TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: “ĐƯỜNG LỐI “CHIẾN TRANH NHÂN DÂN” CỦA ĐẢNG
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP 1946-1954
VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.”
Giảng viên HD:
Thành phố Hồ Chí Minh, năm
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh là cuộc đọ sức quyết liệt (cả trí và lực) giữa hai bên hoặc nhiều bên
tham chiến, bên nào mạnh hơn bên đó sẽ giành chiến thắng - đó là quy luật. Đương
nhiên, sức mạnh ở đây là sức mạnh tổng hợp được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó
có việc vận dụng linh hoạt, hiệu quả yếu tố thời gian và không gian trong tác chiến.
Thời gian và không gian tồn tại khách quan và là những yếu tố quan trọng của
nghệ thuật quân sự. Nếu vận dụng nó một cách hiệu quả sẽ tạo nên sức mạnh chiến
đấu lớn, lực lượng nhỏ có thể chuyển hố thành lớn, yếu thành mạnh, bại chuyển
thành thắng. Vì thế, những nhà “cầm quân” của các bên đối chiến luôn coi trọng, khai
thác, phát huy hai yếu tố này trong quá trình tác chiến ở cả phạm vi chiến lược, nghệ
thuật chiến dịch và chiến thuật.
Lịch sử về xây đắp nền hòa bình của dân tộc Việt Nam đã chứng minh: Muốn có
hịa bình, dân tộc Việt Nam đã khơng chỉ biết nhân nhượng mà còn phải biết đấu
tranh. Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã trải qua rất nhiều
cuộc xâm lược. Xây dựng đất nước chúng ta phải thường xuyên đấu tranh, chống lại
những cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Để có được nền độc lập, dân chủ, ấm
no, hạnh phúc như ngày hơm nay, tồn Đảng, tồn qn, tồn dân ta đã đổ rất nhiều
mồ hôi , xương máu và nước mắt: “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”. Đối với một dân tộc nhỏ, với trang bị vũ khí kỹ thuật
cịn hạn chế, để chống lại đối thủ có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh, không thể chỉ
bằng sự hy sinh, lịng dũng cảm, mà phải bằng trí tuệ và tài thao lược; phải biết thắng
địch từng bước vừa với khả năng và sức lực của mình, chúng ta phải “ lấy nhỏ thắng
lớn, lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh”. Từ quan điểm tiến hành chiến tranh
nhân dân, chiến lược quân sự cách mạng của Đảng ta đều nhằm thực hiện mục tiêu
cách mạng đã đề ra, với những phương thức thực hiện đa dạng, ngày càng phát triển
lên trình độ cao hơn. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các hình thức đấu tranh với
các loại hình tác chiến; phối hợp giữa các vùng chiến lược; giữa các mũi tiến công;
giữa tác chiến chiến lược, chiến dịch, chiến thuật của ba thứ quân; kết hợp nhuần
Page 2
nhuyễn giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công; là nghệ thuật quân sự “tạo
thế”, “tranh thời” và “chuyển lực”. Nhìn lại những dịng lịch sử Việt về những năm
tháng chống thực dân Pháp, chúng ta sẽ thấy rõ hơn về vai trò của đường lối kháng
chiến đúng đắn. Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc đối
với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Để nêu rõ hơn về vấn đề này em xin chọn đề tài: :
“Đường lối “chiến tranh nhân dân” của đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp 1946-1954 và bài học rút ra cho sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn hiện nay.”
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp sau :
•
•
•
•
Phương pháp thu thập dữ liệu.
Phương pháp đưa ra kết luận.
Hệ thống cấu trúc, logic.
Phương pháp thống kê.
3. Nội dung nghiên cứu
•Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu nội dung của đường lối “chiến tranh nhân dân” của Đảng trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954 ; từ đó rút ra được ý nghĩa lịch sử và nguyên
nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến. Kết quả nghiên cứu phục vụ cho thực hiện tìm ra
được các đường lối kháng chiến, lãnh đạo cho Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
•
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên chúng tơi cần tìm hiểu những
vấn đề lý luận cơ bản, thu thập số thống kê của đối tượng và trình bày nội dung các phân
tích liên quan, trong phạm vi nghiên cứu.Làm rõ hồn cảnh lịch sử, thời cơ và nguyên
nhân dẫn đến cuộc bùng nổ kháng chiến. Rút ra được bài học cho sự lãnh đạo của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của bài tiểu luận
Bài tiểu luận về đề tài này là cơng trình nghiên cứu, được tổng hợp một cách
cô động về nội dung của đường lối “ chiến tranh nhân dân” : hoàn cảnh lịch sử, thời cơ
cách mạng, nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến , cơ sở của đường lối kháng chiến, Từ
đó kết quả nghiên cứu có thể góp phần rút ra bài học cho sự lãnh đạo của Đảng trong giai
đoạn hiện nay.
