Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ năm QUY ĐỊNH CHUNG về THỪA kế bộ môn những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.97 KB, 49 trang )

Khoa Luật Quốc tế
Lớp Luật Thương mại quốc tế 45A2

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM

QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ
Bộ môn
Giảng viên
Nhóm
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 4 năm 2021

download by :


BLDS
HĐTP

download by :


MỤC LỤC



download by :


VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ
TÓM TẮT QUYẾT ĐỊNH:
A.
Bản án số 08/2020/DSST:
- Tên bản án:
Bản án số: 08/2020/DSST
Ngày 28 tháng 8 năm 2020
“V/v tranh chấp thừa kế tài sản”
-

Nguyên đơn: Ơng Trần Văn Hịa
Bị đơn: Anh
Trần Hồi Nam Chị
Trần Thanh Hương

Nội dung: Bà Cao Thị Mai và ông Trần Văn Hịa kết hơn với nhau năm
1980. Q trình hơn nhân, hai ơng bà có hai con chung là anh Nam và chị
Hương. Ngồi ra, khơng có con đẻ con ni nào khác. Tài sản của ơng Hịa,
bà Mai gồm: 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và một lán bán hàng
xây dựng năm 2006, trên diện tích đất 169,5m2 (trong đó, diện tích được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ơng Hịa là 84m2, cịn lại
85,5m2 cịn lại ơng Hịa sử dụng ổn định và khơng có tranh chấp), địa chỉ thửa
đất tại số nhà 257 đường Nguyễn Viết Xuân, phường Đống Đa, thành phố
Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo biên bản thẩm định tài sản và định giá tài sản
ngày 21/02/2020, tổng tài sản có trị giá là 6.127.665.000đ. Tài sản các đương
sự có tranh chấp: tiền cho thuê nhà và lán bán hàng từ tháng 3/2018 đến thời

điểm xét xử do ông Hòa đang quản lý; tiền cho thuê lán bán hàng của năm
2017, 2018 do chị Hương quản lý. Đối với đề nghị của anh Nam và chị
Hương, yêu cầu xác định diện tích đất 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình, đề nghị này khơng được Hội
đồng xét xử chấp nhận. Đối với diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất Hội đồng xét xử xem xét các vấn đề để quyết
định. Từ các lập luận, tổng giá trị tài sản chung của ông Hịa và bà Mai là
6.151.614.500đ. Tài sản được hình thành trong thời kỳ hơn nhân và được hình
thành từ tài sản của hôn nhân nên được chia đôi cho ông Hịa và bà Mai mỗi
người ½ giá trị. Ngày 31/07/2017, bà Mai chết và không để lại di chúc nên di
sản của bà Mai được phân chia theo pháp luật. Hiện ơng Hịa đã lấy vợ mới,
và đăng ký hộ khẩu tạm trú tại huyện Phú Ninh, tỉnh Phú Thọ, nhà đất tranh
chấp chủ yếu là cho thuê. Vì các lẽ trên, Tịa án quyết định chia cho ơng Hịa
số tài sản tổng trị giá 2.220.664.000đ; diện tích đất 38,4 m2 ơng Hịa có nghĩa
vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã
thực hiện nghĩa vụ thuế; chia cho anh Nam số tài sản tổng trị giá
4.207.001.000đ; diện tích đất 47,1 m2 anh Nam có nghĩa vụ liên hệ cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ
thuế; ơng Hịa quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng


download by :


đất; chia cho chị Hương quyền sở hữu số tiền thuê 30.000.000đ; buộc anh
Nam thanh toán chênh lệch về tài sản cho ơng Hịa số tiền 1.880.412.000đ.
B. Án lệ số 16/2017/AL:
- Tên quyết định
án dân sự tranh chấp thừa kế tài sản
- Quyết định số

