Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

tiểu luận CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM Đề tài Tìm hiểu về hình thức tín ngưỡng của người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.86 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

BÀI TIỂU LUẬN THI GIỮA HỌC KÌ II
MƠN CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM
Đề tài: Tìm hiểu về hình thức tín ngưỡng của người
Việt Nam.
Họ và tên: Trần Thị Phương Liên
MSSV: 3121150075
Lớp: DGT1211
Năm học: 2021-2022

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
Chương 1: TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC........................................................2
1.1. Thờ sinh thực khí.....................................................................................2
1.2. Thờ hành vi giao phối................................................................................3
1.3. Vai trị của tín ngưỡng phồn thực.............................................................5
Chương 2: TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI TỰ NHIÊN.........................................6
2.1. Thờ Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước.................................................................6
2.2. Thờ động vật và thực vật...........................................................................7
Chương 3: TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI CON NGƯỜI.....................................8
3.1. Thờ hồn vía.................................................................................................8


3.2. Thờ cúng tổ tiên..........................................................................................9
3.3. Thờ thổ Công..............................................................................................9
3.4. Thờ thần làng............................................................................................10
3.5. Thờ Vua Tổ...............................................................................................10
KẾT LUẬN............................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................12


1. Lý do chọn đề tài

MỞ ĐẦU

Thời xa xưa, người Việt sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên.
Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên (nhiên thần) đã sớm gần gũi với
họ. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều tộc
người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm cho Việt Nam trở
thành một quốc gia đa tơn giáo, tín ngưỡng. Ở nước ta, trong khi các tơn
giáo vẫn phát triển thì các tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò quan trọng
trong đời sống tâm linh của người dân. Xuất phát từ những lí do trên, tơi
chọn đề tài “Tìm hiểu về hình thức tín ngưỡng của người Việt Nam” làm
đề tài tiểu luận của tôi.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về các hình thức tín ngưỡng để hiểu rõ hơn về các tin
ngưỡng của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay, biết được tín ngưỡng nào
phản ánh cận nét triết lí âm dương từ đối tượng thờ cúng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về các hình thức tín ngưỡng tơn giáo, triết lí âm dương.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào tài liệu và tham khảo từ các nguồn trên Internet.


1


NỘI DUNG
Chương 1: TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC
Ngay từ đầu, duy trì và phát triển sự sống đã là một nhu cầu thiết yếu nhất của
con người. Đối với văn hóa nông nghiệp, hai việc này lại càng bội phần hệ trọng.
Để duy trì cuộc sống, cần cho mùa màng tươi tốt. Để phát triển sự sống, cần cho
con người sinh sơi. Hai hình thức sản xuất lúa gạo (để duy trì cuộc sống) và sản
xuất con người (để kế lục dịng giống) này có bản chất giống nhau, đó là sự kết
hợp của hai yếu tố khác loại (đất và trời, mẹ và cha).
Từ một thực tiễn đó, tư duy cư dân nông nghiệp Nam Á đã phát triển theo hai
hướng: Những trí tuệ sắc sảo đi tìm quy luật khách quan để lí giải hiện thực, kết
quả là tìm được “triết lí âm dương”. Cịn những người có trình độ hạn chế thì
nhìn thấy ở hiện thực một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà sùng bái nó như thần
thánh, kết quả là xuất hiện tín ngưỡng phồn thực (phần = nhiều, thực = nãy nở).
Triết lí âm dương và tín ngưỡng phồn thực chỉ là hai mặt của một vấn đề. Ở Việt
Nam, tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử với hai dạng biểu
hiện: thờ cơ quan sinh dục và thờ hành vi giao phối.

