TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----***-----
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Quan điểm Mac Lênin về vấn đề tôn giáo trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và vận dụng của Phạm Thị
Mai Anh lớp quản trị kinh doanh 62C.
Họ và tên SV:
Lớp tín chỉ: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã SV:
GVHD:
Hà Nội, tháng 11, năm 2021
0
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................2
1. Lý do chọn đề tài...................................................................2
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu.............................2
3. Ý nghĩa đề tài........................................................................3
4. Kết cấu đề tài........................................................................3
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................3
1. Cơ sở lý luận..........................................................................3
1.1. Khái niệm của tôn giáo.......................................................3
1.2. Bản chất của tôn giáo........................................................4
1.3. Nguồn gốc của tơn giáo.....................................................6
1.4. Tính chất của tơn giáo........................................................8
1.5. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề tôn giáo trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.....................................................10
2. Thực trạng tơn giáo ở Việt Nam và chính sách của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay..................................................12
2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam.........................................12
2.2.
Thực trạng giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam 15
Ưu điểm:..................................................................................15
Hạn chế....................................................................................17
3. Giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay.............................................................................................19
4. Liên hệ và vận dụng vào bản thân của sinh viên Phạm
Thị Mai Anh...............................................................................21
KẾT LUẬN.....................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................29
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề tôn giáo từ lâu đã tồn tại ở nhiều quốc gia trên
thế giới, trở thành vấn đề nhạy cảm tại nhiều nước. Bên cạnh
mặt tích cực mà tơn giáo mang lại như: giáo dục con người đến
chân, thiện, mỹ; giúp con người sống gần gũi với nhau hơn, có
trách nhiệm với bản thân và với cộng đồng, với sự phát triển
của bản thân và xã hội. Nhưng vẫn có những mặt tiêu cực như
biến tướng tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để trục lợi, gây mâu
thuẫn chính trị, dùng tơn giáo để truyền bá những tư tưởng
chống phá Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì thế cần có cái
nhìn toàn diện, hiểu biết thấu đáo trước khi giải quyết các vấn
đề về tôn giáo.
Việt nam là một quốc gia có tơn giáo phong phú đa dạng,
các tơn giáo chung sống hịa bình trên phạm vi cả nước. Vì vậy
để tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, trước hết địi hỏi đảng,
nhà nước phải có cái nhìn đúng đắn những vấn đề lý luận và
thực tiễn về vấn đề tơn giáo cũng như có những chính sách về
tơn giáo một cách phù hợp và linh hoạt trong tình hình hiện nay.
Trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta ln coi
trọng vai trị của các tơn giáo, có những quy định để tơn giáo
phát triển mà khơng ảnh hưởng đến chính trị. Bên cạnh đó, mỗi
người dân cần xác định rõ tư tưởng tự do tín ngưỡng, tôn giáo
phải đi đôi với chấp hành pháp luật mà Đảng và nhà nước đề ra.
Để giúp mọi người hiểu rõ về vấn đề tơn giáo qua đó rút ra
trách nhiệm và hành động của bản thân thì hơm nay tôi quyết
2
định chọn đề tài tiểu luận “chủ nghĩa Mác Lenin về tôn giáo và
thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”. Trong quá
trình tìm hiểu và nghiên cứu có nhiều thiếu sót, mong được sự
giúp đỡ và sửa chữa của cơ để bài được hồn thiện hơn. Tơi xin
trân thành cảm ơn!
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về vấn đề tôn giáo và thực trạng giải
quyết vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nêu rõ quan điểm Mác Lênin về tôn giáo, thực trạng giải
quyết tơn giáo ở Việt Nam hiện nay sau đó vận dụng vào bản
thân.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam và bản thân sinh
viên.
3. Ý nghĩa đề tài
Qua đề tài, chúng ta hiểu được tôn giáo trên quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin, những lý luận về tôn giáo, thực
trạng tôn giáo ở Việt Nam và các giải pháp của Đảng, nhà
nước ta sau đó rút ra những điều cần làm và nên làm đối với
chính bản thân.
4. Kết cấu đề tài
Gồm 4 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết
luận, phần tài liệu tham khảo.
3
PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1.
Khái niệm của tôn giáo
Rất khó có thể được đưa ra một định nghĩa về tơn giáo có thể
bao hàm mọi quan niệm của con người về tơn giáo nhưng có
thể thấy rõ điều đó khi nói đến tơn giáo là nói đến mối quan hệ
giữa hai thế giới thực và ảo. Khái niệm tôn giáo là một vấn đề
được các nghiên cứu, phân tích về tơn giáo bàn luận rất nhiều.
Trong lịch sử từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn
giáo:
- Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa
thần thánh và con người”.
- Khái niệm mang đặc trưng riêng của tôn giáo: “Tôn giáo là
niềm tin vào siêu tự nhiên”.
- Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo
của mỗi cá nhân trong nỗi cơ đơn của mình, tơn giáo là sự việc
cơ đơn, nếu anh chưa từng có cơ đơn thì anh chưa bao giờ có
tơn giáo” .
- Khái niệm của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng
ta sinh ra từ áp lực, là trái tim của thế giới có trái tim, nó là tinh
thần của thế giới khơng có tinh thần ”.
- Khái niệm cơ bản khía cạnh nguồn gốc của tơn giáo
Ph.Ăngghen: “Tơn giáo là phản ánh hoang đường vào trong đầu
những người có lực lượng bên ngồi, cái mà họ có giá trị trong
đời sống hàng ngày…”
Có thể hiểu: tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh
hư ảo hiện thực khách quan, là một thực thể xã hội: có niềm tin
4
sâu sắc vào đấng tối cao, có hệ thống giáo thuyết, có hệ thống
cơ sở thờ tự, có tổ chức nhân sự, quản lý; có hệ thống tín đồ...
Tơn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, được
chấp nhận một cách trực tiếp và tác động trở lại một cách ảo,
nhằm mục đích giải quyết các vấn đề trên trần thế và bên kia
thế giới. Niềm tin đó được biểu hiện rất phong phú, phụ thuộc
vào các thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa - văn hóa khác nhau, nội
dung từng tơn giáo, nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau
của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
1.2.
Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng tơn giáo là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan. Thơng qua sự
phản ánh đó các lực lượng tự nhiên và xã hội đều trở thành siêu
nhiên, thần bí… Ph.ăngghen cho rằng: " tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc mỗi con
người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng
ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần
thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế".
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội do
con người sáng tạo ra - các tôn giáo cụ thể ví dụ như: Phật giáo,
Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Cơng giáo, Tin lành… với các tiêu chí:
có niềm tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh
để tơn thờ (niềm tin tơn giáo), có hệ thống giáo thuyết (giáo lý,
giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan của
tơn giáo, có hệ thống cơ sở thờ tự, có tổ chức nhân sự, quản lý
điều hành việc đạo, hệ thống tín đồ đơng đảo tự nguyện đi theo
tơn giáo đó và được tơn giáo đó thừa nhận.
5
Khẳng định của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo: tơn giáo là
một hiện tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra. Con
người sáng tạo ra để phục vụ mục đích tinh thần, phản ánh
những nguyện vọng của họ. Chủ nghĩa Mác Lênin cũng cho rằng
sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế, xét đến cùng là nhân
tố quyết định sự tồn tại của các hình thái ý thức xã hội, trong đó
có tơn giáo. Do đó mọi hoạt động tơn giáo đều sinh ra từ hoạt
động sản xuất, từ hoàn cảnh, từ điều kiện sống trong xã hội. Dù
có sự khác biệt về thế giới quan nhưng những người cộng sản
với lập trường Mác xít khơng bao giờ xem thường hoặc trấn áp
những nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, ngược lại ln tơn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo.
Cần phân biệt tơn giáo với tín ngưỡng : những người có tơn
giáo (Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo…) và những người có
sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín
ngưỡng thờ Mẫu…) đều tin vào những điều mà tơn giáo hay tín
ngưỡng đó truyền đạt mặc dù khơng được thấy đấng tối cao,
khơng được tận mắt nhìn thấy ơng cha. Tơn giáo và tín ngưỡng
đều điều chỉnh hành vi ứng xử, giúp con người noi theo những
tấm gương sáng của những người được tôn thờ. Tuy nhiên, tơn
giáo và tín ngưỡng lại có nhiều sự khác nhau. Nếu tơn giáo phải
có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và
tín đồ, thì tín ngưỡng khơng cần 4 yếu tố đó. Nếu đối với tín đồ
tơn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có
một tơn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt đồng
thời nhiều tín ngưỡng khác nhau.
Cần phân biệt tơn giáo với mê tín dị đoan: mê tín là mê muội,
viển vơng không phù hợp với lẽ tự nhiên, dị đoan là sự suy
6
đoán, hành động một cách tùy tiện, sai lệch những điều bình
thường dẫn tới hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình, cộng đồng về
sức khỏe, thời gian, tài sản, tính mạng. Mê tín dị đoan được thể
hiện như ơng đồng, cơ cậu, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành
tháng dữ, tin số mệnh sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cắt
sao giải hạn, tin thầy bùa thầy chú, tin cầu cúng tai qua nạn
khỏi… Mê tín dị đoan là hình thức điều khiển con người mê muội
theo chiều hướng xấu khác hồn tồn với tơn giáo, tín ngưỡng.
1.3.
Nguồn gốc của tôn giáo
Thứ nhất, nguồn gốc tự nhiên
Trong xã hội công xã nguyên thủy, do lực lượng sản xuất
chưa phát triển, trước thiên nhiên hùng vĩ tác động và chi phối,
con người cảm thấy bất lực nên họ đã tự gán cho tự nhiên
những sức mạnh thần bí. Các hiện tượng tự phát trong tự nhiên
vẫn còn tác động, chi phối tới đời sống của con người. Về bản
chất, đến thời điểm này, khoa học chưa thể giải thích tường tận
các vấn đề của tự nhiên và xã hội. Con người cũng chưa thực sự
chế ngự được tất cả các hiện tượng tự phát trong tự nhiên như
động đất, sóng thần, các hiện tượng xã hội như áp bức, bóc lột,
bất cơng, phân cực giàu nghèo,..làm cho một bộ phận quần
chúng nhân dân sợ hãi, tin tưởng, trông chờ vào các lực lượng
siêu nhiên.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, con người
không lý giải được nguồn gốc, áp bức bóc lột, đấu tranh, tội
7
ác,...nên con người đã trông chờ hy vọng một thế lực siêu nhiên
cứu vớt mình, giải thốt mình khỏi những đau khổ nơi trần thế.
Thứ hai, nguồn gốc nhận thức
Ở một giai đoạn nhất định, nhận thức của con người về tự
nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Trình độ
dân trí chưa cao là điều kiện, là nguyên nhân, là mảnh đất màu
mỡ cho tôn giáo tồn tại, phát triển. Khi những điều mà khoa học
chưa giải thích được thì con người lại nhớ đến tôn giáo. Thực
chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo chính là sự tuyệt đối
hố, biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần
bí.
Thứ ba, nguồn gốc tâm lý :
Các tôn giáo lớn đã ra đời từ nhiều thế kỷ, ăn sâu vào tiềm
thức của cộng đồng những người theo đạo, trở thành niềm tin,
lối sống, tình cảm, phong tục tập quán khó có thể thay đổi, trở
thành nếp nghĩ, một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể
thiếu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Các tôn giáo được
truyền từ đời này qua đời khác như một thói quen, một truyền
thống. Một số người chỉ thấy bình an về mặt tinh thần, thấy tâm
lý mình thực sự thoải mái, an lành khi tham gia vào các hoạt
động tín ngưỡng, tơn giáo. Cuộc sống thì ln tồn tại các yếu tố
không may tác động đến, nên một số người đã tìm đến cửa
phật, tìm đến những nơi thờ tự để tìm lại sự bình an, nhẹ nhõm
trong tâm hồn. Con người luôn muốn cảm thấy an toàn khi làm
những việc lớn như làm nhà, ma chay, cưới hỏi, kinh doanh… Có
người đã nói rằng:" khoa học chỉ giúp ta khám phá thế giới
ngồi kia cịn tơn giáo lại giúp ta tìm hiểu thế giới trong này
8
(vừa nói vừa chỉ vào tim)". Chính vì vậy mà ngay cả khi đã có
khoa học thì con người vẫn cần đến tôn giáo như một liều thuốc
tinh thần, để an ủi chính bản thân mình. Đặc biệt trong bối cảnh
hiện nay khi đời sống của con người ngày càng có nhiều khó
khăn, bất trắc, rủi ro thường khơng báo trước, con người luôn
cần tôn giáo như một chỗ dựa về mặt tinh thần ("an ninh tinh
thần").
Thứ tư, nguồn gốc kinh tế, chính trị xã hội
Một số nguyên tắc, giáo lý, giáo luật vẫn cịn phù hợp với
chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa, vẫn còn đáp ứng nhu
cầu về mặt tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân.
Đây là điều kiện cho sự tồn tại, phát triển của tôn giáo trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tơn giáo có khả năng tự
biến đổi để phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá
xã hội. Tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi
theo. Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Vì vậy mà khi xã
hội ngày càng phát triển thì tơn giáo cũng thay đổi nhưng sự
thay đổi này diễn ra rất chậm.
Các thế lực thù địch vẫn coi tôn giáo là một trong những
chiêu bài để can thiệp vào chính trị của những nước khác, nhất
là những nước có thể chế chính trị đối lập. Chúng lợi dụng, núp
bóng tơn giáo, nói truyền đạo nhưng thực chất lại tuyên truyền,
gieo rắc những quan điểm phản động, chống phá đảng và nhà
nước xã hội chủ nghĩa, lôi kéo quần chúng nhân dân, kích động
quần chúng nhân dân đi ngược lại đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của đảng và nhà nước. Ngoài ra, trong thời kỳ
quá độ, các nước muốn phát triển kinh tế, muốn phát triển lực
lượng sản xuất thì phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
9
nói cách khác là nền kinh tế thị trường. Chính mặt trái của nền
kinh tế thị trường đã chi phối đời sống tinh thần của con người.
Phân hóa giàu nghèo khiến cả người giàu và người nghèo tin
rằng có thế lực vơ hình đã điều khiển cách làm ăn, tác động đến
những thứ xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của họ.
1.4.
Tính chất của tơn giáo
Thứ nhất, tính lịch sử của tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, nghĩa là
nó có sự hình thành, tồn tại và phát triển, có khả năng biến đổi
trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Thời đại thay đổi thì tơn
giáo cũng có sự điều chỉnh biến đổi theo để phù hợp với tình
hình kinh tế xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, đến một giai đoạn
lịch sử nào đó, khi xã hội phát triển, khoa học và giáo dục giúp
con người nhận thức được bản chất của các hiện tượng tự nhiên,
xã hội, khi con người làm chủ được niềm tin, xã hội, làm chủ
được chính bản thân mình, khơng cịn cần đến sự an ủi, cứu
giúp của các thế lực siêu nhiên thì tơn giáo sẽ dần mất đi vị trí
của nó trong đời sống xã hội và trong cả nhận thức, niềm tin
của mỗi con người.
Thứ hai, tính quần chúng của tơn giáo
Tơn giáo là một hiện tượng khá phổ biến ở hầu hết các dân
tộc, quốc gia, châu lục. Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ
được thể hiện ở số lượng tín đồ tơn giáo đơng đảo ( chiếm gần
10
¾ dân số thế giới), mà còn được thể hiện ở chỗ tơn giáo là nơi
sinh hoạt văn hố tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân
dân lao động. Dù tôn giáo hướng con người tin vào những thứ
hư ảo của thế giới siêu nhiên, song nó ln ln phản ánh khát
vọng của con người lao động về sự tự do, bình đẳng, yêu thương
lẫn nhau - một xã hội hồ bình, khơng đau khổ bi ai. Bởi vì tơn
giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo hướng thiện nên được
đông đảo quần chúng lao động tin, làm theo và ủng hộ.
Tính chính trị của tơn giáo
Khi xã hội chưa có giai cấp thì tơn giáo chưa mang tính chính
trị. Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân
chia giai cấp, có sự đối kháng, sự khác biệt về lợi ích giữa các
giai cấp. Tơn giáo phản ánh lợi ích nguyện vọng của các giai cấp
khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp nên tơn giáo có tính
chính trị. Mặt khác khi giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tơn
giáo để phục vụ lợi ích của riêng mình thì lúc này tơn giáo mang
tính tiêu cực, phản tiến bộ.
Ngày nay, tơn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng,
phức tạp khơng chỉ ở quốc gia mà còn phát triển sâu rộng ở cả
phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiện các tổ chức quốc tế của tôn
giáo với thế lực lớn mạnh đã tác động đến nhiều mặt, trong đó
có chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận thức rõ:
đa số quần chúng nhân dân đến với tơn giáo nhằm được an ủi,
tìm kiến sự bình an trong tâm hồn, có thêm sức mạnh để tiếp
tục sống ở thế giới thực tại; song trên thực tế các thế lực chính
trị – xã hội đã và đang lợi dụng để thực hiện mục đích ngồi tơn
giáo của họ như quân sự, phản động, giết người…
11
1.5.
Nguyên tắc giải quyết các vấn đề tôn giáo trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo tuy đã
biến đổi về nhiều mặt nhưng vẫn còn tồn tại. Vì vậy khi giải
quyết vấn đề tơn giáo, cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng
của nhân dân
Chủ nghĩa mác lênin với quan điểm của thế giới quan duy vật
đối lập hồn tồn với thế giới quan tơn giáo. Tuy nhiên thì Mác
Lênin đã khẳng định rằng: khơng được xem thường hoặc đàn áp
tôn giáo của nhân dân. Tự do tín ngưỡng và tự do khơng tín
ngưỡng là quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Điều này có
nghĩa là quyền tự do theo đạo hay không theo đạo là quyền tự
do của mỗi người dân mà không một thế lực, cá nhân, tổ chức
nào có quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi xâm
phạm đến quyền tự do tư tưởng như cấm theo đạo, ép bỏ đạo,
đe doạ, bắt buộc phải theo đạo đều không được cho phép.
Nghiêm cấm mọi hành vi của các đối tượng phản động lợi dụng
tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của quần chúng nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can thiệp và không cho bất
cứ ai can thiệp vào quyền tự do tín ngưỡng, quyền chọn theo
hay không theo đạo của người dân. Các cơ sở tơn giáo, hoạt
động tơn giáo bình thường nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng
của người dân đều được nhà nước xã hội chủ nghĩa tôn trọng và
bảo hộ. Công dân có tơn giáo hay khơng có tơn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau.
Cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm
12
mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín
ngưỡng của cơng dân.
Thứ hai, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải
gắn liền với cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới
Nguyên tắc này để khẳng định rằng chủ nghĩa Mác lênin chỉ
hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối
với quần chúng mà không chủ trương can thiệp vào công việc
nội bộ của tôn giáo. Chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra rằng muốn
thay đổi ý thức xã hội, trước hết phải thay đổi tồn tại xã hội,
muốn xóa bỏ ảo tưởng bên trong con người phải xóa bỏ nguồn
gốc sinh ra những ảo tưởng ấy. Điều cần thiết trước hết là phải
xây dựng một xã hội khơng có áp bức, bóc lột, chiến tranh và
nghèo đói...cũng như những tệ nạn trong xã hội, thay vào đó là
một xã hội tiên tiến, con người bình đẳng, đất nước hồ bình.
Đó là một q trình lâu dài và không thể thực hiện nếu tách rời
việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tơn giáo
trong q trình giải quyết vấn đề tơn giáo
Trong trong xã hội cơng xã ngun thủy tín ngưỡng tơn giáo
chỉ biểu hiện thuần túy về tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất
hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp-chính trị đều ít nhiều in rõ trong
các tơn giáo. Từ đó hai mặt chính trị và tơn giáo thường thể hiện
và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề tơn giáo và bản thân
mỗi tơn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ và phản tiến
bộ, phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị
13
giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn
giáo chống lại lực lượng cách mạng, chống lại sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân lao
động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm tin, mức độ
tình cảm giữa những người có tín ngưỡng tơn giáo và những
người không theo tôn giáo, cũng như những người có tín ngưỡng
tơn giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn khơng mang tính đối
kháng. Mặt tư tưởng thể hiện nhu cầu tín ngưỡng tơn giáo của
nhân dân nên phải tơn trọng.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn
đề tôn giáo thực chất là phân biệt tính khác nhau của hai loại
mâu thuẫn ln tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề
tôn giáo. Sự phân biệt này trong thực tế không đơn giản, bởi lẽ
trong đời sống xã hội hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch
bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường
đang xen vào nhau. Mặt khác trong xã hội có đối kháng giai cấp
tơn giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó
nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thần tuyến trong tôn
giáo. Việc phân biệt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng
cực đoan trong quá trình quản lý ứng xử những vấn đề liên quan
đến tơn giáo, tín ngưỡng.
Thứ tư, quan điểm lịch sự cụ thể trong giải quyết vấn đề tín
ngưỡng tơn giáo
Tơn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến ngược
lại nó ln biến đổi khơng ngừng để phù hợp với những điều
kiện kinh tế, chính trị - xã hội, lịch sử cụ thể. Mỗi tơn giáo đều
có lịch sử hình thành quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn
14
giáo đối với đời sống xã hội, đời sống tinh thần là khác nhau. Vì
vậy cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét những
đánh giá và ứng xử đối với vấn đề liên quan đến tôn giáo và
từng tôn giáo cụ thể.
2. Thực trạng tôn giáo ở Việt Nam và chính sách của Đảng,
Nhà nước ta hiện nay
2.1.
Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Thứ nhất: Việt Nam là một quốc gia có nhiều tơn giáo
Tơn giáo ở Việt Nam rất đa dạng. Theo nghiên cứu số liệu mới
nhất đến năm 2020 thì nước ta có 16 tôn giáo đã được công
nhận tư cách pháp nhân (Phật giáo, Cơng giáo, Tin Lành, Hồi
giáo, Cao Đài, Hồ Hảo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Cộng
đồng Tôn giáo Baha’i Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo, Bàlamôn…) và 43 tổ chức tôn
giáo được nhà nước ta công nhận hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật và hiến pháp với hơn 100.000 chức sắc, nhà tu hành,
gần 29.000 cơ sở thờ tự, trên 26 triệu tín đồ chiếm khoảng 27%
dân số. Các tổ chức tơn giáo có nhiều hình thức tồn tại khác
nhau. Có tơn giáo du nhập từ bên ngồi với những thời điểm,
hoàn cảnh khác nhau như: Phật Giáo, Cơng Giáo, Tin Lành, Hồi
Giáo; có tơn giáo nội sinh như: Cao Đài, Hòa Hảo. Số liệu cụ thể:
Phật giáo là tơn giáo đơng đảo nhất với 14 triệu tín đồ, 4 học
viện, 49 trường cao đẳng, trung cấp và sơ cấp. Tiếp theo là
Thiên Chúa Giáo với 6 triệu tín đồ, Tin Lành với 1,5 triệu tín đồ,
Cao Đài 3,5 triệu tín đồ, Phật Giáo Hịa Hảo 1,5 triệu, Tịnh độ Cư
sĩ Phật hội 1,5 triệu tín đồ, Hồi giáo 67.000 tín đồ.
