Tải bản đầy đủ (.pdf) (298 trang)

Tài liệu Thị Trường Chứng Khoán - Gs.Ts Nguyễn Thị Cành - Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 298 trang )

ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ
BỘ MÔN TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG



ĐỒNG CHỦ BIÊN: GS.TS. NGUYỄN THỊ CÀNH-TS. TRẦN VIẾT HOÀNG





THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN


(Sách tham khảo)













BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH,
TRẦN VIẾT HỒNG,
CUNG TRẦN VIỆT,
CAO HƯƠNG GIANG,
TRẦN HÙNG SƠN








Thành phố Hồ Chí Minh 2007
ÑHQG HCM - KHOA KINH TEÁ– NGAØNH TAØI CHÍNH NGAÂN HAØNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HOÀNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
2
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
3
LỜI GIỚI THIỆU

Cùng với sự phát triển khá mạnh mẽ của thò trường chứng khoán trong năm vừa qua, các

tài liệu liên quan đến thò trường chứng khoán được xuất bản khá phong phú tại Việt Nam.
Tuy nhiên, mỗi loại sách, tài liệu xuất bản nhằm phục vụ cho các mục tiêu khác nhau,
như sách, tài liệu phục vụ chương trình đào tạo ngắn hạn, cấp tốc cho các nhà đầu tư công
chúng, loại sách, tài liệu phổ biến thông tin phục vụ bạn đọc công chúng, sách, tài liệu
giáo trình giảng dạy trong các trường đại học cho các sinh viên ngành tài chính-ngân
hàng và các chuyên ngành kinh tế khác… Trong khuôn khổ chương trình đào tạo chuyên
ngành Tài chính-Ngân hàng, và các ngành kinh tế khác của Khoa Kinh Tế-Đại Học Quốc
Gia TP.HCM, môn học “Thò trường Chứng khoán” được thiết kế với thời lượng ba tín chỉ
(45 tiết), chủ yếu chúng tôi muốn cung cấp cho sinh viên những vấn đề cơ bản về thò
trường chứng khoán, cấu trúc và cơ chế hoạt động của thò trường chứng khoán. Tuy nhiên,
đối với sinh viên ngành Tài chính - Ngân hàng đã có các kiến thức được học về quản trò
tài chính và đầu tư tài chính, sẽ được học các chuyên đề chuyên sâu hơn về phân tích
chứng khoán, các chứng khoán phái sinh như quyền chọn, hợp đồng tương lai, …. Do đó,
mục tiêu chính của chúng tôi khi hình thành cuốn sách này là vừa phục vụ tài liệu giảng
dạy môn học “Thò trường Chứng khoán” cho ngành Tài chính - Ngân hàng, và các
chuyên ngành kinh tế khác của Khoa Kinh Tế, ĐH Quốc Gia TP.HCM, đồng thời cũng là
tài liệu tham khảo cho sinh viên đại học và cao học, chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng
khi lựa chọn viết các chuyên đề môn học, hoặc chuyên đề thực tập tốt nghiệp có liên
quan đến thò trường chứng khoán.
Với các nội dung được biên soạn của cuốn sách để đáp mục tiêu đào tạo nêu trên, chúng
tôi gọi tên tài liệu tham khảo này là “ Thò trường chứng khoán: Cơ cấu và Cơ chế hoạt
động”. Trong quá trình hình thành và biên soạn cuốn sách tham khảo này, chúng tôi đã
đọc và tham khảo khá nhiều tài liệu về thò trường tài chính, thò trường chứng khoán, quản
trò tài chính đã xuất bản trong và ngoài nước, đặc biệt là các tài liệu nguyên bản bằng
tiếng Anh. Có thể nói, đa số các chương của cuốn sách này được biên soạn dựa vào tài
liệu chuyên đề chứng khoán khá nổi tiếng ở Hoa Kỳ đó là cuốn sách “Chứng khoán đại
cương” , Pass Trak, Series (Tập) 7 trong hàng loạt các series về các nguyên lý và thực
hành tài chính của hai tác giả Kimberly K. Walker-Daniels, do Nhà xuất bản Tài Chính
DearBorn, Hoa Kỳ xuất bản từ năm 1996, và tái bản nhiều lần.
Kết cấu nội dung cuốn sách gồm có 12 chương và phần phụ lục giới thiệu Tổng quan về

