồng, khai thác lâm sản ngoài gỗ:
vụ sẽ quyết định phần lớn mức thu nhập của
Người Dao rất hay làm thuốc, phụ nữ Dao
người dân nơi đây. Vì vậy, có thể nói, đối với

cũng thường hay vào rừng để khai thác lâm sản
đồng bào địa phương nói chung, nhóm 2 dân
ngoài gỗ tuy nhiên các hoạt động trồng, chăm
tộc bản địa tại đấy nói riêng, đây là mơ hình họ
sóc những cây lâm sản ngoài gỗ lại được người
quan tâm nhất. Trước đây, với giống địa
Dao ít quan tâm. Đối ngược lại, người Mông
phương, mật độ cấy không phù hợp (cấy q
thường rất quan tâm đến mơ hình này, họ có
thưa), khơng chăm sóc nên thường năng suất
thể đi bộ sang tận Trung Quốc hay các tỉnh lân
rất thấp, nay việc đưa giống lúa mới cùng các
cận để học cách trồng.
tiến bộ canh tác đã làm cho mọi người hồ hởi
- Mơ hình trồng thâm canh ngơ xn hè và
làm theo, diện tích hàng năm đối với áp dụng
tăng vụ đậu tương hè thu trên đất nương rẫy:
tiến bộ kỹ thuật ln ln tăng. Tuy nhiên có
Như đã nói ở trên, người Dao thường có số
điều lưu ý, đối với các bản làng xa trung tâm
lượng nương rẫy ít hơn người Mông, nên mô
xã, sống trên núi cao, mặc dù có ruộng bậc
hình này thường được người Mơng quan tâm
thang nhưng họ vẫn canh tác bằng giống cũ,
hơn. Họ rất thích mơ hình này vì nếu thơng
địa phương, họ chỉ áp dụng thêm kỹ thuật
thường họ chỉ có 1 vụ thu hoạch ngơ để làm
chăm sóc, bón phân, mật độ cấy. Họ thích ăn
món mèn mén, nay được thêm 1 vụ đậu tương
bằng gạo giống cũ do chất lượng tốt hơn.

để có thể bán, đổi lấy các thứ khác mà họ cần.
- Mơ hình trồng thâm canh, tăng vụ đậu
- Mơ hình thâm canh lúa cạn trên đất nương
tương xn trên đất ruộng bậc thang 1 vụ:
rẫy: Thổ canh hốc đá thường rất ít được người
Người Mơng có đặc tính thiếu tự tin, ngần ngại
Dao áp dụng, chỉ hạn chế đối với một số nhóm
sợ lỡ vụ lúa mùa vì vậy mơ hình này thường
bản địa riêng biệt. Ngay khi có điều kiện là họ
khơng được họ đón nhận; trái lại, người Dao
chuyển xuống thấp hơn, tiếp giáp với vùng
rất thích mơ hình này vì họ có thể bán được
ruộng bậc thang. Với người Mông, lúa nương

221


đậu tương, dùng đậu tương ăn hàng ngày và
làm tương như người Kinh.
- Mơ hình trồng cỏ chăn ni, thú y và hỗ
trợ ni bị (sinh sản, lấy thịt và sức kéo): Cả 2
nhóm đều thích mơ hình này tuy nhiên người
Dao thích hơn vì đối với người Dao, gia súc
thường khơng khơng được thả rơng mà có sự
chăn thả, họ cần cỏ để cho gia súc, đặc biệt là
về mùa đơng. Người Mơng thì sau vụ làm đất,
gia súc thường được thả vào rừng, đến vụ mới
mang về, vấn đề cỏ ít được quan tâm hơn. Họ
ni trâu nhiều hơn bị. Bị ni chủ yếu là làm
thịt. Đối với người Dao, họ thích ni bị sinh