15
Thứ hai: tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hồ
bình, khơng có xung đột, chiến tranh tôn giáo
Việt Nam là nơi giao lưu của nhiều luồng văn hố thế giới.
Các tơn giáo hội Việt Nam có sự đa dạng về nguồn gốc và
truyền thống lịch sử. Mỗi tơn giáo ở Việt Nam có q trình lịch
sử tồn tại và phát triển khác nhau nên sự gắn bó với dân tộc
cũng khác nhau. Tín đồ của các tơn giáo khác nhau cùng chung
sống hịa bình trên một địa bàn; giữa họ có sự tơn trọng, niềm
tin của nhau và chưa từng xảy ra xung đột, chiến tranh tôn giáo
trong suốt chiều dài lịch sử. Gần như ở Việt Nam không xảy ra
xung đột hay mâu thuẫn tôn giáo trong khi các nước Trung
Đông luôn xảy ra xung đột, tranh chấp, mâu thuẫn sắc tộc, mâu
thuẫn tôn giáo. Đây chính là điều đặc biệt chỉ có ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy khơng có một tơn giáo nào du nhập vào Việt
Nam mà không mang dấu ấn, không chịu ảnh hưởng của bản
sắc văn hóa Việt Nam.
Thứ ba, tín đồ các tơn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao
động, có lịng u nước, tinh thần dân tộc
Mặc dù sự hình thành, phạm vi ảnh hưởng đối với số lượng tín
đồ, tác động chính trị xã hội của các tôn giáo là không giống
nhau nhưng đồng bào các tơn giáo đã góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Người
có tơn giáo và khơng có tơn giáo, người theo đạo và khơng theo
đạo đều có một mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, đã đoàn kết với nhau để cùng chống lại kẻ thù
đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
16
Tín đồ các tơn giáo Việt Nam có thành phần đất đa dạng, chủ
yếu là người lao động... Đa số tín đồ các tơn giáo đều có tinh
thần u nước, chống giặc ngoại xâm, tơn trọng cơng lý, gắn bó
với dân tộc, đi theo Đảng, theo cách mạng, hăng hái tham gia
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Trong các giai đoạn lịch
sử, tín đồ các tơn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên
những thắng lợi to lớn, vẻ vang cho dân tộc và có ước vọng
sống "tốt đời, đẹp đạo".
Thứ tư, hàng ngũ chức sắc các tơn giáo có vai trị, vị trí quan
trọng trong giáo hội có uy tín ảnh hưởng với tín đồ
Chức sắc tơn giáo là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tơn
giáo, với vị trí là đội ngũ nịng cốt, xương sống của Giáo hội các
tơn giáo; họ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng
theo giáo lý, giáo luật của tơn giáo mà mình tin theo. Về mặt
tôn giáo chức năng của họ là truyền bá, thực hành giáo lý, giáo
luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tơn giáo, duy trì, củng cố và
phát triển tôn giáo, chuyên chăm lo đến đời sống tâm linh của
tín đồ, là cầu nối giữa Giáo hội các tơn giáo với tín đồ. Thơng
qua các vị chức sắc thì quần chúng yên tâm tu hành theo luật,
theo giáo luật, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của nhà nước; chống lại âm mưu của những kẻ đội lốt
tôn giáo chống phá cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo ở
Việt Nam ln chịu sự tác động của tình hình chính trị - xã hội
trong và ngồi nước nhưng nhìn chung xu hướng tiến bộ trong
hàng ngũ chức sắc ngày càng phát triển.
17
Thứ năm, các tơn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ
chức cá nhân tôn giáo ở nước ngồi
Nhìn chung các tơn giáo ở nước ta, khơng chỉ các tôn giáo
ngoại nhập mà cả các tôn giáo nội sinh đều có quan hệ với các
tổ chức, cá nhân tơn giáo ở nước ngồi hoặc các tổ chức tôn
giáo quốc tế.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nhà nước Việt Nam đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên toàn thế giới. Đây chính là điều kiện gián tiếp củng cố
và phát sinh mối quan hệ giữa các tôn giáo Việt Nam với tơn
giáo ở các nước trên thế giới. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề tôn
giáo ở Việt Nam phải đảm bảo kết hợp giữa mở rộng giao lưu
hợp tác quốc tế với việc đảm bảo độc lập chủ quyền không để
cho kẻ địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để
chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ của nhà nước Việt
Nam, nhằm thực hiện âm mưu "diễn biến hịa bình" đối với nước
ta.
Trong giai đoạn tồn cầu hố hiện nay, quan hệ giữa các
quốc gia ngày càng rộng mở trên nhiều lĩnh vực như kinh tế,
chính trị, văn hố. Tơn giáo cũng là một vấn đề nằm trong sự
vận động chung của bối cảnh thế giới hiện nay. Quan hệ thế giới
của các tôn giáo rất đa dạng nhưng về cơ bản diễn ra như sau:
hoạt động thuần túy theo giáo lý giáo luật của tôn giáo, hoạt
động từ thiện xã hội, các hội nghị, hội thảo về tơn giáo ở nước
ngồi, tham gia việc lãnh đạo của tôn giáo, chức sắc, nhà tu
hành của người nước ngoài tại Việt Nam. Giao lưu quốc tế giữa
các tôn giáo là một nhu cầu tất yếu, là một tập quán và thông
18
lệ quốc tế đã có từ lâu đời và ngày càng được tăng cường mở
rộng.
2.2. Thực trạng giải quyết các vấn đề tơn giáo ở Việt Nam
Ưu điểm:
Chính sách tôn giáo ở Việt Nam đã được thể hiện qua các văn
kiện chính trị của Đảng và các văn bản pháp luật do nhà
nước ban hành, có tác động to lớn tới đời sống tôn giáo của
đất nước, phù hợp thực tế và đáp ứng nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trong công cuộc xây dựng đất nước.
Đảng ta đã thực hiện tốt mục tiêu đồn kết tơn giáo, đại
đồn kết tồn dân tộc, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của mọi người theo quy định của pháp luật, phát huy giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tơn giáo và giữ gìn, nâng cao
đạo đức truyền thống xã hội; xây dựng đời sống văn hóa ở
các khu dân cư để góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội.
Đảng đã tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
đúng quy định của pháp luật, chủ động giúp đỡ, giải quyết
các nhu cầu hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng tâm linh của
quần chúng đồng thời chủ động phòng ngừa kiên quyết đấu
tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhà nước tôn trọng và đề cao các giá trị đạo đức, văn hố
của tơn giáo. Văn kiện Đại hội XII của đảng ghi rõ: "phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của
các tôn giáo cho sự phát triển đất nước" Nhưng không dựa
19
vào giá trị đạo đức, niềm tin hay lực lượng của bất kỳ tơn
giáo nào để giữ gìn sự vững mạnh và trong sạch của Đảng.
Nhà nước cho phép các hoạt động nhân đạo, từ thiện, văn
hoá, giáo dục của tôn giáo với tư cách là các tổ chức dân sự.
Nhà nước đã kết hợp với những tổ chức tơn giáo, khuyến
khích những việc làm từ thiện như: các tổ chức Phật giáo
phát quà cho bà con ăn tết, tặng xe đạp cho các cháu đến
trường, tặng laptop cho những em học sinh có hồn cảnh khó
khăn, khơng có điều kiện học online mùa dịch…
Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tơn
giáo do tơn giáo có sự đồng hành lâu đời với con người trong
lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản văn hóa của
nhân loại. Trong quá trình phát triển lan truyền trên bình diện
thế giới tơn giáo không chỉ đơn thuần truyền tải niềm tin của
con người, mà cịn có vai trị truyền tải, hịa nhập văn hóa và
văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Nó có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người.
Với tư cách một bộ phận của ý thức hệ tôn giáo đã đem lại
cho cộng đồng, xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc những biểu hiện độc đáo, thể hiện trong cách ứng xử,
lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật
chất cũng như tinh thần.
Đạo đức Tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân
bản góp phần tích cực vào việc hồn thiện đạo đức cá nhân.
Bất kỳ tơn giáo nào cũng đề cập đến tình yêu. Tinh thần "từ
bi" trong Phật giáo khơng chỉ hướng đến con người mà cịn
đến cả mn vật, cỏ cây. Phật giáo kêu gọi lịng nhân đạo
yêu thương và bảo vệ sự sống đặc biệt trong quan hệ giữa
20
con người với con người. Phật giáo muốn tình yêu thương ấy
phải biến thành hành động "bố thí", cứu giúp những người
đau khổ hoặc "nhẫn nhục" để giữ gìn đồn kết.
Tất cả các tôn giáo như: Phật giáo, Kitô giáo, Tin Lành, Hòa
Hảo, Cao Đài đều hướng thiện, muốn con người hồn hảo
hơn. Tơn giáo nào cũng dạy con người làm việc tốt, khơng
gây ốn thù, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và giúp con người
hiểu hơn về nhận thức cũng như bản chất con người.
Hạn chế
Bên cạnh về mặt ưu điểm tôn giáo ở Việt Nam hiện nay cịn
có những hạn chế của đạo đức Tơn giáo. Một khi đã thâm
nhập vào ý thức con người, nó sẽ làm cho con người lãng
quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần
thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực.
Về mặt nào đó đạo đức Tơn giáo đã tạo cho con người thế
giới quan và nhân sinh quan sai lệch, làm hạn chế tính tích
cực, chủ động và sáng tạo của con người. Đạo đức Tôn giáo
hướng con người tới khát vọng hạnh phúc xong đó là thứ
hạnh phúc hư ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các
tôn giáo đề ra thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh.
Nó tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới hiện
thực, bằng lịng với số phận, khơng tích cực đấu tranh chống
lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong
niềm tin rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu quả báo hoặc bị
trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã ngăn cản con người
đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần thế.
21
Có những lúc, những nơi do hiểu biết và tầm nhìn hạn hẹp
của nhiều cán bộ, đảng viên trong thực hiện chính sách tơn
giáo đã để lại những rạn nứt khơng đáng có. Nhiều người đã
đánh đồng thái độ chính trị chống cộng sản, chống chính
quyền của một số chức sắc tôn giáo với cả cộng đồng tôn
giáo và tổ chức tôn giáo.
Mặc dù đã cảnh giác với các hoạt động lợi dụng tôn giáo của
các thế lực thù địch nhưng vẫn khơng tránh khỏi các tổ chức
xấu tìm cách lợi dụng tôn giáo, biến tướng tư tưởng tôn giáo
để phục vụ cho mục đích chính trị, chống phá Đảng, chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các hình thức biến
tướng của"tà đạo" trên mạng xã hội nở rộ thời gian gần đây
là vỏ bọc cho những hành vi trục lợi, kiếm tiền, lợi dụng tâm
lý lo lắng của người dân trước dịch bệnh. Các đối tượng xấu
đang vận hành tà đạo nhan nhản trên các trang mạng xã hội,
diễn đàn, nền tảng trực tuyến như facebook, zalo, instagram,
tiktok, zoom…. Các đối tượng thường hướng tới người già,
người mắc bệnh nan y, những người dễ bị tin theo. Đảng đã
đưa ra những biện pháp để ngăn chặn những đối tượng có
hành vi trên, thực hiện kiểm sốt an ninh mạng, để mọi người
dân khơng tiếp cận được những thông tin sai lệch, bị dụ dỗ,
tin theo nhưng còn chưa thực sự diệt tận gốc được những
hành vi này.
Thêm nữa, đạo đức Tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn
thiện đạo đức cá nhân nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã
hội của con người. Với tính cách một hình thái ý thức xã hội,
đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát
sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của
22
con người. Do vậy muốn hoàn thiện đạo đức, cá nhân khơng
thể tách nó khỏi những điều kiện sinh hoạt vật chất cùng các
quan hệ xã hội khác của con người. Các Mác đã từng khẳng
định rằng "bản chất của con người là tổng hòa của những
mối quan hệ xã hội" và nhân cách của con người cũng chỉ có
thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà thơi.
Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trị
của đạo đức tơn giáo để khẳng định một cách khách quan, khoa
học những đóng góp, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực
của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết. Chúng ta hy vọng
rằng những giá trị nhân văn hướng thiện, những chuẩn mực đạo
đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ giúp góp phần làm phong phú hệ giá
trị đạo đức của dân tộc và hữu ích trong cơng cuộc xây dựng xã
hội mới.
3. Giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam với tín ngưỡng, tơn
giáo hiện nay bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Đảng ta khẳng định tín ngưỡng, tơn giáo sẽ tồn tại lâu đời
cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự
khẳng định đó mang tính khoa học và cách mạng, hồn tồn
khác với cách nhìn nhận chủ quan, tả khuynh khi cho rằng có
thể bằng các biện pháp hành chính, hay khi trình độ dân trí cao,
đời sống vật chất được đảm bảo là có thể làm cho tín ngưỡng,
23
tôn giáo mất đi; hoặc duy tâm, hữu khuynh khi nhìn nhận tín
ngưỡng tơn giáo là hiện tượng bất biến, độc lập, thoát ly với mọi
cơ sở kinh tế - xã hội, thể chế chính trị.
Vì vậy, thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tín ngưỡng
tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo bình thường
theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Đảng, Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết
dân tộc.
Đồn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. nhà
nước xã hội chủ nghĩa một mặt nghiêm cấm mọi hành vi chia
rẽ, phân biệt đối xử với cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo;
mặt khác thơng qua q trình vận động quần chúng nhân dân
tham gia lao động sản xuất, hoạt động xã hội thực tiễn, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình độ kiến thức...
để tăng cường sự đồn kết vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh" để cùng nhau xây dựng và bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mọi công dân không phân biệt tín
ngưỡng, tơn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ tổ
quốc.
Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống
thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng với tổ quốc và
nhân dân. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo
để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính
24