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung bài tiểu luận gồm 2 chương
chính:
o
Chương 1: Đường lối “chiến tranh nhân dân” của đảng trong cuộc kháng chiến chống
thực dân pháp 1946-1954
Page 3
o
Chương 2: Bài học rút ra cho sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn hiện nay
Page 4
o
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG I: ĐƯỜNG LỐI “CHIẾN TRANH NHÂN DÂN” CỦA ĐẢNG TRONG
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP 1946-1954
1.1 Hoàn cảnh lịch sử
1.1.1 Khó khăn
a) Ngoại xâm và nội phản
- Sau cách mạng tháng 8 nước ta đã có những chiến thắng vang dội mang lại nền độc lập
cho đất nước tuy nhiên sau đó cũng để lại nhiều khó khắn và thách thức. Khi chiến tranh
thế giới thứ hai kết thúc, mặc dù chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt, lực lượng đế quốc đã
suy yếu hơn trước, song với bản chất phản động, bọn đế quốc ra sức đàn áp phong trào
Cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc, giành giật lại những thuộc
địa đã mất. Việt Nam trở thành đàn áp và giành giật của các thế lực Đế quốc và tay sai.
- Nhật Bản đầu hàng đồng minh các quân đội với danh nghĩa là quân đồng minh sang giải
giáp quân Nhật.
Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc,Việt Nam lại cùng lúc đối đầu với nhiều kẻ thù
đến vậy. Đó là chưa kể đến lúc này ở Việt Nam cịn có 6 vạn qn Nhật đang chờ
giải giáp. Lúc này Đảng ta nhận định: Việt Nam nằm trong vòng vây trùng trùng
điệp điệp của chủ nghĩa đế quốc.
Trong tất cả các kẻ thù lúc bấy giờ, Pháp chính là kẻ thù nguy hiểm nhất đổi với nền
độc lập nước ta.
b) Đối nội:
Khó khăn nghiêm trọng là hậu quả của chế độ cũ để lại như:
- Về chính trị: chính quyền cách mạng vừa được thành lập cịn non trẻ, chưa được củng
cố, lực lượng vũ trang non yếu.Kinh nghiệm quản lí đất nước của các cấp cán bộ còn non
yếu. Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận và đặt quan
hệ ngoại giao
- Về kinh tế-tài chính: nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, suy thối nặng nề, lâm vào tình trạng kiệt quệ, ngân sách Nhà nước trống rỗng, tiền
mất giá của Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị trường làm tài chính nước ta rối loạn. Nạn
đói hồnh hành chưa được khắc phục, đời sống nhân dân khó khăn. Nạn dốt trình độ văn
hóa kém và cịn lạc hậu hơn 90 % dân số mù chữ, nhiều tệ nạn xã hội như là cờ bạc, rượu
chè, tệ nạn mê tín dị đoan phổ biến.
Đất nước đúng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với
nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngồi. Tổ quốc lâm nguy.
1.1.2 Thuận lợi
Sau chiến tranh Thế giới thứ 2, cục diện khu vực và thế giới có những sự thay đổi lớn
có lợi cho cách mạng Việt Nam. Trên thế giới hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành
và phát triển, Liên Xơ trở thành thành trì của chủ nghĩa xã. Phong trào cách mạng dâng
cao và ngày càng phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước thuộc địa Á-Phi-Mỹ Latinh. Phong
trào đấu tranh đòi dân chủ ở các nước Tư bản phát triển mạnh mẽ. Cách mạng nước ta có
Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lãnh đạo. Tồn nhân dân tin tưởng vào
Page 5
Đảng, ủng hộ Việt Minh, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hịa do Hồ Chí Minh
làm chủ tịch và gắn bó với chế độ.
Niềm tự hào dân tộc, ý thức đoàn kết quốc gia, truyền thống yêu nước bất khuất của dân
tộc ta và tinh thần tương thân tương ái sẽ là động lực thúc đẩy con thuyền cách mạng Việt
Nam vượt qua mọi sóng gió, thác ghềnh để cập bến bờ thắng lợi.
