Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Buổi thảo luận thứ năm: Quy định chung về thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.33 KB, 14 trang )

Buổi thảo luận thứ năm: Quy định chung về thừa kế
Bài tập 1
*Di sản thừa kế
Tóm tắt Quyết định số 30/2013:
Cố Thái Anh và Cố Liêng có 5 người con, 2 người chết lúc nhỏ, 3 người còn lại là cụ Hy,
cụ Thái Tri và cụ Lượng bị bệnh tâm thần. Cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng có 2 căn
nhà là nhà số 5 Hoàng Hoa Thám 19m 2 và nhà số 13 Đường Thiệu Trị (nay là 122
Nguyễn Hùng Sơn) 270,5m2. Hai cố chết không để lại di chúc. Nhà số 5 Hoàng Hoa
Thám cố Thái Anh và cố Liêng đã cho cụ Thái Tri sử dụng riêng và cụ Thái Tri đã hoàn
thành thủ tục đứng tên sở hữu. Nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn cụ Hy ở và có công nuôi
dưỡng cha mẹ, vợ chồng cố Thái Cẩm An (anh ruột cố Thái Anh) và cụ Lượng bị tâm
thần đến khi những người này chết. Nay các con cụ Thái Tri kiện các con cháu cụ Hy đòi
chia thừa kế di sản.
Tại bản án sơ thẩm ngày 01/11/2002, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bác yêu cầu chia
thừa kế nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn. Bên nguyên đơn kháng cáo. Bản án phúc thẩm
ngày 21/5/2003, Tòa án nhân dân tối cao tại TP.HCM hủy án sơ thẩm, giao cho Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử lại. Tại bản án sơ thẩm ngày 21/9/2009, Tòa án nhân
dân tỉnh Kiên Giang nhận định nhà số 5 Hoàng Hoa Thám là tài sản của cụ Thái Tri,
nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng, trích công bảo
quản di sản cho các bị đơn, giao cho các bị đơn sử dụng nhà đất, các bị đơn thanh toán
kỷ phần cho các đồng thừa kế khác. Các bị đơn kháng cáo cho rằng nhà số 122 không là
di sản, các nguyên đơn kháng cáo yêu cầu được chia hiện vật. Bản án phúc thẩm ngày
02/02/2010, Tòa án nhân dân tối cao TP.HCM xác định cố Thái Anh và cố Liêng đã chia
cho cụ Thái Tri nhà số 5, cụ Hy nhà số 122, nhà số 122 không còn là di sản , quyết định
bác yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn. Các nguyên đơn khiếu nại yêu cầu xác
định nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn là di sản thừa kế. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao kháng nghị với nhận định nhà số 5 là của cụ Thái Tri, nhà số 122 là di sản thừa kế,
Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc
thẩm. Hội đồng thẩm phán xác định hai cố cho cụ Thái Tri nhà số 5, cụ Hy nhà số 122,
bác yêu cầu chia thừa kế, quyết định không chấp nhân kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, giữ nguyện bản án phúc thẩm ngày 02/02/2010.



1


Câu 1: Di sản thừa kế là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nếu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 612 BLDS 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Như vậy thì di sản không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố.
Câu 2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một
tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới
sau đó thì tài sản mới đó không là di sản.
Vì theo điều 612 BLDS 2015 qui định:
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, tài sản của người chết trong phần tài sản
chung của người khác”.
Tại thời điểm mở thừa kế thì người để lại di sản đã chết rồi, nên việc thay đổi thay đổi tài
sản mới tại thời điểm đó có thể không được sự đồng ý hoặc trái với ý chí của người để lại
di sản nên phần tài sản được thay đó không được coi là di sản.
Câu 3: Trong Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 2 tài sản tranh chấp có là di sản
của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Trong Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 02 tài sản tranh chấp không là di sản của cố
Thái Anh và cố Liêng. Vì tại Quyết định số 100/QĐ-KNGĐT ngày 16/8/2011 được trích
trong Quyết định 30, Viện kiểm sát nhận định: " Sinh thời cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị
Liêng có tài sản là căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám diện tích 19m2, căn nhà số 13 Đường
Thiệu Trị (nay là 122 Nguyễn Hùng Sơn) toạ lạc trên diện tích đất 270,5m2, cố Thái Anh
chết năm 1975, cố Liêng chết năm 1977 không để lại di chúc".
Đến thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng chết thì nhà đất chưa chuyển dịch sang tên cho
ai. Như vậy căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là tài sản chung của cố Thái Anh và cố
Liêng nên sau khi hai cố mất căn nhà là di sản của hai cố thoả mãn Điều 634 BLDS 2005.

