Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật đó vào trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.59 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN: TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN

TÊN CHỦ ĐỀ: “Phân tích nội dung quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật đó vào trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”

Họ và tên sinh viên

: Nguyễn Trung Hiếu

Mã số sinh viên

: 030437210089

Lớp, hệ đào tạo

: (MLM306_211_D19)

CHẤM ĐIỂM
Bằng số

Bằng chữ

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


2



3

MỤC LỤC
1. Những vấn đề lý luận………………………………………………………..4
1.1. Sự thống nhất và đối lập giữa các mặt đối lập………………………….. 4

1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.2. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập.
1.1.3. Ví dụ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
1.1.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu
tranhcủa các mặt đối lập.
1.2. Nội dung về vấn đề bàn luận……………………………………………7

1.2.1. Lý do chọn đề tài.
1.2.2. Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
2. Thực trạng chủ đề nghiên cứu……………………………………………..8
2.1. Những thành tựu………………………………………………................9
2.2. Những mâu thuẫn còn tồn đọng trong nền kinh tế nước ta trên đường phát

triển Xã hội chủ nghĩa và giải pháp…………………………………….10
2.2.1.Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong giai đoạn đi lên CNXH ở
nước ta…………………………………………………………………..12
2.2.2. Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh tế thị
trường…………………………………………………………………...13
2.2.3. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người
xã hội chủ nghĩa………………………………………………………...14
3. Kết luận……………………………………………………………………..15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


4

1. Những vấn đề lý luận
1.1 . Sự thống nhất và đối lập giữa các mặt đối lập
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
Nói về sự thống nhất và đối lập giữa các mặt đối lập, một số khái niệm cần
được nắm rõ:
Thứ nhất: Mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ
biến trong tất cả các sự vật.
Thứ hai: Mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau.Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu
thuẫn trong hiện thực và nguồn gốc phát triển của nhận thức.Chúng ta cần phân biệt
mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn logic hình thức. Mâu thuẫn logic hình thức
chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong tư duy.
Thứ ba: Sự thống nhất của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách
rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề.Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ
cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó là sự “đồng
nhất” của các mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển
khai của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn khi diễn ra

sự cân bằng của các mặt đối lập.
Cuối cùng: Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức
phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối
lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh.
1.1.2. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập:


5

Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống nhất
của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy
định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược
nhau, đấu tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn.
Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ nhưng xung
khắc, đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng
ngược chiều nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các
mặt đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Như chúng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội
chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và
quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như đặc trưng
riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung
nhưng nhanh chóng bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về
kinh tế và xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn gặp phái rất nhiều mâu thuẫn
tồn tại.

Thứ ba: Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế
giới đều luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng dó là tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến với nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập có tính khách quan vì cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến
do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ
biến nên nó có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi
lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật, hiện tượng không chỉ có một mức
độ nào đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đặt đến một mức độ nào
đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu
thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng vận
động và phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:


6

Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường vận
động theo cơ chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền
kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì
có thể giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một q trình khó khăn,
phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trị quản
lý của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề
kinh tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong đang ở giai đoạn mới hình thành nên cịn đang
thiếu hụt, chưa hồn chỉnh, dẫn tới môi trường sản xuất, kinh doanh thiếu ổn định,
an tồn. Tính chất khơng rõ ràng, thiếu xác định trên cả phương diện kinh tế – xã

hội dường như đang rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế
nước ta. Do đó, q trình chuyển hóa này vấp phải khá nhiều mâu thuẫn nội tại.
1.1.3. Ví dụ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo
tiền đề cho nhau cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo
những chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật
chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Cịn tiêu dùng
là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra
đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như khơng có q trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ
khơng thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây
khơng phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản
thân sản xuất làm mơi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó cịn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra
nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản
phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của
hai mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ
với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
1.1.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập.


7

Có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật đó là thừa

nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ
bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi
tiết, cụ thể.
Nắm vững phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó là thông qua đấu tranh giữa
các mặt đối lập chứ khơng được phép dung hịa các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận
dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.
Biết vận dụng linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thơng qua hình
thức chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa
vào mặt cịn lại, hoặc mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa
sang những hình thức mới của mình.