1.2 Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến
- Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, một thành
tựu vĩ đại của chặng đường đấu tranh đầy hy sinh và anh dũng của dân tộc. Tuy nhiên,
thực dân Pháp không dễ từ bỏ miền thuộc địa màu mỡ, rắp tâm quay trở lại tiếp tục bóc
lột, khai thác phục vụ cho công cuộc tái thiết sau chiến tranh. Trái với thiện chí hịa bình
của Việt Nam, thực dân Pháp vẫn ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, nuôi hi vọng
giành thắng lợi bằng quân sự. Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, mặc dù đã ký Hiệp
định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, nhưng thực dân Pháp không nghiêm túc thực
hiện mà ra sức khiêu khích, phá hoại,chúng đã trắng trợn xé bỏ những điều đã cam kết với
ta.
- Chúng không ngừng bắn ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách thành lập “Nam Kỳ tự
trị”. Hạ tuần tháng 11 năm 1946, chúng chiếm đóng ở Hải Phịng và Lạng Sơn.
– Đầu tháng 12 chúng đánh úp lên Đà Nẵng, chiếm đóng Hải Dương và tăng thêm quân ở
Hải Phòng, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích.
- Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp ra sức khiêu khích đốt cháy Nhà Thơng tin
ở phố Tràng Tiền và phá chướng ngại vật ở phố Lò Đúc, bắn vào nhà dân thường như phố
Hàng Bún, Yên Ninh, chiếm đóng trụ sở chính Bộ Tài chính, Bộ Giao Thơng cơng chính.
- Lúc này, bộ mặt của thực dân Pháp muốn xâm lược nước ta đã rõ ràng. Trước tình hình
đó địi hỏi Đáng và Chính phủ ra những quyết sách kịp thời. Ngày 12-12-1946, Đảng ta đã
họp và ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”.
- Trong các ngày 18 và 19-12-1946, quân Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải giải tán lực
lượng tự vệ ở Hà Nội và nắm quyền kiểm sốt thủ đơ, nếu khơng được thì chậm nhất là
sáng ngày 20-12-1946 chúng sẽ chuyển sang hành động.
- Những hành động khiêu khích, xâm lược của Pháp đã làm cho nền độc lập, chủ quyền
của nước ta bị đe dọa nghiêm trọng. Chính những hành động gây chiến của thực dân Pháp
là nguyên nhân dẫn tới cuộc kháng chiến tồn quốc của nhân dân ta. Vì thế trong hai ngày
18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông
phát động cuộc kháng chiến tồn quốc. Khoảng 20h ngày 19-12-1946 cơng nhân nhà máy
điện Yên Phụ phá máy, cả Hà Nội tắt điện., tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng
loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí
Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
• Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược là: cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập
tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có
khả năng đánh thắng qn xâm lược.
• Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn
phía, chưa được nước nào cơng nhận, giúp đỡ. Cịn qn Pháp lại có vũ khí tối tân,
đã chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam,
có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
Page 6
1.3 Đường lối “chiến tranh nhân dân” của đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp 1946-1954
1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử
- Tháng 11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phịng và
thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở
Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề
bằng biện pháp đàm phán, thương lượng. Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ
khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng kiểm sốt an ninh trật tự ở Thủ đơ, ngày 19-12-1946,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông)
dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái
viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song khơng có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động
của Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hồ hỗn khơng
cịn. Hồ hỗn nữa sẽ dẫn đến hoạ mất nước. Trong thời điểm lịch sử phải quyết đoán
ngay, Hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và
chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà
Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, tất cả các
chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20-12-1946, Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam.
•
Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc và đánh địch trên
đất nước mình nên có chính nghĩa, có “thiên thời, địa lợi, nhân hồ”. Ta cũng đã có
sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân
xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh
tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương khơng dễ gì có thể khắc phục được
ngay.
Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn
phía, chưa được nước nào cơng nhận, giúp đỡ. Cịn qn Pháp lại có vũ khí tối tân,
đã chiếm đóng được hai nước Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam,
có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc. Những đặc điểm của sự
khởi đầu và thuận lợi, khó khăn đó là cơ sở để Đảng xác định đường lối cho cuộc
kháng chiến. á trình hình thành
1.3.2 Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ quân chủ
nhân dân
1.3.2.1 Quá trình hình thành
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giặc Pháp, so với ta, là một kẻ địch khá mạnh” Tuy
vậy, Đảng cũng nhận định, thực dân Pháp cũng có những điểm yếu cơ bản không thể khắc
phục, mà cái yếu nhất đó là thực dân Pháp tiến hành một cuộc chiến tranh phi nghĩa trong
thời đại mới.
– Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước trong quá trình chỉ đạo
Nam bộ kháng chiến, qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch cũng như từ
thực tiễn chuẩn bị lực lượng về mọi mặt của ta.
– Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong chỉ thị kháng chiến kiến quốc,
Đảng ta nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc là thực dân Pháp, phải tập
trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong q trình chỉ đạo cuộc kháng chiến Nam bộ,
•
Page 7
Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với
ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.
- Ngày 19/10/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị quân sự toàn quốc lần
thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định: “Khơng sớm thì
muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh Pháp”, Hội nghị đề ra những chủ
trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước
vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” ngày 05/11/1946, Hồ
Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng
chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Trên cơ sở sớm phát hiện kẻ thù chủ yếu và nguy cơ chiến tranh, chủ động chuẩn bị, lại
nhạy bén phát hiện tình hình, nhận định đúng thời cơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung
ương Đảng quyết định phát động Toàn quốc kháng chiến, chủ động nổ súng đánh trước
vào đêm 19-12-1946 ở thủ đô Hà Nội và nhiều thành phố, thị xã khác. Đó là cả một vấn
đề mang tính nghệ thuật. Đảng đã chuẩn bị đầy đủ những điều kiện và chủ động để bước
vào cuộc kháng chiến lâu dài, tạo nên tiền đề quan trọng cho thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- Để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược hùng mạnh, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, kế
thừa và phát triển truyền thống đánh giặc giữ nước của ơng cha để tìm ra lời giải chính xác
cho câu hỏi bức thiết của lịch sử. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân kháng
chiến, toàn diện kháng chiến, với phương châm lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Đường lối đó đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân, nhờ vậy mà
ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Đó là “một trong những đường lối chiến
đấu hoàn hảo nhất của thời đại chúng ta”
- Đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong ba văn
kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc kháng chiến tồn quốc
bùng nổ. Đó là:
+ Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12/12/1946
+ “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946
+ Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh xuất bản đầu năm
1947.
1.3.2.2 Nội dung đường lối kháng chiến:
- Xác định mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp của Cách mạng tháng
Tám,là đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập thống nhất cho dân tộc. Chỉ khi đánh bại
thực dân Pháp thì đất nước mới có thể độc lập, dân tộc mới được tự do.
- Xác định tính chất của cuộc kháng chiến: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc
chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất tồn dân,
tồn diện. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc
lập dân chủ và hịa bình. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất giải phóng dân tộc và dân
chủ mới.
- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
+ Kháng chiến tồn dân là huy động toàn dân đánh giăc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có
trong tay, thực hiện khẩu hiệu: “toàn dân kháng chiên” thực hiện kháng chiến ở khắp nơi
thực hiện: “mỗi người dân là một chiến sĩ “, “mỗi đường phố là một pháo đài”, “mỗi khu
phố là một trận địa”.
Page 8
-> Phải kháng chiến tồn dân là vì so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch, nếu
chỉ dựa vào lực lượng quân đội chủ lực thì sẽ khơng thể nào thắng nổi giặc. Đó là sự kế
thừa, phát huy truyền thông: “cả nước chung sức, đánh giặc của dân tộc” thể hiện tư tưởng
chiến tranh nhân dân trong tư tưởng quân sự của HCM.
+ Kháng chiến toàn diện: là kháng chiến trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế,
văn hóa- xã hội và ngoại giao trong đó chú trọng mặt trận qn sự.
• Về quân sự thực hiện vũ trang toàn dân, xây dưng lực lượng vũ trang nhân
dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai. Thực hiện chiến tranh du
kích, tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, triệt để dùng du kích, vận
động chiến, bảo tồn thực lực, từng bước hồn thiện từ chiến tranh du kích
lên thành chiến tranh chính quy.
• Về văn hóa: xóa bỏ nền văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nên văn hóa
mới dân chủ, xã hội chủ nghĩa
• Về ngoại giao thực hiên thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực của ta tuyên
truyền để cho nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân Pháp biết và ủng hộ
cuộc kháng chiến của ta.Thực hiện liên hiệp với dân tộc Pháp, sẵn sàng đàm
phán nếu Pháp công nhận nền độc lập của ta.