thò trường khoán Việt Nam. Nội dung các chương có thể tóm lược bao gồm:
Chưong 1 giới thiệu tổng quan về thò trường tài chính. Do thò trường chứng khoán là một
phận cấu thành của thò trường tài chính, nên trong chương này sẽ đề cập đến những khái
niệm có liên quan đến thò trường tài chính, cấu trúc và hàng hóa của thò trường tài chính,
mối quan hệ giữa các bộ phận của thò trường tài chính.
Chương 2 trình bày tổng quan về thò trường chứng khoán bao gồm chức năng, tổ chức và
các nguyên tắc hoạt động của thò trường chứng khoán, phân loại thò trường chứng khoán
và giới thiệu đôi nét về lòch sử hình thành thò trường chứng khoán.
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
4
Chương 3 giới thiệu cổ phiếu-chứng khoán chủ sở hữu. Chương này này sẽ giải thích các
tính chất quan trọng nhất của dạng chứng khoán có gắn liền với quyền chủ sở hữu doanh
nghiệp (cổ phiếu và cổ phiếu ưu đãi), quyền lợi và quyền hạn của người giữ cổ phiếu, các
phương cách đònh giá và phân loại cổ phiếu, chứng chỉ chứng khoán và làm thế nào
chuyển giao sở hữu từ người này sang người khác, các chứng nhận đảm bảo và làm thế
nào để đầu tư vào các công ty trong nước và nước ngoài.
Chương 4 giới thiệu chứng khoán nợ-trái phiếu, trong đó sẽ trình bày các dạng trái phiếu
khác nhau bao gồm các loại trái phiếu do chính phủ, đòa phương và các công ty phát hành
được xem là các dạng chứng khoán nợ. Trong chương này cũng giới thiệu cơ sở xếp hạng
trái phiếu nơ, lợi suất trái phiếu và trái phiếu chuyển đổi.
Chương 5 đề cập đến giao dòch sơ cấp-bảo lãnh phát hành, trong đó giới thiệu những
thành phần tham gia phát hành, các dạng phát hành, nhóm người mua, phát hành ra công
chúng, và các qui trình bảo lãnh phát hành.
Chương 6 trình bày giao dòch chứng khoán-thò trường thứ cấp. Trong chương này nhắc lại
một số khái niệm cơ bản về thò trường thứ cấp, thò trường niêm yết, thò trường OTC, phân
biệt, so sánh các loại thò trường. Đặc biệt, chương 6 trình bày sâu về phương thức giao
dòch tại Sở giao dòch chứng khoán New York (NYSE), phương thức đấu giá…