1.1. Thờ sinh thực khí
Việc thờ cơ quan sinh dục nam nữ được gọi là thờ sinh thực khí (sinh = dễ,
thực = nảy nở, khí = cơng cụ). Đây là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực,
nó phổ biến ở các nền văn hóa nơng nghiệp.
Tượng đá, hình nam nữ với bộ phận sinh dục phóng to có niên đại hàng nghìn
năm trước Cơng ngun được tìm thấy ở Văn Điển (Hà Nội), ở thung lũng Sa Pa
(Lào Cai). Ở nhà mồ Tây Nguyên xưa nay tượng người với bộ phận sinh dục
2



phóng to thường xuyên có mặt. Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và nhiều nơi khác có tục thờ
cúng nổ (nõn) nường (nõ = cái nêm, tượng trưng cho sinh thực khí nam; nường =
nang, mo nang, tượng trưng cho sinh thực khí nữ). Ở hội làng Đơng Kị (Bắc Ninh)
có tục rước sinh thực khí (bằng gỗ), tan hội chúng được đem đốt và tro chia cho
mọi người mang rắc ra ngoài ruộng – hành động này như một ma thuật truyền sinh
cho mùa màng. Ở nhiều địa phương thuộc Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây... trước đây
vào dịp hội làng, người ta rước tới 18 bộ sinh thực khí và khi đám rước kết thúc,
mọi người tranh cướp nhau vì tin rằng chúng sẽ đem lại may mắn, no đủ cho cả
năm.
Việc thờ sinh thực khí cịn thể hiện ở việc thờ các loại cột đá (tự nhiên hoặc
được tạc ra) và các loại hốc (hốc cây, hốc đá, kẽ nứt trên đá). Ở chùa Dạm (Bắc
Ninh) có một cột đá hình sinh thực khí nam có chạm nổi hình rồng thời Lí. Ngư
phủ ở Sở điểm Hịn Đỏ (Khánh Hòa) thờ một kẽ nứt lớn trên một tảng đá mà dân
gian gọi là Lỗ Lường (âm đọc chệch đi của tên gọi sinh thực khí nữ), vị nữ thần
này được ngư dân gọi là Bà Lưỡng.

1.2. Thờ hành vi giao phối
Bên cạnh việc thờ sinh thực khí (=yếu tố) giống như nhiều dân tộc nông nghiệp
khác, cư dân trồng lúa nước với lối tư duy coi trọng quan hệ cịn có tục thờ hành vi
giao phối, tạo nên một dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo, đặc biệt phổ biến ở khu
vực Đông Nam Á.
Trên nắp thạp đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái, khoảng 500 năm
trCN), xung quanh hình mặt trời là tượng 4 đơi nam nữ đang giao phối. Ở các nhà
mồ Tây Nguyên hiện vẫn dựng tượng nam nữ giao phối hồn nhiên với bộ phận
sinh dục phóng to. Khơng chỉ hình người, mà cả hình động vật giao phổi cũng rất
3


phổ biến. Ở thân thạp Đào Thịnh khắc hình những con thuyền nối đuôi nhau, khiến
cho hai con cá sấu – rồng được gắn ở mũi và lái của chúng chạm nhau trong tư thế

giao hoan. Hình chim, thú, cóc giao phối tìm thấy khắp nơi. Nếu lưu ý rằng các
tượng trưng cho việc cầu mưa, cầu mùa thì ý nghĩa phồn thực của loại tượng các
giao phối lại càng rõ nét.
Vào dịp hội đền Hùng, ở vùng đất Tổ lưu truyền điệu múa "tùng dí": thanh
niên nam nữ múa từng đôi, cầm trong tay những vật biểu trưng cho sinh thực khi
nam và nữ. Ở Sở cảm Hòn Đỏ vừa nói, khi nhiều ngày liên tục khơng đánh được
cá, đích thân người cầm đầu Sở phải tới cầu xin, lạy 3 lạy và cầm vật tượng - trưng
cho sinh thực khí nam đâm vào Lỗ Lường 3 lần (lại số 3, số lẻ ưa thích của người
phương Nam!). Ở vùng La Sơn, La Cả (Hà Tây) có tục khi rã hội (tan đám), vị bơ
lão chủ trì đánh 3 hồi trống, 3 hồi chiêng; trong khoảng thời gian đó, đèn đuốc
được tắt hết, mọi điều cấm kị được lâm thời huỷ bỏ, thanh niên nam nữ được tự
do”. Ý nghĩa của tục này là ở chỗ sự hợp thân của nam nữ trên đất cổ được xem
như một hành động mang tính ma thuật, có tác dụng kích động thiên nhiên đất trời
(giống như việc rắc tro sinh thực khí ra ruộng).
Từ thời xa xưa, chày và cối – bộ công cụ thiết thân của người nông nghiệp
Đông Nam Á – đã là những vật tượng trưng cho sinh thực khí nam nữ, cịn việc giã
gạo tượng trưng cho hành động giao phối. Không phải ngẫu nhiên mà trong vô vàn
cách tách vỏ trấu khỏi hạt gạo, người Đông Nam Á đã chọn cách này; trên các
trống đồng khắc nhiều những hình nam nữ. Khơng thấy mối liên hệ giữa việc giã
gạo với tín ngưỡng phồn thực, sẽ khơng hiểu được tục “giã cối đón dâu": nhà trai
bày chày cối trước cổng, khi dâu về đến nơi thì người nhà trai cầm chày mà giã
không vào cối mấy tiếng - đó là nghi lễ cầu chúc cho đơi vợ chồng trẻ được đông
con nhiều cháu.