• Về kinh tế; Thực hiện tiêu thổ kháng chiến, xây dựng nền kinh tế, tự túc, tự
cấp tập trung phát triển nơng nghiệp và cơng nghiệp quốc phong.
• Về chính trị: thực hiện đồn kết tồn dân, tăng cường xây dưng Đảng, chính
quyền, các đồn thể nhân dân, đồn kết với 2 dân tộc Miên, Lào và các dân
tộc u chuộng hịa bình trên thế giới.
-> Phải kháng chiến tồn diện vì: thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn để xâm lược ta, vì vậy
muốn kháng chiến thắng lợi phải làm thất bại mọi thủ đoạn của chúng: Để kháng chiến
thắng lợi ta phải xây dựng một hậu phương kháng chiến xây dựng, 1 hậu phương vững
mạnh về mọi mặt, đồng thời phải tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế.
– Xác định phương châm chiến lược là: trường kì và tự lực cánh sinh.
+ Kháng chiến trường kỳ: còn gọi là phương châm chiến lược kháng chiến lâu dài, chống
lại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của giặc Pháp, nhằm phát huy tất cả lợi thế “ thiên
thời, địa lợi, nhân hòa” từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường, tiến
lên tranh thủ cơ hội giành thắng lợi quyết định để kết thúc chiến tranh.
– > Phải kháng chiến lâu dài vì: so sánh tương quan lực lượng giữa ta và kẻ thù xâm lược
rất chênh lệch, nhất là về kinh tế và qn sự khơng có lợi cho ta, nên khó có thể giành
thắng lợi một cách nhanh chóng. Đánh nhanh thắng nhanh luôn là lối đánh sở trường của
kẻ đi xâm lược (để phát huy ưu thế về quân sự, khắc phục chỗ yếu của chiến tranh phi
nghĩa và tiết kiệm chi phí chiến tranh). Ta đánh lâu dài là để chống lại lối đánh sở trường
của chúng mà buộc chúng phải theo cách đánh của ta. Hồ Chí Minh nói: Địch dùng lối
đánh nhanh thắng nhanh, ta quyết kế trường kì kháng chiến”. Đánh lâu dài nhân dân ta sẽ
có thời gian để vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu
phương và vận động quốc tế. Tuy nhiên kháng chiến lâu dài cũng cần biết nắm bắt thời cơ,
trên cơ sở thực hiện kháng chiến phương châm kháng chiến lau dài còn phải giành thắng
lợi từng bước, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, tiến lên
tranh thủ giành chiến thắng quyết địch kết hợp với giải pháp ngoại giao để kết thúc cuộc
kháng chiến tranh gây mất mát đau thương cho nhân dân.
– Tự lực cánh sinh: cịn gọi là dựa vào sức mình là chính, nhằm phát huy mọi nỗ lực chủ
quan, tránh bị động trơng chờ vào sự giúp đỡ từ bên ngồi; Hơn nữa trong thời gian đầu
Page 9
của cuộc kháng chiến(trước 1949) ta nằm trong tình thế bị bao vây cơ lập thì càng phải
phát huy tinh thần tự lực tự cường. Tuy nhiên tự lực cánh sinh cũng cần phải biết tranh thủ
mọi sự giúp đỡ quốc tế, cần phải tuyên truyền vận động quốc tế tranh thủ mọi sự giúp đỡ
về vật chất và tinh thần, làm tăng thêm sức mạnh của cuộc kháng chiến.
=> Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự
truyền thống của cha ông ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin và kinh nghiệm quân sự một số nước anh em vào điều kiện Việt Nam.Là
đường lối chiến tranh nhân dân. Đường lối kháng chiến là nguồn cổ vũ, dẫn dặt cả dân tộc
Việt Nam đứng lên kháng chiến, là xuất phát điểm cho mọi thắng lợi của cuộc kháng chiến
chính nghĩa của ta.
* Sự chỉ đạo triển khai đường lối và các bước phát triển trên mặt trận quân sự:
- Chống âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh”
+ Từ những ngày đầu kháng chiến, với sự chiến đấu ngoan cường, quân dân cả nước đã
chặn đánh địch khắp nơi, tiêu hao binh lực địch, giam chân và ngăn chặn bước tiến của
chúng, gìn giữ và phát triển lực lượng của ta.
+ Một bước tiếnquan trọng là Chiến dịch Việt Bắc.