sản, bị cũng có thể lấy sức kéo nhưng khơng
nhiều.
- Mơ hình ni cá chép vàng tại ruộng bậc
thang: Người Dao ưa sống cạnh sông suối (tất
nhiên là so với người Mông chứ không so với
người Thái) vì vậy việc đánh bắt cá là cơng
việc u thích của họ. Bữa ăn của họ cũng
thường có cá nhiều hơn là so với người Mơng.
Vì vậy, họ tiếp nhận mơ hình này rất nhanh.
- Mơ hình trồng mới, cải tạo, thâm canh chè
Shan tuyết: Người Mông có những nương chè
cổ thụ rất lớn, tuy nhiên họ không chấp nhận
cải tạo chúng (tỉa đốn cành hàng năm, bón
phân...). Người Dao dễ chấp nhận hơn, họ
đồng ý với kỹ thuật bón phân, một số là tỉa
đốn.
- Mơ hình chăn ni ong: Cả 2 nhóm đều
thích mơ hình này, nhất là người Mông. Trước
đây họ chỉ biết khai thác đàn ong rừng ngồi tự
nhiên, nay có kỹ thuật này họ có thể chủ động
tách đàn, nhân ni, vắt mật mà vẫn giữ được
đàn. Họ sẵn sàng gặp cán bộ khuyến nông và
dự án để hỏi về kỹ thuật tách đàn.
- Mơ hình chăn ni vịt: Các gia đình người
Dao thường đào các ao nhỏ gần nhà sàn nơi họ
sinh sống, vì vậy việc kết hợp ni vịt rất dễ
được họ chấp nhận. Họ cũng thích ăn trứng
nên thường chủ động đăng ký nhận vịt giống.
3.3. Các bài học rút ra từ dự án trong vấn
đề lựa chọn, xây dựng, nhân rộng mơ hình

- Do đặc điểm phân bố cư trú, người dân tộc
Mơng thường sống trên núi cao, vì vậy hoạt
động canh tác của họ gắn chủ yếu với rừng,
nương rẫy, chỉ một số ít là ruộng bậc thang.
Người Dao, vì sống thấp hơn người Mơng trên
cùng một địa bàn cư trú, hoạt động sản xuất
gắn với ruộng bậc thang, đồi núi thấp và sơng
suối. Vì vậy, khi lựa chọn các hộ tham gia xây
dựng mơ hình cần phải chú ý đến vấn đề này.
Ví dụ, người Dao thích bắt cá do sống gần
sơng suối nên mơ hình ni cá chép tại ruộng

222

rất dễ đi vào trong khi đó người Mơng lại rất
khó tiếp thu mơ hình này.
- Cân nhắc việc đưa các giống mới vào hệ
thống canh tác của người Mơng khi mới bắt
đầu xây dựng mơ hình, có chăng chỉ nên dừng
ở lại vấn đề phổ biến kỹ thuật chăm sóc, bón
phân cho chính những cây trồng bản địa mà
người dân địa phương đang trồng. Các giống
mới có đặc điểm hạt mềm, độ cứng thấp, khả
năng chống chịu mọt kém, người dân tộc
Mơng lại có đặc điểm thu hoạch nơng sản xong
ít bán ngay mà thường để treo trên gác bếp một
thời gian dài. Khi đó thường các giống mới rất
hay bị mọt ăn và như vậy trong suy nghĩ của
đồng bào là “cán bộ nó khơng mang cho mình
cái giống tốt rồi“. Hơn thế nữa, việc tập chung