1.2.

Nội dung về vấn đề bàn luận
1.2.1. Lý do chọn đề tài

Cung với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70 , cuối những năm 80 của thế kỷ
XX , khi mà những khủng hoảng kinh tế trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
đã phát triển đến đỉnh điểm, Việt Nam cũng khơng nằm ngồi tình trạng này .
Trước tình hình này , Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế đất
nước từ cơ chế tập trung quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mà mốc
đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986).Kinh tế thị trường là một nền
kinh tế phát triển nhất cho tới nay với rất nhiều mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường , nước ta khơng tránh khỏi những khó
khăn . Theo quan đIển triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật , hiện
tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của các mặt đối lập . Điều
này cũng đúng trong nền kinh tế thị truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lịng nó
đang chứa đựng các mâu thuẫn. Trong giai đoạn chuyển tiếp này, trước hết đó là
mâu thuẫn của sự xuất hiện cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ

trong nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển
với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị, pháp lý, quan điểm, tư tưởng. Mâu
thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản)
với định hướng xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường...Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới
quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tưụ bước đầu mang tính
quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,


8

bên cạnh những thành công, nền kinh tế đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn, bởi bên cạnh
những ưu điểm, kinh tế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực mang tính
nội tại kìm hãm sự phát triển của cơng cuộc đổi mới. Việc nhận thức rõ vấn đề này
và giải quyết chúng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền
kinh tế Việt Nam hiện nay. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. iải
quyết được những mâu thuẫn ấy chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế một
cách vững chắc và ổn định theo đúng những định hướng đã đặt ra. Vì vậy, trong
phạm vi của một bài tiểu luận, em chọn đề tài:” Phân tích nội dung quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật đó vào trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
1.2.2. Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn
liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy: biện chứng và siêu hình. chính
cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát
triển và hoàn thiền dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
2 triết học khi nói đến phát triển thì ln chú ý đến nguồn gốc và động lực của

phát triển và khuynh hướng của sự phát triển. sự đòi hỏi của các yếu tố khách quan
trong sự phát triển của sự vật hiện tượng đó là mâu thuẫn tất yếu biện chứng. phép
biện chứng nói rằng: sự vật nào cũng có mặt trái ngược, cũng chứa động mâu thuẫn
bên trong của nó, bản thân sự vật, cả trong tự nhiên và trong xã hội. trong các mặt
đối lập bao giờ cũng có sự đấu tranh gạt bỏ lẫn nhau. phép biện chứng đã tìm thấy
sự thấp nhất giữa các mặt đối lập. các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau mà
lẫn vào nhau, thâm nhập trong nhau, mặt này chứa đựng mầm mống của mặt kia,
chúng tác đọng qua lại lẫn nhau làm điều kiện cho nhau tồn tại và phát triển. sự
phát triển từ cái này thành cái khác cần một thời kỳ gọi là thời kỳ quá
độ. trong nền kinh tế sự phân công lao động toạ ra mối quan hệ hữu cơ giữa
người và người tạo ra sự phát triển xã hội. lênin nói “do phân cơng lao động, ai lo
cho người ấy, mọi người vì một người, một người vì mọi người, và phải tìm thấy
mình.
2.Thực trạng chủ đề nghiên cứu.
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế
tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường (KTTT). Một trong những
luận điểm rất quan trọng phản ánh tư duy mới của đảng ta thể hiện trong văn kiện
Đại hội Đảng lần VI là: Chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Đảng ta từng
bước khẳng định chủ trương xây dựng ở nước ta một nền KTTT theo định hướng
xã hội chủ nghĩa (XHCN).Trãi qua thực tiễn đổi mới, chính sách cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo theo cơ chế thị trưịng có sự quản lí của nhà nước
theo định hướng XHCN đã đưa lại hiệu quả to lớn v thành cơng của sự nghiệp