+ Ngày 15/10/47, Ban thường vụ trung ương Đảng ra chỉ thị phải “Phá tan cuộc tấn
cơng mùa đơng của giặc Pháp”, trong đó nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta
phải gây thiệt hại nặngcho địch, giữvững chính quyền dân chủ, phá vỡ cácchính quyền bù
nhìn, về qn sự phải đánh mạnh trên khắp các chiến trường... Trong tái chiến phải biết
giữ gìn chủ lực của ta và phải nhằm vào chỗ yếu của địch mà đánh.Thực hiện chỉ thịcủa
Đảng và căn cứ vào thực tế chiến trường, với lối đánh mưu trí linh hoạt, trải qua 75 ngày
đêm chiến đấu, quân và dân ta đã giành thắng lợi lớn. Những thắng lợi trên đây đã làm
phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở ra giai đoạn mới
của cuộc kháng chiến.
- Chống âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt”
+ Hội nghị ban chỉ đạo trung ương mở rộng (tháng 1/48) đã đề ra nhiệm vụ và các biện
pháp về qn sự, chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm thúc đẩy kháng chiến tiến lên giai
đoạn mới. Đảng chú trọng đẩy mạnh chiến tranh du kích; củng cố khối đồn kết toàn
dân; phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân tịch thu ruộng đất của bọn phản quốc
cấp cho dân nghèo, thực hiện giảm tô, chia lại công điền; phát triển văn hóa, giáo dục;
tăng cường cơng tác xây dựng Đảng.
+ Ngày 27/3/48, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban thường vụ trung ương
Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc. Để tăng cường xây dựng bộ đội chủ
lực, tháng 11/49, chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự.
Đảng và chính phủ quan tâm chăm lo bồi dưỡng sức dân; thực hiện chính sách ruộng đất,
với tư tưởng chỉ đạo là “dùng phương pháp cải cách mà dần dần thu hẹp phạm vu bóc lột
của địa chủ phong kiến bản xứ lại đồng thời sửa chế độ ruộng đất”.
Từ năm 49, nhiều địa phương đã xúc tiến việc thống nhất Việt Minh và Liên việt trên
phạm vi toàn quốc. Đảng chú trọng nêu cao tinh thần lương giáo đoàn kết, giác ngộ giáo
dân; binh sĩ ngụy; tranh thủ tầng lớp trên và kiên quyết trừng trị bọn phản động đội lốt tôn
giáo.
+ Trên mặt trận văn hóa, Hội nghị Văn hóa tồn quốc tháng 7/48 đã xác định đường lối
nhiệm vụ cơng tác văn hóa trong kháng chiến. Trường Chinh đã trình bày bản báo cáo
“Chủ nghĩa Mác và VH VN”, vạch rõ đường lối, phương châm xây dựng nền văn hóa dân
chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, KH và đại chúng.
Page 10
+ Công tác xây dựng Đảng được chú trọng qua việc thử thách và kết nạp Đảng viên và qua
cuộc vận động xây dựng “chi bộ tự động công tác”.
+ Kết quả của những chỉ đạo triển khai đường lối trên đây của Đảng là âm mưu “lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt” của thực dân Pháp bịthất bại;
chiến tranh nhân dân được đẩy mạnh và lực lượng cách mạng được xây dựng, củng cố về
mọi mặt.
- Chiến dịch biên giới 1950:
+ Tháng 9/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch Biên giới,
đánh dấu lần đầu tiên ta chủ động mở chiến dịch tấn công quy mô lớn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra mặt trận để cùng Bộ Chỉ huy trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Phối hợp với chiến
dịch, quân dân cản nước tăng cường chiến đấu trên khắp các mặt trận. Kết quả thắng lợi
của Chiến dịch Biên giới đã đập tan tuyến phòng thủ của địch, giải phóng hồn tồn vùng
biên giới, tạo cánh cổng để Việt Nam liên lạc với các nước XHCN bên ngoài. Đây cũng là
bước ngoặt cho sự trưởng thành về trình độ tác chiến và chỉ đạo của quân đội ta, giành thế
chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ.
1.3.2.3 Về đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân:
Đại hội đã nhận thấy do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân mỗi nước
Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một Đảng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công
khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính
trị của chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo hồn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ
nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và điều lệ Đảng
của Lê Văn Lương. Nội dung cơ bản của báo cáo được phản ánh trong Chính cương của
Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây:
- Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân dân, một
phần thuộc địa và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa chế
độ dân chủ nhân dân với các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Đối
tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và can
thiệp Mỹ, và phong kiến phản động.
- Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược,
giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa
phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở
cho chủ nghĩa xã hội”.