vào kỹ thuật chăm sóc sẽ góp phần bảo tồn
nguồn gen bản địa tại địa phương.
- Các đề tài, dự án thường bao giờ cũng có
mục: “xây dựng mơ hình“ và “nhân rộng mơ
hình“. Kết quả thực hiện tại Bản Péo cho thấy
việc hỗ trợ nhân rộng mơ hình chỉ được tiến
hành sau khi có q trình tự đánh giá của
người dân vùng xây dựng mơ hình. Tránh hiện
tượng nhân rộng mơ hình ồ ạt, khơng đạt hiệu
quả cao. Với bản tính thật thà, khi người dân
thích mơ hình nào người ta có thể gặp trực tiếp
cán bộ khuyến nông hoặc cộng tác viên
khuyến nông để đề nghị hỗ trợ.
- Phải lồng ghép được các dự án, các chương
trình phát triển của các tổ chức, cá nhân... với
nhau như thế sẽ phát huy tối đa hiệu quả của
các dự án. Bên cạnh đó, cần có sự phối kết hợp
với các ban ngành của địa phương để hỗ trợ
trong vấn đề bao tiêu sản phẩm. Ví dụ như, khi
Bản Péo trồng đậu tương, sản phẩm được
huyện thu mua toàn bộ để làm giống cấp cho
các hộ khác.
- Mở các lớp đào tạo, tập huấn kĩ thuật ngắn
hạn tại điểm thực hiện dự án cho lực lượng lao
động chính trong gia đình tuỳ thuộc vào đặc
điểm của từng dân tộc. Với các bản làng có
đơng người Mơng sinh sống thì các lớp tập
huấn nên chú trọng đến lực lượng nữ giới còn
đối với các bản người Dao nên chú ý cả đến
lực lượng lao động nam vì đây chính là 2

nhóm lao động chính và quyết định có thực
hiện mơ hình cho gia đình hay khơng.
- Trong giai đoạn đầu thực hiện dự án có thể
có các hình thức hỗ trợ toàn phần một số vật tư
ban đầu như: giống, phân bón. Việc hỗ trợ bán
phần (kéo dài khoảng 2 - 3 năm sau đó) sẽ
được thực hiện ngay sau khi khẳng định được
hiệu quả mơ hình. Tránh trường hợp “cho
khơng và không cho nữa“.


- Hỗ trợ thành lập các tổ – nhóm – câu lạc
bộ làm kinh tế. Thông qua các hoạt động của
câu lạc bộ này trao đổi và học hỏi những kinh
nghiệm lẫn nhau hay cách thức làm kinh tế có
hiệu quả ở những địa phương khác. Các hộ có
thể đưa ra những vấn đề khó khăn gặp phải khi
trồng trọt, chăn ni gia súc, gia cầm,… từ đó
hội có thể giúp đỡ về kỹ thuật chăm sóc, bảo
vệ gia súc, gia cầm tránh khỏi dịch bệnh cũng
như cho vay với lãi suất thấp một phần kinh
phí để các hộ làm kinh tế.
- Để xây dựng, nhân rộng mơ hình đối với 2
nhóm dân tộc này cần chú ý đến vai trị của các
cấp hội, đồn thể tại địa phương, đặc biệt là 3
cấp hội: Phụ nữ, Cựu Chiến binh và Đoàn
Thanh niên.
+ Đối với Hội Phụ nữ: Do đặc thù cấu trúc
xã hội tại xã Bản Péo nói riêng và các vùng
đồng bào dân tộc nói chung là mặc dù các chủ

hộ gia đình là nam giới nhưng lực lượng lao
động chính về nơng – lâm nghiệp lại chủ yếu
là giới nữ. Các hoạt động hàng ngày ngoài
nương rẫy và ruộng bậc thang chủ yếu do
người phụ nữ đảm nhiệm. Ý thức được vấn đề
này ngay từ khi dự án bắt đầu triển khai, bên
cạnh việc tìm kiếm và xây dựng các mơ hình
trình diễn tại các hộ gia đình thì việc thúc đẩy
các hoạt động của các hội đồn thể đặc biệt là
phụ nữ trong vấn đề phát triển các mơ hình
canh tác bảo vệ đất ra diện rộng ở quy mô cấp
xã và huyện.
+ Hội cựu chiến binh: Trong tổng số 42 mơ
hình trình diễn điểm tại 4 thơn bản của Bản
Péo về mơ hình canh tác bảo vệ đất thì có đến
35 mơ hình là của các hội viên có sinh hoạt
trong câu lạc bộ cựu chiến binh như vậy có thể
thấy được tính tích cực và khả năng nhận thức
của các hội viên trong hội này. Mặc dù chỉ có
số hội viên là 40 nhưng hiện nay tất cả 40 hội
viên này đều tham gia trong 6 câu lạc bộ
khuyến nông thôn bản (các câu lạc bộ này một
tháng sinh hoạt 2 lần tại nhà các hội trưởng).
Hiện nay đã có 21 hội viên tham gia trồng cỏ
chăn ni trên diện tích 8 ha. Số diện tích cỏ
này được trồng xen tạo các băng chắn chống
xói mịn trên các nương dốc mới chuyển đổi.

+ Đồn thanh niên: Đây là lực lượng lao động
trẻ, có trình độ nhận thức và khả năng học hỏi

cao trong các nhóm xã hội tham gia phát triển
các mơ hình canh tác bảo vệ đất. Từ năm 2001
đến nay đoàn thanh niên xã (với 68 đoàn viên)
đã tham gia cùng với dự án tổ chức được 11
buổi tập huấn kỹ thuận trồng đậu tương xuân
trên đất ruộng bậc thang đáng chú ý có tới 7
buổi tập huấn được tổ chức ngồi đồng ruộng
tại chi đồn Bản Péo nơi có đa phần đồn viên
là người Mông không được đến trường.
4. KẾT LUẬN
 Thành công của dự án: Dự án Bản Péo
được coi là 1 dự án khá thành công. Khi dự án
rút đi người dân vẫn tiếp tục duy trì và nhân
rộng được ra toàn xã cũng như các xã bên cạnh
đối với những mơ hình có hiệu quả
 Tính phù hợp của các mơ hình: Trong điều
kiện vùng cao, núi đất ở huyện Hồng Su Phì,
tỉnh Hà Giang, hầu hết các mơ hình phù hợp
cho nhóm hộ đồng bào dân tộc Mơng là các
mơ hình gắn với rừng, nương rẫy, chỉ có một
số ít là gắn với ruộng bậc thang trong khi đấy,
mơ hình phù hợp cho nhóm đồng bào dân tộc
Dao là các mơ hình gắn với ruộng bậc thang,
chăn ni gần gia đình.
 Các bài học kinh nghiệm: Lựa chọn hộ:
Phải căn cứ vào đặc điểm phân bố cư trú của
người dân tộc bản địa, tránh lựa chọn hình
thức, bổ đều; Giống mới: Cân nhắc việc đưa
các giống mới vào hệ thống canh tác của người
Mông khi mới bắt đầu xây dựng mơ hình. Nên

sử dụng giống cũ của họ có kết hợp với biện
pháp canh tác; Nhân rộng mơ hình: Chỉ tiến
hành sau khi có q trình tự đánh giá của
người dân vùng xây dựng mơ hình. Q trình
nhân rộng mơ hình nên lồng ghép với các dự
án khác nếu có; Tập huấn: Phải gắn với đối
tượng chính về lao động và chủ trong gia đình.
Với người Mơng chú ý đến giới nữ, với người
Dao chú ý đến giới nam; Hình thức hỗ trợ: Hỗ
trợ tồn phần ở pha 1 của dự án và hỗ trợ bán
phần trong pha 2 của dự án; Vai trị cấp hội,
đồn thể: Chú ý đến vai trò của hội phụ nữ, hội
cựu chiến binh và đoàn thanh niên trong hoạt
động xây dựng, tuyên truyền, nhân rộng dự án.

223


Tài liệu tham khảo :
1. Chương trình VietCansoil – Hỗ trợ chuyển giao khoa học công nghệ mở rộng mô hình canh tác
bền vững trên đất dốc tại xã Bản Péo, huyện Hồng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Hà Nội 2005, 20 trang.
2. Đặng Văn Minh - Đánh giá hiệu quả và tính bền vững của một số chương trình canh tác trên đất
dốc. Tạp chí Khoa học đất số 23/2005, trang 88-92.
3. Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên – Một số vấn đề về lâm nghiệp xã hội trong mối quan hệ với sử
dụng hiệu quả và bền vững đất vùng cao ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học đất số 21/2005, trang 99104.
4. Nguyễn Văn Tú – Hiệu quả từ dự án hướng dẫn người nghèo làm khuyến nông.
5. Viện Thổ nhưỡng Nơng hóa – Xây dựng mơ hình canh tác bền vững trên đất dốc tại xã Bản Péo,
huyện Hồng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Hà Nội 2002, 85 trang.

224




×