9

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Tuy nhiên, nền KTTT định hướng XHCN là một nền
kinh tế quá độ với điểm xuất phát và bản chất của chế độ cũ nên nó khơng tránh
khỏi những mâu thuẫn q độ của nó.
Khái quát chung về kinh tế thị trường (KTTT): Trong mơ hình cũ của CNXH,

sự vận hành của nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh lệnh, kế hoạch của Nhà nước
và một hệ thống bao cấp từ sản xuất đến tiêu dùng. Cơ chế kinh tế này, tuy có ưu
điểm là tránh được phân cực xã hội, nhưng lại bộc lộ nhiều nhược diểm cơ
bản.Chẳng những quy luật kinh tế khách quan được coi thường, mà tính tự chủ,
năng động, sáng tạo của người lao động cũng không được phát huy một cách đầy
đủ.Sự nghiệp đổi mới được tiến hành hơn 10 năm qua ở nước ta gắn liền với việc
phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trương, nền kinh tế mà
chúng ta đang xây dựng là nền KTTT định hướng XHCN
KTTT được sử dụng như một công cụ, một phương tiện để phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động nhằm
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. KTTT là nguồn lực
tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp
kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển trong cả những điều kiện vốn, ngân sách
Nhà nước cịn hạn hẹp. KTTT ln vận động, phát triển tái sinh, do đó để nâng cao
hiệu lực quản lý của nhà nước, các chính sách kinh tế vĩ mơ phải thường xuyên
được bổ xung hoàn thiện. KTTT gắn liền với nhà nước pháp quyền và nhà nước sẽ
quản lý bằng pháp luật.
2.1. Những thành tựu.
1. Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu
chủ yếu của kế hoạch 5 năm.
Đến cuối năm 1995, tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư trực tiếp của nước
ngoài đạt trên 19 tỉ USD, gần 1/3 đã được thực hiện. Lạm phát từ mức 67,1% năm
1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995.Hoạt động khoa học và cơng nghệ gắn bó
hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị
trường.Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của
lực lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục
được xây dựng.
2. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và mơi trường hịa

bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.
Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến
lược quốc phịng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời


10

sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của
quân đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân
dân được củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội được
tăng cường.
3. Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham
gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Khơi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt với Trung Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với
Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong
khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ hữu
nghị truyền thống với nhiều nước, từng bước đổi mới quan hệ với Liên bang Nga,
các nước trong Cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng
quan hệ với các nước cơng nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với Mỹ;
thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình dương, Trung
Đơng, châu Phi và Mỹ latinh; mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các
tổ chức quốc tế và khu vực.
Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản
và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ
trên thế giới; thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng
hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ
với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới.

Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ bn
bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư
trực tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ
không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ
vững hịa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước
ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung của nhân
dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.2. Những mâu thuẫn còn tồn đọng trong nền kinh tế nước ta trên
đường phát triển Xã hội chủ nghĩa và giải pháp.
2.2.1 Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong giai đoạn đi lên CNXH ở
nước ta và giải pháp.


11

Trong quá trình lịch sử tự nhiên các mối quan hệ giữa con người Một trong
những quy luật quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là quy luật mâu
thuẫn .Theo quy luật này thì trong kết cấu của mọi sự vật hiện tượng không phải
bao giờ cũng bao gồm các nhân tố đồng nhất,thống nhất với nhau mà mọi sự vật
hiện tượng đều được cấu tạo nên bởi một thể thống nhất bao gồm nhiều mặt khác
nhau, trong đó có những mặt đối lập.Các mặt đối lập tác đọng với nhau sẽ xuất hiện
những mâu thuẫn.Mâu thuẫn xuất hiện khi các mặt đối lập đó tác động ,liên hệ và
chi phối lẫn nhau.Đấu tranh nhằm giải quyết những mâu thuẫn giữa chúng làm cho
sự vật mới ra đời,thay thế sự vật cũ đã cho thấy sư vận động không ngừng của sư
vật,PTSX cũng tuân theo quy ới tự nhiên,giưa con người voi con người cũng luôn
luôn biến đổi thống nhất với nhau.LLSX biểu thị mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên trong quá trình sản xuất,là mặt tự nhiên của sản xuất xã hội.QHSX là mối
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,nó là mặt xã hội của