- Động lực của cách mạng: gồm “công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí
thức và tư sản dân tộc; ngồi ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai
cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và
lao động trí thức”.
- Triển vọng của cách mạng: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ
đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Đây là q trình lâu dài, có các giai đoạn phát
triển tương ứng với những nhiệm vụ trung tâm, đó là: hồn thành giải phóng dân tộc; xóa
bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, hồn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; tiến tới xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tiến
lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
- Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
gây mầm sống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi
Page 11
- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hồ bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xơ; thực hiện
đồn kết Việt – Trung – Xơ và đồn kết Việt – Miên – Lào
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng 3-1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc
tế và trong nước, nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến
tranh, “củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du
kích”; “gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính”, “thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ
tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của tư nhân để phát triển cơng thương nghiệp”, “
Tích cực tham gia phong trào hồ bình thế giới”, “Củng cố Đảng về tư tưởng chính trị và
tổ chức”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai (họp từ ngày 27-9 đến ngày 5-10-1951) đã
nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn là
“ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến tới giành ưu thế quân sự”; “ra sức phá âm mưu
thâm độc của địch: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”,
đẩy mạnh kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm; “củng cố và phát triển sức kháng chiến của
toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết”.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1-1953), vấn đề cách mạng ruộng đất được
Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô,
chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn
thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh
tế và chính trị của nhân dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ năm (tháng 11-1953), Đảng quyết định phát động
quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. “Cải cách
ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi”. “Cải cách ruộng đất là chính sách
chung của cả nước, nhưng phải làm từng bước tuỳ điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì
làm sau”4. Hội nghị cũng khẳng định: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông
dân, một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên
chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ”.
Đường lối hồn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế trong giai đoạn 1951-1954.
Page 12
CHƯƠNG II: BÀI HỌC RÚT RA CHO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Kết quả và ý nghĩa lịch sử của đường lối kháng chiến
- Kết quả:
+Về chính trị: Đảng ra hoạt động cơng khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường
sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền được củng cố từ Trung ương
đến cơ sở. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại
đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất được triển khai từng
bước thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
+ Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đồn bộ binh, một đại
đồn cơng binh – pháo binh1.6Thắng lợi của các chiến dịch Trung du, Đường 18, Hà –
Nam – Ninh, Hồ Bình, Tây Bắc, Thượng Lào... đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải
phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và giúp đỡ
cách mạng Lào... Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 được ghi vào lịch sử dân tộc
ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỉ XX và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công hiểm hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị
áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
+ Về mặt ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao,
khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-121953, Ban Bí thư ra
Thơng tư nêu rõ: “lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng
lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục
đích giải quyết hồ bình vấn đề Việt Nam”2.1Ngày 8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm
dứt chiến tranh Đông Dương chính thức khai mạc tại Giơnevơ (Thuỵ Sĩ). Ngày 21-71954, các văn bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hồ bình ở
Đơng Dương được kí kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân dân
ta kết thúc thắng lợi.
Ý nghĩa lịch sử:
- Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được
đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến
tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại hồ bình ở Đơng Dương; giải phóng
hồn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa,
hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta
và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Page 13
- Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới;
cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở cả ba
nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là
hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã
đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân
dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hồ bình, dân
chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”
2.2 Nguyên nhân thắng lợi
Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau
Cách mạng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương kháng chiến, kiến quốc đúng đắn; xây
dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; lợi dụng được mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ địch...
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kết quả tổng
hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là:
• Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy
động được sức mạnh tồn dân đánh giặc; có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập
hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi – Mặt trận Liên Việt, được xây dựng
trên nền tảng khối liên minh cơng – nơng và trí thức vững chắc.
• Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng
vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực lượng quyết định tiêu diệt
địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ
quốc.
• Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng
cố và lớn mạnh, làm cơng cụ sắc bén tổ chức tồn dân kháng chiến và xây dựng chế
độ mới.
• Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào,
Campuchia cùng chống một kẻ thù chung; đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn
của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc u chuộng hồ
bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.
2.3 Bài học rút ra từ đường lối “ chiến tranh nhân dân” để góp phần cho sự lãnh đạo của
đảng ta trong giai đoạn hiện nay
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính
quyền.
- Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự
nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần
thiết trong hoàn cảnh cụ thể.
- Tận dụng khả năng hồ hỗn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân,
đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng, chiến tranh lan ra cả nước khi
kẻ địch bội ước.
- Đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho tồn Đảng, tồn qn,
tồn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài dựa vào sức mình là chính.
Page 14
- Kết hợp chặt chẽ đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến và
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, trong khi đó
nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền
cách mạng. Thực hiện phương châm vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây
dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của cuộc kháng chiến.
- Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, đồng thời tích cực, chủ
động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo,
kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Tăng
cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng
trong chiến tranh.
KẾT LUẬN
Dưới ánh sáng đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, sức mạnh cả nước đồng lịng, tồn dân đánh giặc, sức mạnh của tiền tuyến và hậu
phương, vật chất và tinh thần, trong nước và thời đại… đã được huy động, phát huy lên
tầm cao mới. Một trong những nguyên nhân cơ bản, quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp là đường lối kháng chiến toàn dân. Đây là sự kết hợp nhuần
nhuyễn những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin với
truyền thống, tinh hoa và nghệ thuật đánh giặc giữ nước của ông cha và kinh nghiệm đấu
tranh quân sự của một số nước trên thế giới, để giải quyết những vấn đề quân sự do thực
tiễn cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp
Mỹ đặt ra. Bằng bản lĩnh và sức mạnh đó, ta đã từng bước làm chuyển biến lực lượng, từ
yếu hóa mạnh, ít thành nhiều, tạo nên sức mạnh áp đảo để giành thắng lợi cuối cùng.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là một bộ phận quan trọng của đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của. Đó là đường lối tiếp tục hồn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc bằng chiến tranh cách mạng, trong điều kiện nhân dân ta đã giành được
chính quyền để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong một thời gian ngắn và trong bối cảnh lịch
sử đầy khó khăn, phức tạp, Đảng ta đã dựa vào đường lối cách mạng và kinh nghiệm đấu
tranh giải phóng dân tộc sớm đề ra được những vấn đề cơ bản của đường lối kháng chiến
chống thực dân Pháp. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến 12-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến ngày 19-12-1946 và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi là những văn
kiện lịch sử quan trọng thể hiện đường lối kháng chiến của Đảng ta. Đường lối ấy không
ngừng được bổ sung, phát triển, hồn chỉnh trong q trình kháng chiến. Nó là ngọn đèn
pha soi sáng, dẫn dắt nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm, chiến đấu và chiến
thắng kẻ thù. Nội dung đường lối kháng chiến bao gồm các vấn đề cơ bản: Phát động và tổ
chức toàn dân kháng chiến; kháng chiến toàn diện trên tất cả các mặt trận: chính trị, qn
sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. Trong đó việc phát động tồn dân đánh giặc, biến “Mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài” là nội dung quan trọng nhất của
Đường lối kháng chiến. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định sức mạnh
của cách mạng và chiến tranh là nhân dân. Bởi vì, “Sự đồng tâm của đồng bao ta đúc
thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức
nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Đảng đã xây dựng quyết
Page 15
tâm chiến đấu cho toàn dân và củng cố niềm tin vào thắng lợi của cuộc chiến đấu ấy, “Có
lẽ hiếm có ở đâu, chiến tranh nhân dân trong thực tế lại đúng với tên gọi của nó như vậy,
thực sự sâu rộng trong nhân dân và thực sự vô địch như nhân dân”. Chủ trương kháng
chiến toàn dân đã huy động lực lượng tổn hợp của cả dân tộc vào cuộc chiến đấu.
Thắng lợi của cuộc chiến tranh yêu nước đã khẳng định đường lối kháng chiến do Đảng
đề ra khơng những kịp thời mà cịn đúng đắn và sáng tạo. Đường lối ấy không chỉ đưa
cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi, mà cịn góp phần vào thành cơng của
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và làm phong phú lý luận của chủ nghĩa MácLênin về chiến tranh cách mạng. Phát huy giá trị lịch sử của Đường lối Toàn dân kháng
chiến gợi mở những ý nghĩa sâu xa đối với việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Là một bộ phận trong đường lối chiến lược
của Đảng, chiến lược đại đồn kết tồn dân tộc ln bám sát và phục vụ mục tiêu chiến
lược của Đảng.
Page 16
1. Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011.
2. Một số chuyên đề lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia H.2001,
tập 1, trang 7 – 104. 3. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị Quốc
gia, H.2006, trang 20-603. 4. Văn kiện Đảng , NXB Chính trị Quốc gia, H.2003, tập 2,
trang 1-129.
Page 17