- Ngày
- Nguyên đơn
- Bị đơn
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phùng Thị H3
Nội dung: Bố mẹ nguyên đơn là ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G
có tài sản chung là 01 ngơi nhà cấp 4 cùng cơng trình phụ trên diện tích đất
398m2 ở tại khu L, phường M, thành phố N, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 07-7-1984
ông Phùng Văn N chết (trước khi chết không để lại di chúc), bà Phùng Thị G
và anh Phùng Văn T quản lý và sử dụng nhà đất trên. Năm 1991, bà Phùng
Thị G chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K diện tích 131m2; phần diện tích
đất cịn lại của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng
vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng
Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều
biết, nhưng khơng ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời
khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông
Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định di sản là tổng diện tích
đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ơng Phùng Văn K) để chia. Tịa
án cấp phúc thẩm xét xử lại, khơng đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán
cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia. Tiếp đó, bà Phùng Thị G muốn
cho con gái là chị Phùng Thị H1 một phần diện tích đất của bà để làm nhà ở
nhưng anh Phùng Văn T vẫn giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi
đã được Tòa án yêu cầu trả. Chính vì vậy, bà Phùng Thị G khơng tách đất cho
chị Phùng Thị H1 được. Tháng 03/2010 bà Phùng Thị G đã lập di chúc với
nội dung: “Để lại cho chị Phùng Thị H1 diện tích đất 90m2 và
tồn bộ cây cối lâm lộc trên diện tích đất”. Ngày 19-12-2010 bà Phùng Thị G
chết. Tuy nhiên, diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G nhưng được
xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G.
Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích

267m2 đất chung của vợ chồng bà. Ngồi ra, đối với 1/2 diện tích đất trong
tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng là phần di sản của ông Phùng

download by :


Văn N để lại nay đã hết thời hiệu chia thừa kế, anh Phùng Văn T là một trong
các thừa kế không đồng ý chia nên không đủ điều kiện để chia tài sản chung
nên phần diện tích đất này ai đang quản lý, sử dụng thì được tiếp tục quản lý,
sử dụng.
BÀI TẬP:
1.1 Di sản là gì và có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố hay không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Theo điều 612 BLDS 2015, di sản bao gồm "tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung của người
khác".
Theo khoản 1 điều 615 BLDS 2015 thì “Những người hưởng thừa kế
có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết
để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác".
1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một
tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản khơng? Vì sao?
Khi tài sản do người q cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới phải được xem xét ngun nhân,
mục đích thay thế thì mới được coi là di sản. Cụ thể:
+
Nguyên nhân thay thế là nguyên nhân khách quan như: bão, lũ,
hỏa
hoạn hoặc các thảm họa tự nhiên. Ví dụ: Ơng A chết để lại di sản thừa
kế là ngôi nhà, nhưng do hỏa hoạn làm cho ngơi nhà thiêu cháy rụi
hồn tồn và khơng cịn giá trị sử dụng. Trước thời điểm mở thừa kế

ngôi nhà khác được xây dựng thay thế ngơi nhà này. Khi đó ngơi nhà
mới này sẽ được coi là di sản thừa kế mà ông A để lại.
+
Nguyên nhân thay thế là nguyên nhân chủ quan: Nếu vì lý do
chủ quan mà di sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán mà khơng có
sự đồng ý của các đồng thừa kế thì giá trị phần di sản vẫn được coi là
di sản thừa kế và người làm thất thốt di sản có trách nhiệm trả lại
phần
giá trị làm thất thoát để chia thừa kế. 1 Hướng giải quyết này chưa được
quy định trong văn bản nhưng rất thuyết phục và được áp dụng cả đối
với trường hợp di sản được thay thế bằng một khoản tiền như tiền đền
bù. Thực tế còn cho thấy, khi di sản bị bán cho người khác,
1 Bùi Thanh Hương (2020), "Tài sản được thay thế mới có được coi là di sản không?",
truy cập ngày 25/4/2021.


download by :