sản xuất.LLSX gồm những công cụ laođộng mà con người dùng để tạo ra của cải
vật chất nhờ kinh nghiệm và thói quen lao động đã được tích luỹ lại trong q trình
sản xuất. QHSX được hiẻu là những quan hệ vật chất,quan hệ kinh tế của đời sống
xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Mối quan hệ giữa LLSX và QHSXđã được
C.Mác viết:" Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra
cái gì ,mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào".
Khi QHSX phù hợp với tính chất trình độ LLSX nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy,
tạo điều kiện cho LLSX phát triển và ngược lại khi QHSX lạc hậu hơn hay ở mức
độ cao hơn so với tính chất trình độ LLSX thì nó sẽ trở thành xiềng xích kìm hãm
sự phát triển của LLSX, mâu thuẫn nảy sinh và việc giải quyết mâu thuẫn tạo ra
động lực phát triển của PTSX, theo đúng với nội dung của quy luật mâu thuẫn. Và
cứ như vậy lịch sử của sản xuất đã vận động và phát triển trong quá trình lệch pha
đến cân bằng rồi lại lệch pha mới... Chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới có đủ khả
năng để vạch ra động lực của sự phát triển, mới có thể thực tiễn cho ta nhận thức
được quy luật của sư vân động kinh tế.
Sau 30/4/1975 nước ta hồn tồn giải phóng, chúng ta đã đạt được những
thành tựu trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh .Tuy nhien nền kinh tế nước ta
vẫn là nền kinh tế nơng nghiệp kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc .Trang
bị kỹ thuật và kết cấu xã hội yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, cơ cấu kinh tế tập
chung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề . Nền kinh té kém hiệu quả,
năng suất lao động thấp, khủng hoảng kinh tế kéo dài, các tệ nạn tham nhũng... lan
rộng, Đảng cộng sản còn non, đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực...các thế lực đế
quốc và phản động ráo riết thực hiện chiến lược diễn biến hồ bình, phá hoại và
bao vây kinh tế...Nếp sống văn hoá , đạo đức bị xói mịn, lịng tin vào Đảng và Nhà
nước bị giảm sút.Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả
của nhiều năm chiến tranh, song chủ yếu là chúng ta đã vi phạm sai lầm chủ quan
duy ý chí, vi phạm các quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong


12


tiến hành cơng nghiệp hố và trong cơ chế quản lý kinh tế đặc biệt là sự phù hợp
giữa LLSX và QHSX. Chúng ta đã sai lầm khi tiến hành xây dựng QHSX tiên tiến
rồi mới thúc đẩy lựa chọn LLSX phát triển, biến đổi. Sự biến đổi đó bao giờ cũng
bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của LLSX. LLSX biến đổi dẫn đến mâu
thuẫn gay gắt với QHSX hiện có và xuất hiện một địi hỏi khách quan là xoá bỏ
QHSX cũ, thay bằng kiểu QHSX mới thích ứng với một trình độ phát triển mới của
LLSX. C.Mác viết :"Tới một giai đoạn phát triển nào đó các LLSX vật chất xã hội
sẽ mâu thuẫn với QHSX hiện có ... mà trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn
phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của các LLSX, những QHSX ấy trở thành
xiềng xích của các LLSX . Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã
hội". Kết quả là dã tạo ra cho chúng ta một nhận thức bản chất của phép biện chứng
giữa LLSX và QHSX trong phạm vi hình thái kinh tế xã hội mới sẽ khơng chứa
đựng sự tác động qua lại lẫn nhau, khơng cịn tồn tại mâu thuẫn biện chứng giữa
chúng mà sự lựa chọn dần dần LLSX cho phù hợp với khoảng không gian rộng lớn
của QHSX.
Giải pháp:
Trước tình hình trên đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra việc tiến hành
công cuộc đổi mới kinh tế là đúng đắn:"phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng
bước đổi mới chính trị làm chủ con người , làm chủ đất nước, từng bước phát triển
nền kinh tế nhưng cũng phải chú ý bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
2.2.2 Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh tế
thị trường và giải pháp.
Trước đây , người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã
hội là: sở hữu chủ nghĩa xã hội tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu tồn dân và sở
hữu tập thể . Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi hoàn cảnh
lịch sử khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa .
Sau khi giành được chính quyền giai cấp cơng nhân đứng trước hai hình thức sở
hữu tư nhân khác nhau: sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của

những người sản xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp cơng nhân phải có thái độ giải
quyết khác nhau. Đối vơí hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách
tước đoạt hoặc chuộc lại để đưa thẳng lên sở hữu tồn dân , cịn đối với hình thức
sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ thì khơng thể dùng những biện pháp
như trên , mà pỉai kiên trì giáo dục , thuyết phục tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện
chuyển lên sở hữu tập thể bằng việc hợp tác hoá hai hình thức . Sở hữu đó là đặc
thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công và nông dân tập thể.


13

Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ chuyển sang kinh tế
thị trường ở Việt Nam. Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới , của chính
sách đa dạng hố các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân
thực hiện . Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên
phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu , chứ không phải chỉ bao gồm hai hình thức
sở hữu là sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây . Trong giai
đoạn hiện nay , nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm nhiều hình thức sở hữu
như: sở hữu tồn dân , sở hữu tập thể , sở hữu nhà nước , sở hữu cá thể và sở hữu
hỗn hợp . Trong các hình thức sở hữu này , khái quát lại chỉ có hai hình thức sở hữu
đó là : cơng hữu và tư hữu , cịn các hình thức sở hữu khác chỉ là hình thức trung
gian, quá độ hoặc hỗn hợp
Giải pháp:
Để thốt khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện
naycần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với
các tập thể sản xuất kinh doanh .Chỉ có như vậy , sở hữư tập thể mới có thể trở
thành hình thức sở hữu có hiệu quả. Chúng ta biết , hợp tác xã khơng phải là hình
thức riêng có đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội , nhưng nó là một hình thức sỏ hữu

kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Vì vậy , chúng ta phải
duy trì và phát triển hơn nữa khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin đã
khẳng định :”chế dộ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ
nghĩa “. Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình , của nền sản
xuất hàng hoá . Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát
triển đến một trình độ nhất định , nó sẽ thúc đẩy q trình hợp tác. Thực tế cho thấy
, ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu
tồn tại và phá triển của cơ chế thị trường “hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng
góp cổ phần và sự tham gia trực tiếp của xã viên , phân phối theo kết quả lao động
và cổ phần đóng góp, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với cơng việc
chung”(Đảng cộng sản Việt Nam –Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc làn thứ
VIII-nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội –1996) . ĐIều này cho thấy kết cấu
bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta
hiện nay
2.2.3 Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng :muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
phải có con người xã hội chủ nghĩa . Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng , bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo ,


14

của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá . Con người phát triển cao về trí tuệ ,
cường tráng về thể chất , phong phú về tinh thần , trong sáng về đạo đức là động
lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới , là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Chúng ta phải lấy con người làm điểm xuất phát . Kinh tế thị trường là một
loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ giữa con người với con người đều
thông qua thị trường , tức là thông qua việc mua bán , trao đổi hàng hoá tiền tệ trên
thị trường . Trong kinh tế hàng hoá , quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển , mở rộng

bao quát trên mọi lĩnh vực , có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người
tiêu dùng . Do nảy sinh và phát triển trong một đIều kiện lịch sử nhất định , kinh tế
thị trường phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển là nhân tố phát triển sức
sản xuất , tăng trưởng kinh tế , thúc đảy xã hội phát triển . Tuy nhiên , kinh tế thị
trường cũng có những khuyết đIểm của nó như cạnh tranh lạnh lùng , tính tự phát
mù quáng dẫn đến sự phá sản , thất nghiệp , khủng hoảng chu kỳ. Xuất phát từ sự
phân tích trên đây , chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay , không thể xây
dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường . Do hậu quả của
nhiều năm chiến tranh , của nền kinh tế kém phát triển , của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp nền kinh tế nước ta đã tụt hậu rất xa so với khu vực và thế giới .
Giải pháp:
Trong tình hình đó thì kinh tế thị trường là nhân tố rất quan trọng đưa nền
kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảngvà phát triển phục hồi sản xuất , đẩy mạnh
tốc độ phát triển, bắt kịp bước bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó đời sống nhân
dân ngày càng được cải thiện và nâng cao , những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ
bản hàng ngày được đáp ứng đầy đủ và nhanh chóng. Con người khơng thể có cơ
thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn , thiếu mặc, thiếu các điều kiện chăm sóc sức khoẻ hiện
đại . Con người khơng thể có trí tuệ minh mẫn , phát triển các điều kiện vật chất
tiến hành các hoạt động học tập , nghiên cứu khoa học không được đáp ứng . Việc
xây dựng , củng cố hồn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ
bản để thực hiện chiến lược xây dựng con người cho thế kỷ XXI. Trên thực tế kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng , phát
huy nguồn lực con người mà cịn tạo ra mơi trường thuận lợi cho con người phát
triển hoàn toàn , toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự
chạy đua , cạnh tranh quyết liệt . Điều đó buộc con người phải năng động , sáng tạo
, linh hoạt , có tác phong nhanh nhạy , có đầu óc phân tích , tổng hợp để thích nghi
và hành động có hiệu quả.
3. Kết luận
Tóm lại , Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất

cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính
phong phú đa dạng được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt


15

đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống
(sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Theo Hồ Chí Minh thì:
“Khi việc gì có mâu thuẫn, khi phải tìm cách giải quyết tức là có vấn đề. Khi đã có
vấn đề, ta phải nghiên cứu cho rõ cái gốc của mâu thuẫn là vấn đề gì. Phải điều tra,
phải nghiên cứu các mâu thuẫn đó. Phải phân tách rõ ràng và có hệ thống, phải biết
rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ. Phải đề ra cách giải
quyết”.
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật , hiện tượng
nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của các mặt đối lập . Điều này
cũng đúng trong nền kinh tế thị truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lòng nó đang
chứa đựng các mâu thuẫn. Trong giai đoạn chuyển tiếp này, trước hết đó là mâu
thuẫn của sự xuất hiện cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền
kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến
trúc thượng tầng về mặt chính trị, pháp lý, quan điểm, tư tưởng. Mâu thuẫn giữa
tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định
hướng xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường. Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
đã đạt được những thành tưụ bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc
chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, nền kinh tế
đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn, bởi bên cạnh những ưu điểm, kinh tế thị trường luôn
chứa đựng những mặt tiêu cực mang tính nội tại kìm hãm sự phát triển của cơng

cuộc đổi mới.
Theo lẽ đó, việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết chúng có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay.


16

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1: KTTT : Kinh tế thị trường
2: LLSX : Lực Lượng sản xuất
3: QHSX : Quan hệ sản xuất
4: PTSX: Phương Thức Sản Xuất
5: CNXH: Chủ Nghĩa xã hội


17

Phụ Lục:
1. Những vấn đề lý luận
1.1 Sự thống nhất và đối lập giữa các mặt đối lập
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.2. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
1.1.3. Ví dụ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
1.1.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranhcủa các mặt đối lập
1.2 Nội dung về vấn đề bàn luận
1.2.1. Lý do chọn đề tài
1.2.2. Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
2. Thực trạng chủ đề nghiên cứu
2.1 Những thành tựu
2.2 Những mâu thuẫn còn tồn đọng trong nền kinh tế nước ta trên đường phát triển

Xã hội chủ nghĩa và giải pháp
2.2.1.Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong giai đoạn đi lên CNXH ở nước ta.
2.2.2. Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường.
2.2.3. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
3. Kết luận


18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
2. Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
3. Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình Quốc gia các bộ mơn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004
4. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm
2006
Nguồn internet:
5. />6. />g_nh%E1%BA%A5t_v%C3%A0_%C4%91%E1%BA%A5u_tranh_gi%
E1%BB%AFa_c%C3%A1c_m%E1%BA%B7t_%C4%91%E1%BB%91
i_l%E1%BA%ADp
7. />8. />


×