Chương 7 liên quan đến các lệnh trong giao dòch chứng khoán. Khách hàng muốn mua
hay bán chứng khoán có thể đưa ra nhiều loại lệnh khác nhau, vì vậy chương này sẽ giới
thiệu hàng loạt các loại lệnh như lệnh thò trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng, lệnh dừng giới
hạn, lệnh có giá trò trong ngày…., và so sánh tính chất của các lệnh giao dòch. Ngoài ra
chương 7 cũng đề cập đến vấn đề báo giá, các loại báo giá.
Chương 8 đề cập đến vấn đề bán khống, trong đó khái niệm như thế nào là bán khống cổ
phiếu, khác với bán cổ phiếu có quyền sở hữu như thế nào, các quy đònh bán khống trên
Sở giao dòch và bán khống trên thò trường OTC.
Chương 9 liên quan đến phân tích chứng khoán. Có hai phương pháp phân tích chứng
khoán đó là phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Trong chương này sẽ giới thiệu từng
phương pháp, cơ sở lý thuyết phân tích kỹ thuật, các thông số thò trường và giới thiệu các
tình huống về xu hướng giá và quyết đònh mua/bán cổ phiếu theo từng tình huống. Đối
với phương pháp phân tích cơ bản, những nội dung đề cập bao gồm phân tích theo ngành,
phân tích tài chính công ty, và cho thí dụ tình huống phân tích cơ bản chứng khoán một
công ty cụ thể.
Chương 10 giới thiệu về hợp đồng quyền chọn. Quy đònh của hợp đồng quyền chọn, hoán
đổi quyền chọn và thò trường quyền chọn là một lónh vực mà mức độ phức tạp ngày càng
gia tăng. Nó là một phương tiện cho các nhà đầu tư kiếm lời, đầu cơ chứng khoán, đầu cơ
ngoại tệ và các công cụ phái sinh khác, hoặc là phòng ngừa hay bảo vệ vò thế của các
khoản đầu tư khác. Trong chương này sẽ đưa ra các khái niệm về quyền chọn, quyền
chọn chứng khoán, bốn giao dòch quyền chọn cơ bản, cơ chế hoạt động của thò trường
quyền chọn, và một số thí dụ cụ thể về quyền chọn.
Chương 11 giới thiệu về hợp đồng tương lai và thò trường tương lai. Hợp đồng tương lai
(futures contract) và hợp đồng kỳ hạn (forward contract) giống hợp đồng quyền chọn ở
chỗ chúng quy đònh việc mua và bán tài sản tài chính hoặc một loại hàng hoá cơ sở nào
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
5

đó vào một thời điểm trong tương lai. Tuy nhiên, điểm khác biệt là người sở hữu quyền
chọn không bò buộc phải mua loại hàng hoá cơ sở và cũng sẽ không làm như vậy nếu việc
mua làm cho người đó bò thiệt hại. Chương này sẽ làm rõ các khái niệm có liên quan như
hợp đồng tương lai, sở giao dòch hợp đồng tương lai và thành phần tham gia, và cơ chế
hoạt động của nó.
Chương 12 trình bày các sản phẩm công ty đầu tư. Môït Công ty đầu tư là một công ty cổ
phần hay là quỹ tín thác thông qua đó các cá nhân có thể đầu tư vào các danh mục chứng
khoán lớn và đa dạng bằng cách gom tiền của họ và những nhà đầu tư khác lại. Bằng
cách đầu tư thông qua công ty đầu tư, các cá nhân có thể có được các lợi ích của các nhà
đầu tư lớn ( đa dạng hoá đầu tư, chi phí giao dòch thấp, đội ngũ quản lý chuyên nghiệp
v.v) mà những nhà đầu tư nhỏ không thể thực hiện được. Chương này sẽ mô tả các loại
công ty đầu tư khác nhau và các đặc thù của nó, bao gồm cách thức thành lập và quản lý
q đầu tư , cấu trúc của q, các đặc tính của q và các lợi ích phù hợp để thu hút các
nhà đầu tư.
Ngoài giới thiệu lý thuyết các bài học theo từng chương, trong mỗi chương đều có câu hỏi
thảo luận và bài tập thực hành. Tuy nhiên, do phần lý thuyết và phần bài tập đều quá dài,
nên chúng tôi để phần câu hỏi và bài tập tách riêng, không nằm trong cuốn sách này.
Sách “Thò trường chứng khoán: Cấu trúc và cơ chế hoạt động” do tập thể giảng viên Bộ
môn Tài chính-Ngân hàng, Khoa Kinh Tế-ĐH Quốc Gia TP.HCM biên soạn. Những
người tham gia biên soạn gồm:
GS.TS. Nguyễn Thò Cành , Trưởng Bộ môn Tài chính-Ngân hàng thực hiện chương 1 và
chương 2, chủ biên;
TS. Trần Viết Hoàng, Phó trưởng Bộ môn Tài chính-Ngân hàng thực hiện chương 3 và
chương 4, đồng chủ biên;
ThS. Cung Trần Việt, Giảng viên Bộ môn Tài Chính-Ngân hàng thực hiện chương 5; 6;7;
ThS. Cao Thò Hương Giang, Giảng viên Bộ môn Tài Chính - Ngân hàng thực hiện chương
8, chương 9, và chương 12;
ThS. Trần Hùng Sơn, Giảng viên Bộ môn Tài Chính-Ngân hàng thực hiện chương 10 và
chương 11.
Đây là tài liệu biên soạn lần đầu, do đó chắc chắn sẽ không tránh khỏi các sai sót. Vì