Tịa án nhân dân tối cao cũng có định hướng tiền từ việc bán (chuyển
nhượng) là di sản và trong trường hợp Tòa án đã giao di sản cho một
người khơng được hưởng (và bản án đã có hiệu lực pháp luật), người
được giao sở hữu tài sản phải thanh toán giá trị tài sản và giá trị này
cũng được chia như di sản. Tương tự như vậy khi Tòa án giao di sản
cho một người thừa kế và người thừa kế chuyển nhượng di sản cho
người khác nhưng sau đó quyết định giao di sản bị hủy thì di sản được
chuyển thành tiền và người nhận tiền phải chia cho những người thừa
kế tiền đã nhận.2
1.3 Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người
quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu

cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 612 Bộ Luật Dân sự 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác.” Như vậy, để được xem là di sản thì trước hết đó phải là tài sản của
người chết lúc họ còn sống.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”
Như vậy, người sử dụng đất đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
được nhà nước cơng nhận quyền sử dụng đất về mặt pháp lý.
Theo Điều 168 Luật Đất đai 2013: “Người sử dụng đất được thực hiện
các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn
quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận.” Như vậy, về nguyên tắc chỉ khi
có Giấy chứng nhận người sử dụng đất mới có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất, trong đó bao gồm quyền để lại di sản thừa kế. Hay nói
cách khác, để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất
của người quá cố cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
1.4 Trong bản án số 08, Tịa án có coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có
câu trả lời trên?
2 Đỗ Văn Đại (2014), "Một số bất cập về thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2005",
truy cập ngày 25/4/2021.

download by :


Trong bản án số 08, Tịa án coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khơng phải là di sản.

Đoạn trích của bản án cho thấy câu trả lời trên là: “Đối với diện tích
đất tăng
85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: tại phiên tòa đại
diện Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản
thừa kế, cần tiếp tục tạm giao cho ơng Hịa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
tài chính với Nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất...Đây vẫn là tài sản ơng Hịa và bà Mai, chỉ có điều là các đương sự phải
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa
kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
đương sự. Phần đề nghị này của đại diện viện kiểm sát không được hội đồng
xét xử chấp nhận. Các đề nghị khác đại diện Viện kiểm sát tại phiên tồ là có
căn cứ, được Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.’’
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số
08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý.
Vì theo Điều 621 BLDS 2015, “di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
Sau khi bà Mai mất thì phần đất này mới được tiếp tục giao cho ơng Hịa
thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và được cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu cho ơng Hồ. Vậy nên đây là tài sản riêng của ơng Hịa chứ
khơng phải tài sản chung giữa ông Hòa và bà Mai, dẫn đến việc phần đất này
không phải di sản của bà Mai.
1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398 m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là 133,5m2.
Vì trong tổng diện tích 398m2 đất thì đã chuyển nhượng 131m2 đất
cho ơng Phùng Văn K. Còn lại 267m 2 đất là tài sản chung của vợ chồng ông
N và bà G nên được chia ½ (133,5m2) cho mỗi người.

1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn
K có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K không được coi là di sản vì phần đất tổng 398 m 2 là tài sản chung của 2
vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G, nhưng bà G đã chuyển
nhượng


download by :


quyền sử dụng đất lại cho ông Phùng Văn K với diện tích là 131m 2. Việc
chuyển nhượng này các con của bà G đều biết nhưng không phản đối và cơ
quan nhà nước cũng đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà G với
diện tích là 267,4 m2 và cho ơng K với diện tích đất là 131m 2. Như vậy, phần
đất đã chuyển nhượng là 131 m2 là tài sản của ông K và khi bà G chết thì phần
đất này khơng trở thành di sản của bà vì phần đất đã chuyển nhượng đó không
phải là tài sản riêng hay tài sản chung với người khác của bà G, căn cứ theo
Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
Đoạn văn trong Án lệ thể hiện câu trả lời là: “Năm 1991, bà Phùng Thị
G chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K diện tích 131m 2 trong tổng diện tích
398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m 2.
Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản
lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông
Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến
phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất
để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ
quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để

xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển
nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ơng Phùng Văn K. Tịa án cấp phúc
thẩm khơng đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K
vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tịa án cấp sơ thẩm xác định di sản là
tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K)
để chia là không đúng.”
1.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K.
Hướng giải quyết của Án lệ trên là hợp lý khi quyết định không đưa 131m 2 đất đã
bán cho ông K vào phần di sản để chia thừa kế. Vì tồ án đã nhận định rằng việc bà
Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K là để lo cho cuộc sống của bà
và các con, đồng thời các con bà của bà đều biết nhưng không ai phản đối gì. Ơng K
cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, có
cơ sở để xác nhận các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà chuyển nhượng phần diện
tích đất nêu trên cho ơng K. Vậy nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà G và ơng K là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng khơng cịn trong
khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển là ơng K.
Lúc này, ơng K có quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131m2 đất căn

download by :


cứ theo Điều 223 về việc xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng như sau: “Người được
giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng
chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản
đó.”
1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
khơng? Vì sao?
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên khơng để lo cuộc sống của các con

mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó khơng được
coi là di sản để chia.
Bởi vì:
+ Xét tài sản chung của vợ chồng bà G và ông N là 398m 2 đất, sau khi ông N
mất, khơng để lại di chúc thì tài sản chung này sẽ được chia đôi là 196m 2 đất
theo quy định tại Điều 66 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014. Bà G, các con
chung của 2 vợ chồng đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 nên đều được chia thừa kế như nhau.
+ Nếu bà G tự ý bán 131m2 đất cho ơng K, khơng có sự đồng ý của các con và
dùng tiền đó cho cá nhân mình chứ khơng vì lợi ích của các con thì xem như
bà đã bán một phần đất của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng.
Việc mua bán này sẽ không ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng
thừa kế khác được hưởng.
1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất trên là bao nhiêu ? Vì sao?
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong
diện tích đất trên là 1/2 diện tích 398 m2 đất (133,5 m2 đất) vì theo nhận định
của Toà, tài sản tuy mang tên của bà Phùng Thị G nhưng vì được hình thành
trong thời kỳ hôn nhân nên phải xác định đây là tài sản chung của ông Phùng
Văn N và bà Phùng Thị G (Khoản 1 điều 33 Luật hơn nhân gia đình 2014) .
Vì vậy, bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trong tổng
diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà và khi bà G chết, phần di sản của
bà Phùng Thị G chính là 1/2 diện tích đất trên (133,5m2) (Điều 612 BLDS
2015).
1.11 Việc Tịa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43.5m2
có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng? Vì
sao?

download by :



Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
2
43,5m là không thuyết phục vì di sản lúc này của ơng N (đã trừ đi phần đất
bán cho ông K) là 267m2 :2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế
thứ nhất (căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) là bà G và 6
người con, nên phần mà bà G nhận được là: 133,5:7 = ~19,07m2. Vậy trên
thực tế, phần di sản mà bà G để lại (trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là:
133,5m2 + 19,07m2 - 90m2 = 62,57m2.
Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung
xoay quanh việc cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là
di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.
1.12. Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần cịn lại” có
thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng? Vì sao?
Việc Tịa án quyết định “cịn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần cịn
lại” là khơng thuyết phục.
Vì phần đất 43,5m2 còn lại là phần di sản được chia theo pháp luật,
đáng ra phải được chia đều cho 06 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức
bao gồm cả chị Phùng Thị H1. Việc chị Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G
chia di sản theo di chúc không hề ảnh hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi
vậy Tòa án quyết định chỉ chia cho 05 người con cịn lại là khơng đảm bảo
quyền lợi cho chị Phùng Thị H1.
Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL.
Vì nội dung của Án lệ số 16 nằm ở đoạn 2 phần Nhận định của Tòa án,
là về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản
thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác
biết và khơng phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng
đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.3 Tức là về việc bà Phùng Thị
G đã chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho ông Phùng Văn K.


3 truy cập ngày 25/4/2021.

download by :


VẤN ĐỀ 2: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN
TĨM TẮT QUYẾT ĐỊNH:
A. Tình huống: Bà Loan vay của Ngân hàng 100 triệu đồng. Một thời
gian sau bà Loan chết và các con bà Loan đã chia thừa kế di sản của bà
Loan;
B. Quyết định số 26/2013/DS-GĐT:
Tên quyết định
Quyết định số 26/2013/DS-GĐT của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao.
Ngày 22/4/2013
Về việc tranh chấp di sản thừa kế
Nguyên đơn: Ông
Nguyễn Hồng Vũ Bà Nguyễn
Thị Kim Oanh Bà Nguyễn
Thị Kim Dung
Bị đơn: Ông Nguyễn Hồng Vân
Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn
Thị Kim Thu
Ơng Nguyễn Hồng Vi
Bà Trần Thị Tám
Nội dung: Cụ Nguyễn Văn Phúc và cụ Phạm Thị Thịnh có 6 người con
là các
ông bà: Nguyễn Hồng Vũ, Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Hồng Vân,

Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Thị Kim Thu, Nguyễn Hồng Vi (định cư tại
Đức). Cụ Phúc chết năm 1999 khơng để lại di chúc nhưng có nguyện ý bán
nhà, đất tại 708 đường Ngô Gia Tự và chia cho con trai mỗi người
100.000.000đ, con gái mỗi người 30.000.000đ. Sau khi cụ mất, vì một số lý do
mà bà Oanh, bà Thu, bà Dung đã nhận 30.000.000đ từ ông Vân và viết giấy
xác nhận khơng địi hỏi gì về nhà đất trên. Cụ Thịnh chết năm 2007, để lại di
chúc đề ngày 08/5/2006 để lại phần tài sản của cụ là ½ căn nhà với diện tích
71m2 và một phần đất cụ được hưởng của cụ Phúc cho ông Vân. Bản di chúc
này do cụ Thịnh tự viết và ký tên trong trạng thái minh mẫn và được toà án
các cấp xác định là hợp pháp. Qua quá trình xét xử, tồ án cấp sơ thẩm bác
u cầu địi chia thừa kế của bà Oanh và bà Dung, không chấp nhận yêu đòi
đòi chia bằng hiện vật (nhà và đất ở) của ông Vũ, giao cho vợ chồng ông Vân
quyền sử dụng nhà, đất nhưng phải trả kỷ phần thừa kế cho ông Nguyễn Hồng
Vi là 150.000.000đ, trả cho ông Nguyễn Hồng Vũ 110.000.000đ. Toà án cấp
sơ thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm ở chỗ chấp nhận yêu cầu đòi chia thừa
kế của bà Oanh, bà Dung. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nhận
định Tòa án các cấp chưa thẩm định và đo đạc hiện trạng đất tranh chấp mà
phân chia di sản là khơng chính xác. Đồng thời, Tịa án cấp phúc thẩm xác
định ơng Vân có cơng chăm sóc cha mẹ và cơng quản lý di sản, ơng Vi có
cơng lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (gửi tiền cho cha mẹ


download by :


để không phải bán nhà), nhưng không xác định rõ cơng sức chăm sóc cha mẹ
và quản lý di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số
tiền còn lại mới chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp tình, hợp lý. Vì các lẽ
trên, căn cứ khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự, toà án
quyết định huỷ bản án dân sự phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án lại cho Toà án nhân

dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại. Khi đó tồ án cấp sơ thẩm cần xác định
chính xác diện tích đất tranh chấp và tiến hành định giá đất theo giá thị
trường.
BÀI TẬP:
2.1 Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời
Theo BLDS 2015, khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định về việc nghĩa vụ được thực hiện chỉ dành cho cá nhân hoặc pháp nhân là
bên có quyền mà cá nhân chết hoặc pháp nhân chấm dứt tồn tại thì nghĩa vụ
đương nhiên chấm dứt. (Điều 382 BLDS 2015)
Theo BLDS 2015, những nghĩa vụ sẽ không đương nhiên chấm dứt:
+
Tiền cấp dưỡng còn thiếu
+
Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ
+
Tiền công lao động
+
Tiền bồi thường thiệt hại
+
Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước
+
Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân
+
Tiền phạt
+
Các chi phí khác.4
+
Tham gia thủ tục phá sản (Điều 18 Luật phá sản 2014)

2.2 Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá
cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
-

Theo BLDS:
+
Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài
sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
+
Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận
của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
+
Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt
quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4 Điều 658 BLDS 2015.

download by :


-

+
Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản
theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại như người thừa kế là cá nhân.
Cơ sở pháp lý: Điều 165 BLDS 2015.


2.3 Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản khơng? Vì
sao?
Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng không là nghĩa vụ tài sản.
Vì theo Khoản 8 Điều 372 BLDS 2015 quy định trường hợp chấm dứt
nghĩa vụ “Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc pháp chấm dứt tồn tại mà
nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện”. Do đó, khi bà Loan
chết thì nghĩa vụ tài sản của bà Loan với Ngân hàng cũng chấm dứt.
2.4. Nếu Ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện nghĩa
vụ trả nợ trên của bà Loan? Vì sao?
Trong trường hợp Ngân hàng u cầu được thanh tốn thì các con bà
Loan sẽ là những người phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán vì căn cứ theo
khoản 1 Điều 615 BLDS 2015: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác” và vì di sản thừa kế đã được chia nên mỗi
người con của bà Loan đều phải trả khoản nợ tương ứng với số tiền đã được
chia, căn cứ theo khoản 3 Điều 615 BLDS 2015: “Trường hợp di sản đã được
chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường
hợp có thỏa
thuận khác.”

Bởi lẽ, nghĩa vụ trả nợ của bà Loan nằm trong nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết là bà Loan để lại, nên các con của bà đã chia và
nhận số di sản thừa kế trên phải thanh toán cho Ngân hàng bằng số tiền tương
ứng và không vượt quá số tiền nhận được.
2.5 Trong Quyết định số 26, ai là người có cơng chăm sóc, ni dưỡng người q
cố khi họ cịn sống?
Trong Quyết định số 26, ơng Vân là người có cơng chăm sóc.
Ơng Vi là người ni dưỡng người q cố khi họ còn sống.

Thể hiện ở phần Xét thấy: “Đồng thời Tịa án cấp phúc thẩm xác định
ơng Vân có cơng chăm sóc cha mẹ và cơng quản lý di sản, ơng Vi có cơng lớn
trong việc ni dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gửi tiền cho cha mẹ để không
phải bán nhà), nhưng không xác định rõ cơng sức chăm sóc cha mẹ và quản lý
di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại
mới chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp tình, hợp lý.”


download by :


2.6. Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, cơng sức chăm sóc, ni
dưỡng cha mẹ của ơng Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
Trong Quyết định số 26/2013/DS-GĐT, Tịa giám đốc thẩm cho rằng
“ơng Vân có cơng chăm sóc cha mẹ và cơng quản lý di sản, ơng Vi có cơng
lớn trong việc ni dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gửi tiền cho cha mẹ để
không phải bán nhà)” và phải “...xác định rõ công sức chăm sóc và quản lý di
sản mà ơng Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại
mới chia cho các đồng thừa kế…”
2.7 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối
quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người q cố).
Về phía tịa án đốc thẩm, theo lời khai của các đơn sự, diện tích nhà cụ
Phúc, cụ Thịnh để lại là do vợ chồng ông Văn làm là chưa thống nhất. Tuy
nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm lại xác định hai ngôi nhà tầng 1 là tài
sản của cụ Phúc, cụ Thịnh để lại mặc dù chưa xác định rõ ràng. Điều này có
thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích của vợ chồng ơng Văn và các bên
liên quan. Vì vậy, Tịa án đốc thẩm đã yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xác định
lại về tài sản đang được phân chia để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các
bên đương sự một cách công bằng và hợp lý, tránh được trường hợp không
xác định được giá trị tài sản, gây khó khăn trong q trình phân chia.

Bên cạnh đó, Tịa án cấp phúc thẩm cho rằng tuy đã xác định ơng Vân
có cơng chăm sóc và quản lý tài sản, ơng Vi có cơng trong việc ni dưỡng
nhưng Tịa lại khơng xác định rõ công sức của hai ông được hưởng được bao
nhiêu để đổi trừ rồi mới chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp lý. Vì khi phân
chia tài sản sẽ chia theo pháp luật nếu khơng có di chúc và chia theo di chúc
nếu người để lại di sản để lại di chúc. Hơn nữa, trong việc phân chia tài sản sẽ
khơng dựa trên cơng sức chăm sóc nhiều hơn hay hơn ít hơn để làm căn cứ
phân chia.
Căn cứ pháp lý: Điều 683 BLDS 2015 quy định:
“Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán
theo thứ tự sau đây:
1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.
2. Tiền cấp dưỡng cịn thiếu.
3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.
4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.
5. Tiền công lao động.

download by :


6. Tiền bồi thường thiệt hại.
7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.
9. Tiền phạt.
10.

Các chi phí khác.

=> Vì vậy, chỉ cần xem xét cơng sức của ơng Vân trong việc chăm sóc và quản lý tài
sản chứ không xem xét phân chia dựa trên công sức nuôi dưỡng của ông Vi.


download by :


VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ
TÓM TẮT QUYẾT ĐỊNH:
Án lệ số 26/2018/AL:
BÀI TẬP:
3.1 Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế Việt Nam.
Điều 623 BLDS 2015 quy định 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế như sau:
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản
thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp khơng có người thừa kế
đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236
của Bộ luật này.
(Điều 236 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn 10 năm đối với động
sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm
bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định
khác.”)
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu khơng có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác
bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3.2. Pháp luật nước ngồi có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không?
Đối với pháp luật Campuchia - Quốc gia có áp đặt thời hiệu đối với

yêu cầu chia di sản, cụ thể ở khoản 1 Điều 1248 BLDS Campuchia: “Người
thừa kế phải có sự chấp nhận đơn giản hoặc chấp nhận có giới hạn hoặc từ
bỏ quyền thừa kế trong vòng 3 tháng kể từ ngày biết được việc thừa kế của
mình đã phát sinh. Tuy nhiên thời gian này có thể kéo dài thêm theo yêu cầu
của người thừa kế.”
Đối với pháp luật Pháp - Quốc gia khơng có sự áp đặt thời hiệu đối
với yêu cầu chia di sản, cụ thể ở Điều 815 BLDS Pháp: “Khơng ai có thể bị
buộc


download by :


phải chấp nhận trong tình trạng di sản chưa chia và bất cứ lúc nào cũng có
thể yêu cầu chia di sản trừ trường hợp việc này được tạm hoãn theo bản án
hoặc theo pháp luật.”
3.3 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Thời điểm mở thừa kế với di sản của cụ T là năm 1972.
Đoạn tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời “Như vậy kể
từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tịa án áp dụng quy
định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với
trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4
Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015,
trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng
thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật.”
3.4 Việc Án lệ số 26/2018/AL, áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL, áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS cho
di sản của cụ T có quy định tại khoản 1 điều 623 BLDS 2015.

Việc áp dụng thời hiệu trên trong Án lệ 26/2018/AL là hợp lí vì thời
điểm khởi kiện là 02/11/2010 thì phải áp dụng điều 165 BLDS 2005 để giải
quyết, nếu vậy thì đã vượt qua thời hiệu khởi kiện cho di sản của cụ T. Tuy
nhiên, để đảm bảo quyền lợi của các đương sự, Tòa quyết định áp dụng hiệu
lực hồi tố vào án lệ để giải quyết việc tranh chấp về di sản của cụ T.
3.5 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được cơng bố có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015
cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế
năm 1990 được cơng bố chưa có cơ sở văn bản.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu để người thừa
kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động
sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”. BLDS lấy thời hiệu 30 năm bắt đầu kể từ
thời điểm mở thừa kế và không hề đề cập đến thừa kế mở trước khi ban hành
Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 thì có áp dụng thời điểm bắt đầu là kể từ
thời điểm mở thừa kế hay kể từ ngày công bố Pháp lệnh trên.
Tuy việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của
BLDS 2015 cho di sản cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh
thừa kế năm


download by :


×