Đối với căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám thì Viện kiểm sát cho rằng khi cố Thái Anh và cố
Liêng còn sống thì đã chọn cụ Thái Tri đứng tên là chủ sở hữu từ năm 1967 do vậy căn
nhà số 5 Hoàng Hoa Thám không là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng.

2


Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Viện kiểm sát.
-

Hướng xác định của VKS đối với căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám là hợp lý và có
căn cứ pháp luật. Vì căn nhà này do hai cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Riêng đã
cho cụ Thái Tri sử dụng riêng và cụ đã hoàn thành thủ tục đứng tên sở hữu từ
09/5/1967. Do đó nhận định của VKS rằng căn nhà này không phải là di sản của
cố Anh và cố Liêng là hợp lý.

-

Tuy nhiên hướng xác định của VKS đối với căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là
không hợp lý. Tuy rằng chúng ta phải ghi nhận về mặt pháp luật thì nhà số 122
Nguyễn Hùng Sơn là di sản của hai cố, nhưng cũng không thể phủ nhận mặt thực
tế của vấn đề: cụ Hy là con trai trưởng, ở cùng và có công chăm sóc hai cố, chăm
sóc bác ruột và em ruột là cụ Lượng bị bệnh tâm thần và còn có trách nhiệm thờ
cúng tổ tiên sau này. Đồng thời, khi cụ Thái Thuần Hy phá nhà cũ của hai cố, xây
dựng nhà mới thì cụ Thái Tri còn sống nhưng không phản đối, giữa hai đồng thừa
kế là cụ Hy và cụ Tri không hề tranh chấp về phần tài sản này chứng tỏ cụ Tri thừa
nhận nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là của hai cố để lại cho cụ Thái Thuần Hy. Căn
cứ những lẽ trên, ta có thể xác định mặc dù hai cố chết không để lại di chúc nhưng
di sản của hai cố vẫn có thể được chia theo thỏa thuận giữa các đồng thừa kế theo
quy định tại Mục A2, Điểm A, Khoản 2.4, Điều 2 của Nghị quyết

02/2004/NQHĐTP của HĐTP TANDTC: “Trường hợp không có di chúc mà các
đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài
sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ”.

Câu 5: Trong Quyết định số 30 theo Hội đồng thẩm phán, 2 tài sản tranh chấp có là di
sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Theo Hội đồng thẩm phán, hai tài sản tranh chấp không là di sản của cố Thái Anh và cố
Liêng.
Nhà số 5 Hoàng Hoa Thám cố Thái Anh và cố Liêng đã cho cụ Thái Tri nên không là di
sản. Nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn hai cố dành cho cụ Hy vì cụ Hy là con trai trưởng ở
cùng và có công chăm sóc hai cố, chăm sóc bác ruột và em ruột là cụ Lượng bị tâm thần
và còn có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên sau này. Thực tế khi cụ Thái Thuần Hy phá nhà cũ
cụ Thái Tri khi đó còn sống nhưng không phản đối chứng tỏ cụ Thái Tri tôn trọng định
đoạt của cha mẹ. Do đó nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn không còn là di sản.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Hội đồng thẩm phán.
3


Hướng xác định trên là hợp lý.
Nhà số 5 Hoàng Hoa Thám đã được hai cố cho cụ Thái Tri nên xác định không còn là di
sản là hợp lý.
Nhà số 122 Hoàng Hoa Thám chưa có bằng chứng chứng minh là hai cố cho cụ Hy
nhưng cụ Hy đã được địa phương công nhận là chủ sở hữu nhà. Hơn nữa cụ Hy là người
ở cùng nhà 122 và có công chăm sóc cố Thái Anh, cố Liêng, chăm sóc hai bác ruột và cụ
Lượng, cho nên việc xác định của Hội đồng thẩm phán tuy chưa thật sự thuyết phục về
mặt lý lẽ nhưng hợp tình và đảm bảo được quyền lợi cho các bên.
Câu 7: Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất phần di sản của Phùng Văn
N là bao nhiêu? Vì sao?
Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2, phần di sản của ông Phùng Văn N là
133.5m2 (loại bỏ 131m2 đất từ 398m2 đất đã bán cho ông Phùng Văn K). Vì theo nhận

định của Tòa án “mảnh đất đó được hình thành trong thời gian hôn nhân nên phải được
xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G”
Câu 8: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
có được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Phần diện tích đất đã được chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K không được xem là di
sản. Vì “ Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích đất
131m2 trong tổng số diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích còn lại của thửa đất
là 267m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
diện tích 267m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng
nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con của
bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của Bà Phùng
Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông
Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vì vậy phần diện tích đất đã được chuyển nhượng này đã không còn là di sản.”
Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên có liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Hướng giải quyết của Án lệ liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông
Phùng Văn K là vừa có tình vừa có lí.
Thứ nhất, hướng giải quyết này có tình ở chỗ: phần đất này là của cả hai vợ chồng, sau
khi ông N chết, bà G bán mục đích là để lo cho cuộc sống của bà và các con, hơn thế, các
4


con bà đều biết nhưng không ai có ý kiến phản đối gì thì sau khi bà G chết, phần tài sản
này xem như không còn nên không được đưa vào danh mục di sản của bà G và ông N.
Thứ hai, hương giải quyết này là có lí ở chỗ:
Một là, việc sở hữu của ông K đối với phần diện tích 131 m 2 là hợp pháp vì lúc bán, các
con bà G đều biết nhưng không ai phản đối gì. Nay ông K cũng đã được cơ quan Nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bởi vậy, có cơ sở để xác định các con bà G
đã đồng ý cho bà chuyển nhượng phần đất này cho ông K.

Hai là, phần đất chuyển nhượng cho ông K là tài sản chung của hai vợ chồng, khi ông N
chết (không để lại di chúc) thì ½ phần diện tích 131 m 2 đất của ông N được thừa kế lại
cho bà G cùng các con. Điều này phù hợp với điểm a, khoản 1, Điều 651, BLDS 2015
hay điểm a, khoản 1, Điều 676, BLDS 2005: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.” Sau khi ông chết, bà
bán phần đất này (bao gồm ½ phần diện tích 131 m 2 đất của bà và ½ còn lại là thuộc thừa
kế của các con ông N) để lo cho cuộc sống của bà và các con và không ai phản đối gì thì
điều này có nghĩa là, các con của ông bà cũng đã được hưởng thừa kế một phần di sản
của ông để lại.
Bởi những lẽ trên, Tòa án không đưa phần đất 131 m 2 đã chuyển nhượng vào di sản thừa
kế là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 10: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con mà
dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
không? Vì sao?
Nếu bà G bán đất trên nhưng không để lo cuộc sống của các con mà dùng tiền đó cho cá
nhân bà thì ½ số tiền đó được xem là di sản để chia.
Vì đất đem bán là tài sản chung của vợ chồng nên bà G chỉ có thể định đoạt ½, ½ còn lại
là tài sản của ông N, đó là tài sản của ông N để lại sau khi chết nên số tiền đó được coi
như di sản ông N để lại.
Câu 11: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất trên là
133,5m2 (1/2 tài sản)
Vì Phần diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G nhưng được hình thành trong thời
gian hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và
5


bà Phùng Thị G chưa chia. Bà Phùng Thị G chỉ được quyền định đoạt ½ diện tích đất
trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà, tức là 133,5m2.

Câu 12: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2
có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản bà Phùng Thị G là 43.5m 2 có thuyết phục vì
theo nhận định của Tòa án “Bà Phùng Thi G chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích đất trong
tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà” còn 90m 2 được chia theo di chúc của bà
cho con gái tên Phùng Thị H1.
Đây không phải là nội dung của Án lệ 16/2017 vì Án lệ này nói về việc di sản thừa kế là
bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác
biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được
dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này, Tòa án phải công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không còn
trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng.
Câu 13: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại”
có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Tòa quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là hợp lý. Di sản của
bà G là ½ khối tài sản, bà có viết di chúc để lại cho chị H1 90m 2 như vậy chị H1 sẽ được
nhận 90m2 theo như di chúc, phần còn lại chia theo quy định pháp luật. 5 người con còn
lại của bà G thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651, phần
di sản còn lại sẽ được chia đều.
Phần này không là nội dung của án lệ vì đã có quy định trong luật.

6


Bài tập 2
*Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản
Câu 1: Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

Nghĩa vụ mang tính nhân thân của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt. Căn cứ vào
khoản 8 Điều 372 BLDS 2015 về Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ: “Bên có nghĩa vụ là cá
nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp
nhân đó thực hiện.”
Nghĩa vụ về tài sản của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt, “trường hợp người
chết có nghĩa vụ tài sản chưa được thực hiện xong, hoặc sau khi người đó chết nghĩa vụ
tài sản mới phát sinh thì người chủ nợ có quyền yêu cầu người thừa kế của người đó
thanh toán các khoản nợ”.1 Căn cứ vào Điều 615 BLDS 2015 về Thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại:
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế trong phạm vi
di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Câu 2: Theo BLDS ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo khoản 2 Điều 615 BLDS năm 2015: “Trong trường hợp di sản chưa được chia thì
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa

1 Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, Trường Đại học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.386

7



thuận của những người thừa kế”. Với quy định này, thực chất người phải thực hiện nghĩa
vụ vẫn là những người thừa kế và người quản lý chỉ đứng ra thực hiện thay.
Khi di sản đã được chia, khoản 3 Điều 615 BLDS 2015 quy định: “Trong trường hợp di
sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận…”.
Đối với tài sản không có người nhận di sản, BLDS chỉ quy định: “Trong trường hợp
không có thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di
sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản về tài
sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước”(Điều 622 BLDS 2015). Ở đây,
chúng ta không rõ ai thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết nhưng tài sản chỉ thuộc
Nhà nước khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
Câu 3: Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản không? Vì
sao?
Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng có là nghĩa vụ tài sản. Vì nghĩa vụ của bà đối
với Ngân hàng không là nghĩa vụ đối với nhân thân - là những nghĩa vụ do chính bản
thân thực hiện. Do vậy, nghĩa vụ đó là nghĩa vụ về tài sản.
Câu 4: Nếu Ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ
trả nợ trên của bà Loan? Vì sao?
Những người thừa kế có nghĩa vụ trả nợ của bà Loan trong phạm vi di sản.
Căn cứ vào Điều 615 BLDS 2015 về Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế trong phạm vi
di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.


8


Câu 5: Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá
cố khi họ còn sống?
Trong Quyết định số 26, xác định ông Vân là người có công chăm sóc cha mẹ và ông Vi
là người có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gửi tiền cho cha mẹ
để không phải bán nhà).
Câu 6: Trong Quyết định trên theo Tòa giám đốc thẩm công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
Theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi
được xử lý theo hướng: Cần xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà
ông Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các
đồng thừa kế.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối
quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá cố).
Hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm là thỏa đáng. Vì trên đất tranh chấp có 2 ngôi
nhà 2 tằng và 1 nhà trần làm công trình phụ, các đương sự khai không thống nhất nhà nào
của ai, Tòa các cấp chưa xác minh làm rõ nhưng xác định là của cụ Phúc, cụ Thịnh là
chưa đủ cơ sở. Bên cạnh đó công chăm sóc cha mẹ của ông Vân, ông Vi cũng chưa được
xác định rõ là bao nhiêu để đổi trừ. Do đó Tòa giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, yêu
cầu xét xử sơ thẩm lại là đúng.

9


Bài tập 3
*Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế
Câu 1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế.

Căn cứ vào điều 623 BLDS 2015 quy định có 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế, bao
gồm: thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu
xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác, thời hiệu
yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.
Câu 2: Trong bản án số 258, cụ Tuyền chết năm nào? Đến khi phúc thẩm đã được bao
nhiêu năm?
Trong bản án số 258, cụ Tuyền mất năm 1945, đến khi phúc thẩm đã được 72 năm (thời
điểm phúc thẩm là 14/9/2017)
Câu 3: Theo cấp phúc thẩm vì sao việc chia di sản của cụ Tuyền nay vẫn còn thời
hiệu?
Khi giải quyết vị án theo trình tự phúc thẩm thì Bộ luật tố tụng dân sự và BLDS 2015 có
hiệu lực và theo quy định khoản 2 Điều 184 BLTTDS 2015 thì các đương sự có yêu cầu
xác định thời hiệu từ giai đoạn sơ thẩm và theo khoản 2 Điều 1 Nghị quyết
103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội thì giai đoạn phúc thẩm được áp dụng
BLTTDS 2015 để giải quyết và theo khoản 1 DD623 BLDS 2015 quy định “Thời hiệu để
người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản…”, tại điểm d khoản 1
DD688 BLDS 2015 quy định “ Thời hiệu được áp dụng theo quy định của bộ luật
này.”…. Cố Tuyền chết năm 1945, căn cứ vào khoản 1 Đ3 và khoản 4 Đ36 pháp lệnh
thừa kế được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30/8/1990 thì thời điểm mở thừa kế đối
với di sản của cố Tuyền được tính từ ngày 30/8/1990. Đối chiếu với các quy định của
pháp luật nêu trên thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản của cố Tuyền vẫn còn.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của cấp phúc thẩm liên quan
đến thời hiệu chia di sản của cụ Tuyền (nêu cơ sở pháp lý khi trả lời)
Tòa phúc thẩm xác định thời hiệu vẫn còn là phù hợp.
Theo khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội thì giai
đoạn phúc thẩm được áp dụng BLTTDS 2015 để giải quyết và theo khoản 1 DD623
BLDS 2015 quy định “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với
bất động sản…”, tại điểm d khoản 1 DD688 BLDS 2015 quy định “ Thời hiệu được áp
10



dụng theo quy định của bộ luật này.”…. Cố Tuyền chết năm 1945, căn cứ vào khoản 1 Đ3
và khoản 4 Đ36 pháp lệnh thừa kế được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30/8/1990 thì
thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cố Tuyền được tính từ ngày 30/8/1990. Đối chiếu
với các quy định của pháp luật nêu trên thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản
của cố Tuyền vẫn còn.
Câu 5: Trong bản án số 127, cụ Khuyên chết năm nào? Đến khi phúc thẩm đã được
bao nhiêu năm?
Trong bản án số 127, cụ Khuyên mất năm 1983. Đến khi phúc thẩm là năm 2017 đã được
34 năm.
Câu 6: Theo cấp phúc thẩm, vì sao việc chia di sản của cụ Khuyên nay vẫn còn thời
hiệu?
Theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 quy định
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm
đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế…
Mà thời điểm mở thừa kế là trước ngày 10/9/1990 cho đến thời điểm diễn ra cấp phúc
thẩm chưa được 30 năm nên vẫn còn thời hiệu
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của cấp phúc thẩm liên quan
đến thời hiệu chia di sản của cụ Khuyên (nêu cơ sở pháp lý khi trả lời).
Lúc vụ án được đưa ra xem xét ở cấp phúc thẩm là vào thời điểm Bộ luật dân sự 2015 đã
có hiệu lực nên hướng giải quyết của cấp phúc thẩm về thời hiệu chia di sản của cụ
Khuyên được áp dụng theo Bộ luật 2015 là hợp lí. Điều này được quy định tại khoản 1
Điều 688: “Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì
việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:
a)…d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”.
Và Điều 623, BLDS 2015 nêu: “Thời hiệu để người thừa kế yêu câu chia di sản là 30
năm đối với bất động sản…”
Vì vậy, khi áp dụng BLDS 2015 thì thời hiệu yêu cầu chia thừa kế vẫn còn, điều này đã
đảm bảo được quyền lợi của nguyên đơn về việc yêu cầu chia thừa kế.


11


Bài tập 4
*Tìm kiếm tài liệu
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết có liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật về
thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2015 đến nay.
ST
T

Họ và tên tác giả

Tên bài viết

Tên
Tạp chí

Số và năm Số trang
của
của
Tạp chí
bài viết

1

Pháp luật Việt Nam hiện
Đoàn Thị Phương hành về chế độ tài sản của
Luật học
Diệp
vợ chồng theo thỏa thuận và

các kiến nghị hoàn thiện

2

Nguyễn Ngọc Điện

Đăng kí bất động sản và bảo
đảm an toàn giao dịch bất
động sản – Bài học cho Việt Luật học
Nam từ kinh nghiệm các
nước

3

Một số góp ý về người thừa
kế theo quy định của Bộ luật
Nguyễn Hồ Bích
Từ trang
Dân sự - bàn về tư cách Khoa học Số
/(5Hằng, Ngô Thị Anh
45 đến
hưởng thừa kế của người pháp lý
9)/2015
Vân
trang 50
được thành thai và sinh ra
sau thời điểm mở thừa kế

Số 2/ 2017


Từ trang
3 đến

Từ trang
Từ số 139 đến
4/2016
trang 47

Nguyễn Văn Hợi

Năng lực chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tài
Luật học
sản gây ra trong Bộ luật dân
sự năm 2015

Từ trang
Từ số 132 đến
4/2016
trang 41

5

Trần Thị Huệ

Góp ý một số quy định của
Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa Luật học
đổi) về chế định thừa kế

Từ trang

Số
/(7137 đến
12)/2015
trang 148

6

Nguyễn
Linh

4

Thị

Mỹ

Tài sản hình thành trong Nhà nước Số
tương lai theo quy định của và
pháp (348)/
Bộ luật Dân sự năm 2015
luật
2017

4 Từ trang
27
đến
trang 32
12



ST
T

7

8

9

10

11

12

13

14

Họ và tên tác giả

Tên bài viết

Tên
Tạp chí

Số và năm Số trang
của
của
Tạp chí

bài viết

Hòang Thị Loan

Góp ý dự thảo Bộ luật dân sự
(sửa đổi) về phần thừa kế Luật học
theo di chúc

Từ trang
Số
/(7149 đến
12)/2015
trang 156

Nguyễn Thị Long

Chế định tài sản theo quy
định của Dự thảo Bộ luật Luật học
dân sự (sửa đổi)

Từ trang
Số
/(773 đến
12)/2015
trang 81

Nguyễn Thị Nhung

Nhà nước Số
Bàn về thời điểm chuyển


pháp (348)/
quyền sở hữu nhà ở..
luật
2017

4 Từ trang
33 đến
trang 49
Từ trang
34 đến
trang 40
(xem tiếp
trang 77)

Nguyễn Minh Oanh

Xác lập vật quyền – Từ lí
luận đến quy định của pháp Luật học
luật

Nguyễn Thanh Phúc

Thời hiệu thừa kế theo quy Dân chủ Số 2 (311) Từ trang
định của Bộ luật Dân sự năm và
pháp tháng 2 - 10 đến
2015
luật
2018
trang 15


Dương Anh Sơn

Bảo lưu quyền sở hữu và Nhà nước Số
hiệu lực đối kháng với người và
pháp (358)/
thứ ba
luật
2018

Ngô Thị Anh Vân

Nghĩa vụ cung cấp thông tin
trong quá trình xác lập thỏa Khoa học
thuận về chế độ tài sản của pháp lý
vợ chồng

Châu Thị Vân

Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Số
Khoa học
đối với tài sản không xác
(113)/
pháp lý
định được chủ sở hữu
2018

Số 5/2017


2 Từ trang
19 đến
trang 25

Từ số 5
Từ trang
(99) – 9
52 đến
(103)/
trang 61
2016
01 Từ trang
33 đến
trang 38

13


ST
T

15

16

17

Họ và tên tác giả

Tên bài viết


Tên
Tạp chí

Số và năm Số trang
của
của
Tạp chí
bài viết

Vũ Thị Hồng Yến

Mối quan hệ giữa tài sản, vật
và quyền tài sản trong pháp
luật dân sự Việt Nam hiện Luật học
hành và hướng sửa đổi Bộ
luật dân sự năm 2005

Từ trang
Số
/(762 đến
12)/2015
trang 72

Vũ Thị Hồng Yến

Áp dụng nguyên tắc vật
quyền nhằm khắc phục
những hạn chế của chế định Luật học
tài sản và quyền sở hữu trong

Bộ luật dân sự

Từ trang
Số
/(782 đến
12)/2015
trang 91

Vũ Thị Hồng Yến

Một số vấn đề lý luận định Nhà nước
Từ trang
Số 12
hướng hoàn thiện pháp luật và
pháp
27
đến
(356)/2017
Việt Nam về đăng ký tài sản
luật
trang 34

Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
Những bài viết trên được tìm kiếm ở các tạp chí tại trung tâm thư viện trường Đại học
Luật Tp Hồ Chí Minh.

14




×