vậy, chúng tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của bạn đọc để cho lần tái bản
sách sẽ được hoàn thiện hơn. Mọi đóng góp xin gử i về:
Bộ Môn Tài Chính-Ngân Hàng
Khoa Kinh Tế-ĐH Quốc Gia TP.HCM
Tel: 08 7242589; Fax: 08 7220851; Email:
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
6
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

Thò trường chứng khóan là một bộ phận cấu thành của thò trường tài chính. Để hiểu rõ
chức năng, nguyên tắc và tổ chức của thò trường chứng khóan, trong chương này sẽ đề cập
đến những khái niệm có liên quan đến thò trường tài chính, cấu trúc và hàng hóa của thò
trường tài chính.

1. Khái niệm và chức năng của thò trường tài chính
1.1. Khái niệm về thò trường tài chính
Trong nền kinh tế, vốn đóng một vai trò quan trọng. Nền kinh tế phát triển yêu cầu phải
có vốn để đầu tư. Trong nền kinh tế thò trường thường có hai nhóm đối tượng liên quan
đến sở hữu và sử dụng vốn. Nhóm thứ nhất là những người có cơ hội đầu tư để sinh lời, tức
có nhu cầu sử dụng vốn. Nhóm thứ hai gồm những người có vốn, tiền tiết kiệm nhưng lại
không có cơ hội đầu tư.
Để cho người có vốn gặp được người có nhu cầu sử dụng vốn đòi hỏi phải có một quá
trình luân chuyển vốn. Quá trình luân chuyển vốn được hình thành trên cơ sở cơ chế họat
động chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế chuyển đổi này được thực hiện trong
khuôn khổ của thò trường tài chính. Nhờ có thò trường tài chính mà những người thiếu vốn
có thể huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu.

Những người có vốn dư thừa thay vì đầu tư vào máy móc, thiết bò, nhà xưởng để sản xuất
ra hàng hóa sẽ đầu tư qua việc mua các tài sản tài chính trên thò trường tài chính do
những người có nhu cầu huy động vốn phát hành.
Như vậy, thò trường tài chính là nơi luân chuyển vốn từ những người có vốn tiết kiệm nhàn
rỗi sang những người có nhu cầu về vốn. Nói cách khác, thò trường tài chính là nơi trao
đổi, mua bán các công cụ hay sản phẩm tài chính.
Trong nền kinh tế thò trường có hai kênh huy động vốn gồm huy động vốn gián tiếp và
huy động vốn trực tiếp. Kênh huy đông vốn gián tiếp được thực hiện thông qua các đònh
chế tài chính trung gian. Ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa người có vốn và người
cần vốn thông qua việc huy động vốn nhàn rỗi rồi cho vay. Ngân hàng cùng với các tổ
chức tín dụng khác đã làm cho quá trình luân chuyển vốn phát triển nhanh chóng. Kênh
huy động vốn trực tiếp là hình thức huy động vốn thông qua việc người cần vốn phát hành
các lọai giấy có giá trò chứng nhận chủ quyền về các khỏan vốn được sử dụng cùng với
những quyền lợi hay lợi ích mà người mua được thụ hưởng. Các kênh huy động vốn trực
tiếp hay gián tiếp đều được diễn ra chủ yếu trên một thò trường có tổ chức chính là thò
trường tài chính.

ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
7
1.2 Chức năng của thò trường tài chính
Chức năng cơ bản nhất của thò trường tài chính là dẫn vốn từ những nơi thừa vốn sang
những nơi thiếu vốn. Đây là chức năng khơi thông các nguồn vốn nhàn rỗi để đáp ứng các
nhu cầu đầu tư phát triển của nền kinh tế. Thông qua các họat động của các chủ thể trên
thò trường, các nguồn vốn được luân chuyển để cho cung cầu về vốn gặp nhau. Quá trình
luân chuyển vốn trên thò trường tài chính đã làm cho quá trình chuyển các nguồn vốn tiết
kiệm thành đầu tư. Quá trình luân chuyển vốn có thể được mô tả qua sơ đồ 1.1 dưới đây.
SƠ ĐỒ 1.1: QUÁ TRÌNH LUÂN CHUYỂN VỐN



















Phía trái của sơ đồ 1.1 thể hiện sự luân chuyển vốn từ các chủ thể là những người có vốn
tiết kiệm nhàn rỗi cho vay. Các chủ thể có vốn tiết kiệm cho vay có thể bao gồm các cá
nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp và chính phủ. Phía bên phải của sơ đồ là các chủ thể
cần vốn đi vay gồm các doanh nghiệp, chính phủ và kể cả hộ gia đình và những cá nhân
cần vốn cho đầu tư và mua sắm các nhu cầu thiết yếu (nhà ở, xe hơi hay đồ dùng trong
nhà…).
Ở kênh tài chính gián tiếp, các chủ thể có vốn tiết kiệm thừa không trực tiếp cung ứng cho
những người có nhu cầu sử dụng vốn mà cung ứng gián tiếp qua các trung gian tài chính
như ngân hàng, các quỹ tín dụng … Ở kênh tài chính trực tiếp, các chủ thể có vốn tiết
Người cho vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp

3. Chính phủ

TÀI CHÍNH GIÁN TIẾP
TÀI CHÍNH TRỰC TIỆP
THỊ
TRƯỜNG
TÀI
CHÍNH
CÁC
TRUNG
GIAN TÀI

CHÍNH

VỐN
VỐN
Người đi vay vốn
4. Hộ gia đình
5. Doanh nghiệp
6. Chính phủ
vốn
vốn
vốn
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
8
kiệm nhàn rỗi trực tiếp chuyển vốn cho các chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn bằng cách
mua các tài sản tài chính trực tiếp do các chủ thể có nhu cầu vốn phát hành thông qua các

thò trường tài chính.
Như vậy, thò trường tài chính đóng vai trò là cầu nối giúp cho nguồn vốn vận động từ nơi
thừa vốn sang nơi thiếu vốn, làm cho quá trình lưu chuyển vốn nhanh chóng, giúp huy
động các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời đưa vào sản xuất kinh doanh, mang lại lợi ích cho
các chủ thể tham gia thò trường, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Chức năng thứ hai của thò trường tài chính được thể hiện qua việc hình thành giá của các
tài sản tài chính. Thông qua quá trình trao đổi giữa người mua và người bán, giá của các
tài sản tài chính sẽ được xác đònh. Giá của một tài sản tài chính được hiểu là lợi tức của
nó. Yếu tố thúc đẩy để các doanh nghiệp kêu gọi vốn là mức lợi tức mà các nhà đầu tư
yêu cầu. Lợi tức của các tài sản tài chính trên thò trường tài chính sẽ phát ra tín hiệu cho
biết trong nền kinh tế vốn cần được phân bổ như thế nào giữa các tài sản tài chính. Đây là
quá trình hình thành giá của các tài sản tài chính.
Chức năng thứ ba của thò trường tài chính là tạo tính thanh khỏan cho các tài sản tài
chính. Thông qua thò trường tài chính, các nhà đầu tư có thể bán các tài sản tài chính của
mình. