Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA QUÁ TRÌNH DÂN CHỦ HÓA ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NÀY VỚI THỰC THI QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.45 KB, 14 trang )

Chủ đề:
ẢNH HƯỞNG CỦA Q TRÌNH DÂN CHỦ HĨA ĐẾN SỰ BIẾN
ĐỔI QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ. LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NÀY VỚI
THỰC THI QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
BÀI LÀM
A. MỞ ĐẦU
Quyền lực là khả năng của chủ thể này buộc các chủ thể khác phục tùng ý chí
của mình, song trong nhiều trường hợp, quyền lực khơng phải là khả năng vốn có của
chủ thể mà là khả năng do các chủ thể khác mang lại (giao cho). Quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay do nhân dân, cộng đồng giao cho Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội khác thực hiện. Để quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước được thực hiện đúng, có hiệu quả, khơng bị lạm dụng, lợi dụng vào các
mục đích khơng hợp pháp, khơng chính đáng, thì cần phải có sự kiểm sốt thật chặt
chẽ.
Trong xã hội hiện đại, quyền lực chính trị cần phải hợp pháp và chính đáng,
nghĩa là, chúng phải được tổ chức và thực thi hợp pháp, hợp lý vì lợi ích của nhân
dân. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng bảo đảm cho các quyền lực nói trên được
nhân dân trong cả nước chấp thuận, ủng hộ, được các nước khác, các tổ chức quốc tế
thừa nhận, giúp đỡ... Có thể nói tính hợp pháp, hợp lý là một trong những yêu cầu
quan trọng trong tổ chức và hoạt động không chỉ của bộ máy nhà nước mà còn của bộ
máy tất cả các tổ chức khác trong trong xã hội hiện nay. Điều đó chỉ có thể đạt được
khi việc kiểm sốt quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước được tiến hành thường
xuyên, hiệu quả.
Như vậy, trong bối cảnh xã hội hiện nay việc ảnh hưởng của q trình dân chủ
hóa đến sự biến đổi quyền lực chính trị là vấn đề bức thiết đối với Đảng và Nhà nước
ta. Đồng thời, đề ra các giải pháp tăng cường kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt
Nam, góp phần vào việc chống tha hóa quyền lực, đẩy mạnh thực hành dân chủ trong
xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, của nhà nước
trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Vì vậy tơi chọn đề tài: “Ảnh
hưởng của q trình dân chủ hóa đến sự biến đổi quyền lực chính trị. Liên hệ vấn
đề này với thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm nội dung viết bài


thu hoạch, nhằm làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiển về sự biến đổi quyền
lực chính trị hiện nay.
1


B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA Q TRÌNH DÂN CHỦ HĨA ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ.
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm về dân chủ, quá trình dân chủ hóa
1.1.1. Khái niệm về dân chủ
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ VII – Vi trước công nguyên. Các
nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại đã dùng cụm từ “demoskratos” để nói đến dân chủ, trong
đó đó “demos” là nhân dân (danh từ) và “kratos” là cai trị (động từ). Theo đó, dân
chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính trị gọi giãn lược là
quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử. Theo C. Mác và Ph.Ăng-ghen, dân chủ là
phương tiện tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng tồn diện những năng lực
vốn có của mỗi cá nhân, tức quyền con người được bảo đảm và thực hiện đầy đủ. Đặc
trưng cơ bản của dân chủ là tất cả các công dân đều có quyền tham dự đời sống chính
trị, quyền lực cao nhất của đất nước thuộc về đại diện của nhân dân; mọi cơng dân
đều có quyền bình đẳng trước pháp luật.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Thường thức Chính trị (1953) Bác
đã viết “Dân chủ tức là dân là chủ”, Người chỉ rõ “Ở nước ta chính quyền là của
nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân
bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Như vậy
thông qua quan điểm rất ngắn gọn về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên hai
nội dung quan trọng của “Dân chủ”. Thứ nhất, dân chủ tồn tại với tư cách là quyền
của nhân dân, quyền được làm chủ chính quyền, làm chủ nhà nước, làm chủ chế độ,

quyền lựa chọn, xây dựng nên cơ quan dân cử. Thứ hai, dân chủ là một chế độ chính
trị, một hình thức nhà nước khi có sự tham gia của tất cả quần chúng nhân dân trong
việc xây dựng, điều hành hoạt động của nhà nước, nhà nước đại diện cho quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân.
1.1.2. Khái niệm về dân chủ hóa
Dân chủ hóa là một từ trong khoa học chính trị và xã hội học để chỉ những thay
đổi về mọi mặt trong xã hội, với mục đích là để thay thế những cấu trúc xã hội độc
đoán, tập trung quyền lực vào một nhóm người bằng một hệ thống mà người dân có

2


thể kiểm sốt quyền lực, góp tiếng nói, cùng quyết định một cách tự do và như vậy
đưa tới một xã hội công bằng hơn.
1.2. Khái niệm về quyền lực, quyền lực chính trị
1.2.1. Khái niệm về quyền lực
Theo Max Weber, quyền lực là khả năng của một chủ thể buộc chủ thể khác
phải hành động theo ý muốn của mình, bất kể sự kháng cự.
Một phạm trù khác có liên quan chặt chẽ với khái niệm quyền lực là quyền uy.
Trong tác phẩm Bàn về quyền uy, Ăngghen quan niệm: “Quyền uy nói ở đây, có
nghĩa là ý chí của người khác mà người ta buộc chúng ta phải tiếp thu; mặt khác,
quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề”.
Dù các định nghĩa về quyền lực đều hàm chứa và phản ánh các phương diện
khác nhau, nhưng ý tưởng căn bản là: Quyền lực là năng lực của một chủ thể, buộc
chủ thể khác phải hành động theo ý chí của mình.
1.2.2. Khái niệm về quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ thể chính trị (giai cấp, lực lượng
xã hội,...) trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình đối với các chủ thể khác trong
xã hội nhằm hiện thực hóa lợi ích của bản thân.
1.3. Các đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị

1.3.1. Tính tất yếu khách quan
Quyền lực xuất hiện, từ nhu cầu của hoạt động sản xuất, phân công lao động xã
hội. Đây là hoạt động cho nhu cầu sống, do vậy là hoạt động quan trọng nhất của con
người. Theo Ăngghen, từ sự phối hợp giữa các cá nhân trong quá trình sản xuất, xuất
hiện nhu cầu cần có một quyền lực cơng để phân cơng, chỉ huy q trình này. Chính
vì vậỵ, mà “một quyền uy nhất định, khơng kể quyền uy đó đã được tạo ra bằng cách
nào, và mặt khác, một sự phục tùng nhất định, đêu là những điều mà trong bất cứ tổ
chức xã hội nào, cũng đều do những điều kiện vật chất trong đó tiến hành sản xuất và
lưu thông sản phẩm, làm cho trở thành tất yếu đối với chúng ta”. Sự gắn bó giữa các
cá nhân thành xã hội là một khuynh hướng tự nhiên. Xã hội vận động, phát triển đến
trình độ nhất định dẫn đến phân hóa giai cấp và tất yếu nhà nước ra đời để điều hòa
các mâu thuẫn giai cấp. Quyền lực chính trị ra đời dựa trên cơ sở khách quan hoạt
động của giai cấp và nhà nước để duy trì ổn định trật tự và phát triển của xã hội.
Quyền lực chính trị xuất hiện, do đó là tất yếu khách quan, trong một giai đoạn phát
triển nhất định của lịch sử xã hội.
1.3.2. Tính giai cấp
3


Quyền lực chính trị chỉ hình thành trong xã hội đã phân chia giai cấp và xuất
hiện nhà nước. Đặc trưng này phản ánh mục tiêu thực chất của quyền lực chính trị là
nhằm thiết lập, duy trì trật tự, bảo vệ và phát triển các lợi ích, mà căn bản và trước hết
là lợi ích kinh tế cho giai cấp nắm quyền. Do vị trí, vai trị của các giai cấp, các lực
lượng xã hội rất khác nhau nên nguồn lực cũng khác nhau.
1.3.3. Tính chính đáng
Tính cưỡng ép của chủ thể ra lệnh (kể cả bằng bạo lực) dù lớn đến đâu cũng
chưa đảm bảo đạt được mục đích đặt ra, vì kết quả cịn phụ thuộc vào sự kháng cự
của đối tượng bị quyền lực chi phối. Muốn đảm bảo quyền lực được thực thi một
cách hiệu quả, nó cần nhận được sự chấp thuận của người bị mệnh lệnh chi phối. Tức
là quyền lực đó cần có tính chính đáng.

Dù cịn có những tranh luận về các tiêu chí khác nhau để xác định tính chính
đáng chính trị nhưng nhìn chung có một số tiêu chí được thừa nhận rộng rãi như sau:
tính đại diện lợi ích, tính hợp pháp và hợp lệ trong cách thức đạt quyền lực và tính
hợp lý. Ba yếu tố này tạo nên cấu trúc cho tính chính đáng của quyền lực theo 3
phương diện: giá trị, thủ tục, hiệu quả.
1.4. Các chủ thể của quyền lực chính trị và các phương thức thực thi
quyền lực chính trị
1.4.1. Các chủ thể của quyền lực chính trị
Chủ thể của quyền lực chính trị hết sức đa dạng trong đời sống chính trị; đó có
thể là các giai cấp, các lực lượng, các tổ chức và cá nhân có mục tiêu chính trị, có khả
năng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào q trình giành, giữ, thực thi quyền lực
chính trị. Cụ thể như: các giai cấp, các đảng chính trị, Nhà nước, các nhóm lợi ích,
các tổ chức và phong trào xã hội.
1.4.2. Các phương thức thực thi quyền lực chính trị
Phương thức thực thi quyền lực chính trị là những cách thức mà thơng qua đó
một chủ thể quyền lực đạt được mục tiêu mong muốn của mình. Có thể kể đến một số
phương thức thực thi quyền lực phổ biến sau:
- Dùng sức mạnh: Là phương thức các chủ thể sử dụng quyền lực dựa trên sức
mạnh buộc đối tượng phải phục tùng. Chủ thể sử dụng sức mạnh trong thực thi quyền
lực có thể là các giai cấp, các lực lượng xã hội, các nhà nước, trong đó chủ yếu là nhà
nước. Đối với nhà nước, đây thường là quyền lực được giao theo quy định của pháp
luật, là thẩm quyền chính thức và hợp pháp của những người nắm giữ các vị trí tại
các cơ quan cơng quyền. Để thực thi thẩm quyền, quyền lực của một chủ thể phải có
4


tính chính đáng.
- Dùng sự ảnh hưởng: Ảnh hưởng là cách thức chủ thể quyền lực tác động đến
nhận thức, hệ giá trị của đối tượng nhằm làm thay đổi thái độ, hành vi của họ theo
mong muốn của mình. Ở Việt Nam, cùng với q trình dân chủ hóa hiện nay thì

phương thức gây ảnh hưởng, thuyết phục, nêu gương càng trở nên có ý nghĩa trong
thực thi quyền lực.
- Dùng cơ chế tư vấn, cung cấp thông tin: Phương thức này tập trung vào việc
“xây dựng năng lực” cho người dân, cho các đối tượng bị quyền lực chi phối. Chủ thể
tiến hành tư vấn, cung cấp thông tin có thể là nhà nước, các đảng chính trị hoặc các tổ
chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ...
2. Ảnh hưởng của q trình dân chủ hóa đến sự biến đổi quyền lực chính
trị
2.1. Biến đổi về cơ sở thực tiển của quyền lực chính trị
Trong lịch sử, quyền lực chính trị của mỗi quốc gia chủ yếu dựa trên cơ sở sức
mạnh quân sự và sức mạnh kinh tế. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, với nền kinh tế
tri thức, các quá trình sản xuất chủ yếu dựa vào trí tuệ, vào tri thức của con người.
Chính tri thức chứ khơng phải các nguồn lực hữu hình ngày càng chiếm tỷ trọng cao
trong việc tạo ra các cơng nghệ mang tính đột phá, tạo ra của cải vật chất và quyết
định sự phát triển của một quốc gia.
Tri thức xã hội góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức chung của
người dân về các vấn đề của cộng đồng, quốc gia. Mặt khác, khoa học công nghệ
phát triển cũng làm thay đổi nhận thức của người dân. Khả năng và điều kiện tham
gia của nhân dân vào đời sống chính trị tăng lên.
Tóm lại, trước đây chủ thể cầm quyền có thể chủ yếu dựa trên cơ sở quyền lực
“cứng”, dựa trên sức mạnh bạo lực, sức mạnh kinh tế để giành, giữ và thực thi quyền
lực chính trị, thì ngày nay chủ thể cầm quyền cần phải dựa trên cả cơ sở quyền lực
“mềm”, dựa trên sức mạnh của tri thức, thông tin... Do đó, kiến tạo tri thức, quản trị
thơng tin, phát huy dân chủ là những nội dung mới cần được tính đến để thực thi
quyền lực một cách hiệu quả.
2.2. Biến đổi về cấu trúc phân bổ quyền lực chính trị
Bối cảnh mới không chỉ tạo ra sự thay đổi trong cơ sở của quyền lực chính trị
mà cịn tạo ra những thay đổi trong cấu trúc phân bổ quyền lực trong phạm vi quốc
gia và phạm vi toàn cầu.
- Sự dịch chuyển quyền lực giữa các nhà nước – quốc gia

5


Trong thế giới đương đại, quyền lực không chỉ tập trung vào một vài siêu
cường như trước đây mà có sự dịch chuyển sang nhiều quốc gia khác, đặc biệt là các
quốc gia mới nổi (nhóm các quốc gia mói nổi viết tắt là khối BRICS bao gồm Braxin,
Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi). Bên cạnh đó, các quốc gia được biết đến như
các nền kinh tế có thứ hạng cao là Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước Bắc Âu,... cũng
khơng ngừng gia tăng ảnh hưởng của mình. Hệ quả là trật tự chính trị thế giới ngày
nay khơng còn do một vài siêu cường chi phối, mà đã hình thành một cục diện mới,
một nhóm các cường quốc cùng có tiếng nói về các vấn đề tồn cầu.
Các nước lớn không dễ dàng đe dọa hay trừng phạt các nước nhỏ như trong các
giai đoạn trước đây. Bản thân các nước nhỏ trong thế giới ngày nay cũng không tồn
tại một cách độc lập. Họ tham gia vào các khối, các liên minh hay cộng đồng khác
nhau (như ASEAN, EU, Cộng đồng cảc quốc gia Mỹ Latinh và Caribê - CELAC,...),
để từ đó tạo thêm sức mạnh giúp họ bảo vệ độc lập, chủ quyền của mình.
- Sự thay đổi cán cân quyền lực giữa các nhà nước với các chủ thể phi nhà
nước
Điều này thể hiện ở việc quyền lực từ chỗ chỉ tập trung trong tay nhà nước như
trước đây đang có xu hướng được chia sẻ một phần cho các chủ thể quyền lực ngoài
nhà nước (như các thể chế quốc tế - IOS, các tổ chức phi chính phủ - NGOs và các
tập đồn xuyên quốc gia - TNCs). Xu hướng này được biểu hiện cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, vai trò và sự ảnh hưởng của các tổ chức, các định chế quốc tế ngày
càng gia tăng;
+ Thứ hai, sự gia tăng áp lực đối với nhà nước của các tổ chức phi chính phủ;
+ Thứ ba, sự can thiệp ngày càng mạnh mẽ của các tập đoàn xuyên quốc gia
vào đời sống chính trị các quốc gia.
- Sự dịch chuyển quyền lực trong từng nhà nước
Ở cấp độ quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, xu hướng phân tán
quyền lực cịn được thể hiện ở q trình phân cấp, phân quyền của chính quyền trung

ương cho chính quyền các địa phương. Cơ sở cho sự điều chỉnh này là muốn trao
thêm sự chủ động, sáng tạo cho các địa phương trong quá trình giải quyết các vấn đề
tại cơ sở.
Mặt khác, ở từng quốc gia, vai trò của nhà nước cũng đang ngày càng được
nhận thức lại, theo đó nhà nước chỉ tập trung vào khắc phục sự kém hiệu quả của thị
trường; những việc thị trường làm tốt, nhà nước sẽ khơng làm. Điều đó có nghĩa rằng,
phạm vi can thiệp của quyền lực nhà nước sẽ bị thu hẹp.
6


2.3. Biến đổi trong phương thức thực thi quyền lực chính trị
Trong các phương thức thực thi quyền lực chính trị thì phưong thức dựa trên
thẩm quyền chính thức và hợp pháp đang dần trở thành cơ chế chủ đạo. Pháp luật
ngày càng được coi là chuẩn mực trong các ứng xử chính trị. Một hệ thống pháp luật
đồng bộ và đầy đủ sẽ tạo cơ sở cho việc thực thi quyền lực chính trị một cách khách
quan, cơng bằng. Nó cũng góp phần tạo ra tính ổn định của q trình đưa ra các quyết
định chính trị, sự ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể quyền lực cũng như tính
minh bạch trong hoạt động của xã hội nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng.
2.4. Biến đổi trong phương thức kiểm sốt quyền lực chính trị
Khi nói tới các phương thức kiểm sốt quyền lực chính trị hiện nay phải kể tới
các phương thức chính như: sự tự kiểm soát của các chủ thể quyền lực, kiểm soát
giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước và kiểm sốt của các chủ thể ngồi nhà
nước. Phương thức kiểm sốt thơng qua hệ thống thể chế (kiểm sốt giữa các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp) được xem là căn bản nhất. Tuy nhiên, trong xã hội
hiện đại, phương thức kiểm sốt quyền lực chính trị đã có những biến đổi nhất định,
cụ thể:
- Xu hướng tăng cường kiểm sốt quyền lực chính trị từ các chủ thể bên ngồi
nhà nước: như các đảng chính trị (đảng đối lập); các tổ chức truyền thông; các tổ
chức xã hội; từ người dân - đã thể hiện rõ tính hiệu quả trong phản biện, gây áp lực,...
buộc các cơ quan nhà nước phải đảm bảo sự liêm chính, tính minh bạch và trách

nhiệm giải trình trong hoạt động. Thực tế cho thấy, đây là những phương thức thích
hợp để tăng thêm tính hiệu quả của kiểm sốt quyền lực chính trị trong xã hội hiện
đại.
- Xu hướng tập trung vào kiểm sốt quyền lực chính trị cao nhất
Trung tâm của hệ thống chính trị là nhà nước, do vậy, kiểm soát chặt chẽ
quyền lực nhà nước là ưu tiên hàng đầu trong thiết kế hệ thống ở hầu hết các quốc gia
dân chủ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nếu chỉ nhấn mạnh vào kiểm soát quyền lực nhà
nước là chưa đủ, mà cần phải hướng tới kiểm sốt quyền lực cao nhất. Đó có thể là
quyền lực của các đảng chính trị cầm quyền, quyền lực của các tổ chức tơn giáo,
thậm chí là quyền lực của giới quân sự trong điều kiện cụ thể của một quốc gia nào
đó. Từ đây, cần phải đưa ra các phương thức để kiểm soát hiệu quả các quyền lực
này.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA Q TRÌNH DÂN CHỦ HĨA ĐẾN THỰC THI
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
7


Dân chủ hóa đang là một xu hướng chính trị mạnh mẽ trên thế giới. Ngày nay,
chính quyền trung ương với nguồn lực hạn chế của mình chắc chắn sẽ không thể đáp
ứng kịp thời các nhu cầu của xã hội. Bên cạnh đó, cùng với trình độ nhận thức ngày
càng cao, ý thức và nhu cầu của người dân về các quyền công dân, quyền con người
ngày càng lớn. Người dân ngày càng mong muốn được tham gia nhiều hơn vào các
quyết định chính trị, ở cả cấp trung ương và địa phương. Do vậy, xu hướng phân cấp,
phân quyền cho các địa phương cùng với việc mở rộng các quyền dân chủ cho người
dân ngày càng trở nên cấp bách.
Dân chủ hóa là một từ trong khoa học chính trị và xã hội học để chỉ những thay
đổi về mọi mặt trong xã hội, với mục đích là để thay thế những cấu trúc xã hội độc
đoán, tập trung quyền lực vào một nhóm người bằng một hệ thống mà người dân có
thể kiểm sốt quyền lực, góp tiếng nói, cùng quyết định một cách tự do và như vậy
đưa tới một xã hội công bằng hơn. Dân chủ hóa theo nghĩa chính trị là việc chuyển

đổi sang chế độ chính trị dân chủ hơn. Nó có thể là sự chuyển đổi từ một chế độ độc
tài sang chế độ dân chủ, một quá trình chuyển đổi từ một độc tài sang một bán dân
chủ hay chuyển đổi từ một bán độc tài thành một chế độ dân chủ.
Nội dung cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Ở Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý và vận hành nền
kinh tế thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế luôn gắn với bảo đảm công
bằng, thực hiện tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa, phát triển con người, nhằm mục
đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa trong
lĩnh vực kinh tế ngày càng mở rộng. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp... Cơng bằng trong phân phối theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Quá trình mở
rộng dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ chính trị, thực hành ngày càng
rộng rãi và thực chất quyền lực chính trị của nhân dân, thơng qua cả phương thức ủy
quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp.

8


Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân, khơng có sự
đồn kết, sáng tạo của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
sẽ thất bại. Dân chủ chính là biểu hiện quan điểm giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội,
là nhân tố tạo ra sự ổn định, phát triển và thịnh vượng.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối,

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện
vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân
chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tơn
trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trị chủ thể, vị trí
trung tâm tồn bộ q trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ, trên cơ sở thượng tôn pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng nhân tố quyết định là mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhân dân làm chủ là
bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thượng tôn pháp luật sẽ bảo đảm tất
cả các thành viên xã hội được bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm. Đảng
vừa là bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
chính trị và Đảng cũng phải hoạt động trong khn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo có chức năng thể chế
hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành các văn bản quy phạm pháp
luật đầy đủ và thống nhất. Nhân dân làm chủ thông qua các cơ quan đại diện và làm
chủ trực tiếp qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.
Nhận thức của Đảng ta về thực hành dân chủ ngày càng toàn diện và sâu sắc.
Điều này thể hiện rõ hơn cả ở chỗ quyền công dân gắn với quyền con người được đề
cao, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, tích cực thực hiện các công ước quốc tế liên
quan quyền con người mà Việt Nam đã ký kết và tham gia; coi trọng dân chủ ở cơ sở,
coi trọng phản biện xã hội, đề cao thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.
Trong bối cảnh hiện nay, quyền lực chính trị trên thế giới có những biến đổi
quan trọng trong cách thức tổ chức và thực thi. Với tư cách là một phần của hệ thống
thế giới, Việt Nam ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi các xu hướng này, dù có những
mặt khơng thực sự rõ nét.
- Quyền lực chính trị ngày càng được thể chế hóa
9



Sự chuyển đổi từ hệ thống chun chính vơ sản sang hệ thống chính trị, từ nhà
nước chun chính vơ sản sang nhà nước pháp quyền đã đánh dấu sự thay đổi rõ nét
về các phương thức thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam. Là chủ thể lãnh đạo hệ
thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn sự cần thiết
phải nâng cao tính chính đáng quyền lực của mình trong đời sống xã hội. Có thể thấy,
chưa khi nào Đảng lại ban hành đồng bộ các quy định, quy chế như hiện nay, từ các
nội dung về đổi mới hệ thống chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và cầm quyền của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ
cấp chiến lược; thực hiện, trách nhiệm người, đứng đầu; đẩy mạnh phòng, chống
tham những, lãng phí; kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán bộ; đấu tranh với các
biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ Đảng. Cùng với việc ban hành hệ
thống quy chế là quyết tâm chính trị trong việc phát hiện, xử lý nghiêm minh các
trường hợp tham nhũng, tiêu cực, các sai phạm của các tổ chức đảng và đảng viên
theo tinh thần “khơng có ngoại lệ, khơng có vùng cấm, bất kể đó là ai”.
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng làm gia tăng
đáng kể quá trình thể chế hóa các quan hệ quyền lực. Với tinh thần thượng tơn pháp
luật, tất cả các chủ thể chính trị đều phải đặt mình dưới pháp luật và chịu sự ràng
buộc của pháp luật. Pháp luật không chỉ là công cụ để Nhà nước quản lý và điều hành
xã hội, mà-nó cịn là phương tiện để giới hạn quyền lực nhà nước, là công cụ để bảo
đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, đồng thời cũng là công cụ để người dân
bảo vệ các quyền lợi của mình khi bị chính các cơ quan nhà nước xâm hại.
Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật Việt Nam từng
bước được hoàn thiện theo tiêu chí của một Nhà nước pháp quyền. Các mối quan hệ
Nhà nước - công dân, Nhà nước - thị trường, Nhà nước - doanh nghiệp được nhận
thức lại và thay đổi từ chỗ mạng nặng tính quản lý sang theo hướng nhà nước kiến
tạo, phát triển. Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, toàn diện và đồng bộ,
phù hợp hơn, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Trong thời gian tới, Quốc hội cần tiếp tục “Đẩy mạnh việc hoàn thiện, xây
dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện đại, khả thi, cơng khai, minh bạch,
ổn định, dễ tiếp cận, có sức cạnh tranh quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

chính đáng của nhân dân”. Công việc cụ thể không chỉ là việc ban hành đủ, đồng bộ
và kịp thời các bộ luật và văn bản dưới luật, mà còn bao gồm cả việc nâng cao nhận
thức xã hội về ý thức tôn trọng pháp luật cho cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. Biến
khẩu hiệu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” thành một nét của văn hóa
10


công dân.
- Sự gia tăng mức độ phân cấp, phân quyền, chuyển một phần quyền lực từ
Nhà nước sang cho người dân.
Quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta trong những năm
qua cho thấy sự chuyển đổi dần từ mơ hình tập trung sang mơ hình phi tập trung
quyền lực. Từ thực tiển Việt Nam, có thể hiểu sự phân cấp quản lý nhà nước là một
xu hướng tất yếu trong sự phát triển của các quốc gia nói chung, các tổ chức nói
riêng. Đây chính là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền
trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa chức năng, nhiệm vụ với năng lực và điều kiện
thực tế của từng cấp. Thực chất quá trình này nhằm tăng thêm tính chủ động, tính
chịu trách nhiệm, sự năng động của chính quyền địa phương, khắc phục được tình
trạng đùn đẩy trách nhiệm.
Dù trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương này cũng đã xuất hiện một số
vấn đề cần được nghiên cứu, hoàn thiện, nhưng đây vẫn là chủ trương nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh sự
cần thiết phải “Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, gắn với phân định
và nâng cao trách nhiệm của Trung ương và địa phương”. Đây cũng là một trong
những yêu cầu trong phát triển hiện nay.
Bên cạnh đó, xu hướng chuyển dịch một phần quyền lực nhà nước sang cho
người dân và xã hội cũng tương đối rõ nét trong những năm gần đây. Cụ thể, phạm vi
quyền lực nhà nước đã có sự điều chỉnh. Quyền lực nhà nước, các nguồn lực của nhà
nước được ưu tiên sử dụng để khắc phục các thất bại của thị trường và nhằm thực
hiện những mục tiêu của Nhà nước. Nhiều lĩnh vực trước đây thuộc phạm vi thẩm

quyền của Nhà nước, đến nay đã được trao cho thị trường thơng qua hình thức xã hội
hóa hoặc đối tác cơng - tư. Nhiều thủ tục hành chính trước đây do Nhà nước đảm
nhận, giờ khu vực tư nhân có thể tham gia.
Đối với những vấn đề của người dân ở cơ sở, trước đây, Nhà nước là chủ thể
chính đưa ra quyết định và tổ chức thực hiện. Từ khi Quy chế dân chủ cơ sở ra đời,
Nhà nước đã chuyển quyền quyết định đó sang cho người dân. Với phương châm,
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”, người dân có một vai trị
ngày càng quan trọng trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến bản thân
mình tại cơ sở.
- Tăng cường các biện pháp kiểm sốt quyền lực chính trị
Trong những năm gần đây, kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam đã có
11


những bước tiến đáng ghi nhận. Chúng ta không chỉ thiết lập được cơ chế kiểm soát
quyền lực đối với bộ máy nhà nước, mà còn thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực đối
với tổ chức đảng và đảng viên; đồng thời phát huy các phương thức kiểm soát quyền
lực từ các tổ chức đảng, từ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, từ
truyền thơng báo chí và từ chính nhân dân.
Đối với Nhà nước, chúng ta cũng đã thiết lập được một cơ chế kiểm soát quyền
lực. Cụ thể:
+ Đã dần thiết lập được cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được chế định trong Hiến
pháp. Quốc hội thực hiện kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và tư pháp thông qua quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan này.
+ Quyền lực được kiểm sốt thơng qua các chế định về bầu cử, bổ nhiệm, miễn
nhiệm cán bộ. Các cơ chế này cũng góp phần ngăn chặn nguy cơ lạm dụng quyền lực
vì mục đích cá nhân hoặc hạn chế hiệu quả sử dụng quyền lực vì lý do năng lực.
+ Quyền lực được kiểm sốt thơng qua hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng
đối với tổ chức Đảng, Đảng viên trong bộ máy nhà nước. Trong thời gian qua,

phương thức lãnh đạo của Đảng bằng công tác kiểm tra, giám sát đã được thể chế hóa
và đang ngày càng phát huy hiệu quả.
Đối với Đảng, trong điều kiện Việt Nam chỉ có một Đảng duy nhất cầm quyền,
lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì việc kiểm soát quyền lực trong Đảng là hết sức cần
thiết. Về cơ bản, việc kiểm soát quyền lực của Đảng hiện nay được thực hiện theo các
cơ chế sau:
+ Kiểm sốt thơng qua các ngun tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tùy
theo tình hình thực tiển và yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong mỗi giai đoạn,
một số nguyên tắc về tổ chức, hoạt động của Đảng được triển khai thành những quy
định cụ thể.
+ Kiểm sốt thơng qua cơng tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy và ủy ban
kiểm tra đảng đối với đảng viên và các tổ chức đảng. Các hoạt động này góp phần
quan trọng trong việc giám sát quyền lực trong Đảng. Cụ thể, gần đây, Bộ Chính trị
đã ban hành Quy định số 205- QD/TW “về việc kiểm sốt quyền lực trong cơng tác
cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”, trong đó xác định yêu cầu: “sử dụng cơ
chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về cơng tác cán bộ; phịng
ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà
nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền, hoặc
12


không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên
cương vị được giao trong cơng tác cán bộ”.
+ Kiểm sốt thơng qua các quy định của pháp luật: Theo đó, tổ chức Đảng và
đảng viên của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chịu trách
nhiệm về mọi hoạt động của mình trước pháp luật như mọi cơng dân trong xã hội.
Bên cạnh đó, các tổ chức của Đảng và Nhà nước đều phải chịu sự giám sát của
nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết
với nhân dần, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân về những quyết định của mình. Giám sát quyền lực từ phía nhân dân

cũng là cơ chế giám sát quyền lực thiết thực và hiệu quả. Cơ chế giám sát, phản biện
xã hội đã được cụ thể hóa trong những quy định của Đảng như: Quy chế giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội.
Cuối cùng, báo chí, các phương tiện thơng tin đại chúng cũng góp phần tham
gia giám sát quyền lực. Đây là kênh kiểm soát đang phát huy thế mạnh ở Việt Nam
hiện nay, gắn liền với cuộc cách mạng về khoa học, cơng nghệ.
Hiện nay, vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đã được
đặt ra từ rất sớm với nhiều cơ chế khác nhau. Bên cạnh những vấn đề mang tính phổ
biến thì việc kiểm sốt quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước ở Việt Nam có rất
nhiều điểm đặc thù so với ở các quốc gia khác, như ở Việt Nam, chỉ có một đảng duy
nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam vừa lãnh đạo, vừa thực hiện việc kiểm soát quyền
lực. Hiện nay Việt Nam là một trong những quốc gia thống nhất, hiếm có quốc gia
nào trên thế giới đa sắc tộc, nhưng lại tạo nên một dân tộc thống nhất, một đất nước
Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất và một hệ thống chính
trị thống nhất vì mục tiêu chung: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh”. Sự thống nhất đó xét ở phương diện tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước có rất nhiều thuận lợi, song cũng khơng ít khó khăn, hạn chế.
C. KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, việc thực hành dân chủ trong điều kiện một Đảng duy
nhất cầm quyền ở Việt Nam là phù hợp với điều kiện ở nước ta nên đã đưa tới những
thành công tốt đẹp. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững chủ trương và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho việc phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội, mọi vấn đề
từ cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể của
Đảng đều được tổ chức thảo luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến của nhân dân. Tất
cả những phương thức và giải pháp thực hành dân chủ ở Việt Nam đã đưa tới kết quả
13


tốt đẹp, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là biểu tượng về dân chủ và vấn đề cốt
tử để xây dựng bảo vệ Tổ quốc chính là phải bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

Chính vì thế, trong Văn kiện Đại hội XIII, từ thực tiển 35 năm đổi mới và 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, 5 bài học kinh nghiệm quý báu đã được đúc
kết, trong đó có bài học thứ hai là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước,
phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”, kiên trì thực hiện phương châm “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là
trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi
ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn
đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước,
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh hiện nay, quyền lực chính trị trên thế giới có những biến đổi
quan trọng trong cách thức tổ chức và thực thi. Việt Nam cũng chịu sự ảnh hưởng bởi
các xu hướng này. Nước ta bị áp lực phải thay đổi cách thức tổ chức, quản lý, phù
hợp với quá trình dân chủ hóa. Q trình ra các quyết sách chính trị cũng khơng thể
bó hẹp và khép kín như trước đây, mà có sự tham gia và ảnh hưởng của nhiều chủ thể
khác nhau trong và ngoài nước. Để đạt mục tiêu phát triển đất nước, việc thực thi
quyền lực chính trị ở Việt Nam ngày càng phải dựa vào sự tham gia của các khu vực
ngoài nhà nước cũng như sự cộng tác của toàn xã hội. Việt Nam cần dung hòa giữa
các giá trị và chuẩn mực mới từ thực tiễn với các giá trị và chuẩn mực cũ mang đậm
tính hệ tư tưởng. Người dân phải được đặt vào trung tâm q trình hoạch định và thực
thi chính sách trở thành một yêu cầu mang tính nguyên tắc. Đảng Cộng sản cầm
quyền và Nhà nước cần cùng lúc củng cố bộ máy tổ chức trong khi cần tạo dựng sự
đồng thuận trong xã hội để củng cố địa vị thống trị của mình trong xã hội. Thu hút sự
tham gia mạnh mẽ của các chủ thể trong xã hội vào q trình chính sách và thực thi
cơng quyền, đảm bảo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải là một tổng thể bao gồm:
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước
thực hiện; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong do các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách độc lập do

Hiến pháp và luật quy định./.

14



×