4


1.3. Vai trị của tín ngưỡng phồn thực
Vai trị của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống của người Việt cổ lớn tới mức
chiếc trống đồng – biểu tượng sử mạnh và quyền lực của người xưa - đồng thời

cũng là biểu tượng tồn diện của tín ngưỡng phồn thực: Trước hết, hình dáng trống
đồng được phát triển từ chiếc cối giã gạo. Thứ hai, cách đánh trống theo lối cầm
chày dài mà đâm lên mặt trống được khắc trên chính các trống đồng và cịn được
bảo lưu ở người Mường hiện nay là mô phỏng động tác giã gạo – động tác giao
phối. Thứ ba, trên tâm mặt trống là hình mặt trời với tia sáng biểu trưng cho sinh
thực khí nam, và giữa các tia sáng là một hình lá với khe ở giữa biểu trưng cho
sinh thực khí nữ. Thứ tư, xung quanh mặt trống thường gắn tượng các con cóc ý
thức của người Việt là “cậu ông trời", mang theo mưa, khiến cho mùa màng tốt
tươi, cũng là một dạng biểu trưng của tín ngưỡng phồn thực. Cuối cùng, tiếng
trống đồng rền vang mô phỏng âm thanh của tiếng sấm – cùng mang ý nghĩa trên.
Ngay cả những hiện tượng tưởng chừng rất xa xôi như chùa Một Cột vng
(âm) đặt trên một cột trịn (dương), cột trịn lại đặt trong cái hồ vng (âm), hồ
vng này xưa nằm trên đảo trong hồ Linh Chiều hình tròn (dương); tháp Bử
(dương) bên cạnh đài Nghiên (âm) ở cổng đền Ngọc Sơn cửa sổ tròn (dương) trên
gác Khuê Văn soi mình xuống hồ vng Thiên Quang Tỉnh (âm) trong Văn Miếu –
tất cả đều liên quan tới tín ngưỡng phồn thực. Cũng không phải ngẫu nhiên mà tại
các nơi thờ cúng ta thường thấy có cái mơ đặt bên trải và cái chuông đặt bên kia,
bên phải: cái mõ làm bằng gỗ (hành Mộc) đặt ở bên trái (phương đông) là dương,
cái chuông làm bằng đồng (hành Kim) đặt ở bên phải (phương tây) là âm. Tiếng
mõ trầm phải hịa với tiếng chng thanh - cuộc sống vĩnh hằng chỉ có được khi
âm dương hịa hợp! Tín ngưỡng phồn thực đối khi thâm nhập vào cả chốn cung
đình: Theo Việt sử thông giám cương mục, trong yến tiệc do vua Trần Thái Tông
5


đãi quần thần năm 1252, đứng chỉ huy hiệu lệnh uống rượu là một người đầu đội
mo nang, tay cầm dùi đục !

Chương 2: TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI TỰ NHIÊN
Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người.

Với người Việt sống bằng nghề lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng dài
lâu và bền chặt. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên
dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực nhận thức là lối tư duy tổng hợp, và trong lĩnh vực
tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến
hậu quả trong quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng nữ, và trong tín
ngưỡng là tình trạng các nữ thần chiếm ưu thế. Và vì cái đích mà người nơng
nghiệp hướng tới là sự phồn thực, cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái
trẻ đẹp, mà là các BÀ mẹ, các MẪU. Tục thờ Mẫu (đạo Mẫu) đã trở thành một tín
ngưỡng Việt Nam điển hình.

2.1. Thờ Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước
Trước hết là các Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước - những nữ thần cai quản các hiện
tượng tự nhiên thiết thân nhất đối với cuộc sống của người trồng lúa nước. Về sau,
do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hồng, Thổ Công, Hà Bá.
Tuy nhiên, các bà vẫn song song tồn tại: Bà Trời dưới dạng Mẫu Cửu Trùng hay
Cửu Thiên Huyền Nữ ở Huế là Thiên Mụ, Thiên Yana. Nhiều nhà, ở góc sân vẫn
có một bàn thờ gọi là bàn thờ Bà Thiên Bà Đất tồn tại dưới tên Mẹ Đất (Địa Mẫu).
Bà Nước tồn tại dưới tên Bà Thủy. Ở nhiều vùng, Bà Đất và Bà Nước còn tồn tại
dưới dạng thần khu vực như Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Sơng, Bà Chúa Lạch. Ba bà
này cịn được thờ chung như một bộ tam tài dưới dạng tín ngưỡng TAM PHỦ cai

6


quản ba vùng trời - đất - nước: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu
Thoải (âm đọc chệch đi từ chữ Thủy).
Các bà Mây-Mưa-Sấm-Chớp cai quản những hiện tượng tự nhiên hết sức quan
trọng trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đến khi Phật giáo vào
Việt Nam, nhóm nữ thần này được nhào nặn thành hệ thống TỨ PHÁP: Pháp Vân
(Thần Mây thờ ở chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (Thần Mưa) thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi

(Thần Sấm) thờ chùa Bà Tướng, Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dàn. Lòng
tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời Lí, nhiều lần triều
đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm chí rước theo
đồn quận đi đánh giặc...
Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời
gian. Thần không gian được hình dung theo Ngũ hành: Ngũ Hành Nương Nương;
rồi có Ngũ Phương chi thần coi sóc các phương trời, Ngũ Đạo chi thần trông coi
các ngả đường. Theo địa chỉ, người ta thờ thần thời gian là Thập nhị Hành khiển.
Thời gian kéo dài, bảo tồn sự sống vô tận, nên 12 nữ thần này đồng thời có trách
nhiệm coi sóc việc sinh nở – đó là Mười hai Bà Mụ.

2.2. Thờ động vật và thực vật.
Chim, rắn, cá sấu là những loài động vật phổ biến hơn cả ở vùng sông nước. Do
vậy, thuộc loại được sùng bái hàng đầu. Người Việt có câu: Nhất điểu, nhì xà, tam
ngư, tứ tượng. Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa nơng nghiệp cịn đẩy
các con vật này lên mức biểu trưng: Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên
người Việt thuộc "họ Hồng Bàng" và là "giống Rồng Tiên" (thành ngữ: con Hồng
cháu Lạc; con Rồng cháu Tiên). Hồng Bàng nghĩa là một loài chim nước lớn (chữ
hồng “ghép bởi chữ giang là "sông nước" và chữ điểu là "chim”, bàng là lớn).
7


Tiên Rồng là một - cặp đơi (chỉ có dân tư duy theo triết lí âm dương mới có vật tổ
cặp đơi), trong đó Tiên được trừu tượng hóa từ giống chim (cho nên Mẹ Âu Cơ đẻ
trứng!), còn Rồng được trừu tượng hóa từ hai lồi hị sát rắn và cá sấu có rất nhiều
ở vùng sơng nước Đơng Nam Á. Đó cũng là hai lồi vật biểu của phương Nam và
phương Đơng trong Ngũ hành.
Thực vật thì được tôn sùng nhất là cây Lúa; khắp nơi – dù là vùng người Việt
hay vùng các dân tộc – đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa... Thứ
đến là các loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, quả

Bầu...

Chương 3: TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI CON NGƯỜI
3.1. Thờ hồn vía
Trong con người có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó
nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm "linh hồn", và linh
hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Người Việt và một vài dân tộc Đơng Nam
Á cịn tách linh hồn ra thành hồn và vía. Người Việt cho rằng con người có 3 hồn,
nhưng vía thì nam có 7, cịn nữ có 9.
Chết tức là cơ thể từ trạng thái động trở thành tĩnh, cho nên theo triết lí âm
dương thì hồn đi từ cõi Dương (Dương gian, Dương thế) sang cõi Âm (Âm ti, Âm
phủ). Đó là một thế giới bên kia. Ở vùng nông nghiệp sông nước này thì "thế giới
bên kia" cũng là nơi sơng nước, ngăn cách chúng ta bằng chín suối (9 - con số lẻ
ước lệ biểu thị số nhiều); tới đó phải đi bằng thuyền: Thời Đông Sơn, người chết
8


được chôn trong những quan tài bằng thân cây đẽo theo hình thuyền. Ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ và suốt miền duyên hải Trung Bộ còn lưu giữ nghi lễ "chèo đưa linh"
– hội các bà múa điệu chèo đò và hát những câu tiễn đưa linh hồn người chết về
nơi chín suối.

3.2. Thờ cúng tổ tiên
Niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối, tin rằng tuy ở nơi chín suối,
nhưng ơng bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho cháu con là cơ
sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nó có mặt ở nhiều dân tộc Đơng Nam Á
và là nét đặc thù của vùng văn hóa này (Đinh Gia Khánh, 1993), nhưng theo quan
sát của nhà dân tộc học người Nga G.G. Stratanovich (1978) thì nó phổ biến và
phát triển hơn cả ở người Việt. Ở người Việt, nó gần như trở thành một thứ tơn
giáo (nhiều nơi gọi là Đạo Ông Bà); ngay cả những gia đình khơng tin thần thánh

cũng đặt hàn thờ tổ tiên trong nhà.

3.3. Thờ thổ Cơng
Trong gia đình, ngồi thờ tổ tiên, người Việt Nam cịn có tục thờ Thổ Cơng. Thổ
Công, một dạng của Mẹ Đất, là vị thần trông coi gia cư, định đoạt phúc họa cho
một gia đình. Sống ở đâu thì có Thổ Cơng ở đó: Đất có Thổ Cơng, sơng có Hà Bá.
Mối quan hệ giữa Thổ Công (địa thần) với ông bà tổ tiên (nhân thần) trong gia
đình rất thú vị: Thổ Cơng định đoạt phúc họa cho cả nhà nên là vị thần quan trọng
nhất, nhưng ông bà sinh thành ra ta nên được tơn kính nhất. Để khơng làm mất
lịng ai, người Việt Nam xếp cho tổ tiên ngự tại cái bàn thờ tơn kính nhất ở gian
giữa, cịn Thổ Cơng thì ở gian bên trái (theo Ngũ hành thì bên trái – phương đông
là nơi quan trọng thứ hai sau trung tâm). Tuy địa vị kém nhân thần nhưng quyền
9


lực lại lớn hơn – Thổ thần được coi là Đệ nhất gia chi chủ. Mỗi khi giỗ cha mẹ,
đều phải khấn Thổ Công trước rồi xin phép Ngài cho cha mẹ được về “phối
hưởng". Quan hệ này giữa gia tiên và thổ thần thật chẳng khác quan hệ giữa vua Lê
và chúa Trịnh chút nào!
Ở Nam Bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa với các đặc điểm: (a) bàn thờ đặt
ở dưới đất (thần đất phải trở về với đất!) và (b) nhiều nơi đồng nhất với Thần Tài
(mọi của cải đều từ đất mà ra). Nhiều tranh tượng Ơng Địa với khn mặt nữ tính
(mặc dù có thể vẽ râu), ngực lớn và cái bụng chính ình của người sắp đề (gọi là
Ơng Địa - Bà Bóng) cho thấy rõ mối liên hệ với cội nguồn Mẹ Đất và nguyên lí
phồn thực (Huỳnh Ngọc Trăng, 1994).

3.4. Thờ thần làng
Tín ngưỡng thờ thần của Việt Nam khơng chỉ đóng khung trong phạm vi gia
đình. Ngồi các vị thần tại gia, cịn có các thần linh chung của thơn xã hoặc tồn
dân tộc.

Trong phạm vi thơn xã, quan trọng nhất là việc thờ thần làng (Thành Hoàng).
Cũng như Thổ Cơng trong một nhà, Thành Hồng trong một làng là vị thần cai
quản, che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng đó. "Thành Hồng" là một từ HánViệt xuất hiện sau này để chỉ một khái niệm đã có từ lâu đời ở các làng quê Việt
Nam mà người miền núi quen gọi là ma làng. Thần làng phải có nguồn gốc lâu đời
như thế nào thì nó mới trở thành hiện tượng phổ biến đến như vậy: Không làng nào
là khơng có Thành Hồng. Cái “lệ làng" này mạnh đến mức năm 1572 (đời Lê Anh
Tơng), triều đình phải ra lệnh sưu tầm và soạn ra thần tích của Thành các làng để
vua ban sắc phong thần.

10


3.5. Thờ Vua Tổ
Trong nhà thờ gia tiên, trong làng thờ Thành Hồng, thì trong nước, người Việt
Nam thờ Vua Tổ – vua Hùng. Mảnh đất Phong Châu (Phú Thọ), nơi đóng đơ của
các vua Hùng khi xưa, trở thành đất Tổ. Ngày 10-3 là ngày giỗ Tổ (Tục thờ Vua
Tổ chỉ có ở Việt Nam – điều này càng cho thấy tính đặc thù của tục thờ cúng tổ
tiên ở người Việt Nam).
Người Việt Nam cịn có một tín ngưỡng đặc biệt là tục thờ Tứ bối tử (bốn người
không chết): Tản Viên, Thánh Giống, Chử Đồng Tử và Liên Hạnh.
Tản Viên (với truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh) và Thánh Gióng (với truyền
thuyết Thánh Gióng) là biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết của một cộng đồng cư
dân nơng nghiệp để một mặt ứng phó với mơi trường tự nhiên là chống lụt và mặt
khác ứng phó với môi trường xã hội là chống giặc ngoại xâm. Sự phối hợp thần
thánh ấy đã dựng nên ĐẤT NƯỚC.
Có đất nước rồi, được sống yên ổn rồi, con người Việt Nam khơng mơ ước gì
hơn là xây dựng một cuộc sống phồn vinh về vật chất và hạnh phúc về tinh thần.
Chử Đồng Tử – người nông dân nghèo với hai bàn tay trắng, đã cùng vợ gây dựng
nên cơ nghiệp với phố xã sầm uất, mang vàng ra biển bn bán với khách thương
nước ngồi – chính là biểu tượng cho ước mơ thứ nhất. Liễu Hạnh - người con gái

quê ở xã Vân Cát (huyện Vụ Bản, Nam Định) tường truyền là công chúa con Trời,
ba lần (con số 3!) từ bỏ cuộc sống đầy đủ trên Thiền Đàng, xin vua cha cho xuống
trần gian để sống cuộc đời của một người phụ nữ bình dị với khát vọng về tự do,
hạnh phúc – chính là biểu tượng cho ước vong thứ hai. Hai ước vọng thiêng liêng
ấy để tạo nên CON NGƯỜI.

11


Như vậy, tục thờ Tứ bất tử là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta.
Đó là tinh hoa được chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử hiểu tượng cho sức mạnh
liên kết của cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một
cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc.

12


KẾT LUẬN

Qua nội dung trên, thì tín ngưỡng phồn thực cho thấy phản ánh cận nét của
triết lí âm dương từ đối tượng thờ cúng, đều có sự kết hợp của hai yếu tố khác loài
“Đất - Trời”, “Cha - Mẹ”
Tín ngưỡng dân gian ra đời, tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; là một hoạt động sinh hoạt văn hóa
tinh thần, tín ngưỡng dân gian khơng thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa tinh thần
của người dân lao động. Tín ngưỡng dân gian cũng như tơn giáo là nhu cầu tinh
thần của tuyệt đại đa số các thành phần cư dân ở nước ta. Đánh giá đúng vai trị
của tín ngưỡng dân gian để có cái nhìn tồn diện về đời sống văn hố tinh thần
của người dân Việt Nam hiện nay, để thấy được những giá trị của nó trong đời
sống xã hội của con người, đồng thời để từ đó bổ sung, điều chỉnh chủ trương,

chính sách, pháp luật về tín ngưỡng nói chung, tín ngưỡng dân gian nói riêng, phát
huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong sinh hoạt tín ngưỡng, tăng cường
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm
2. Nguồn Internet.

13



×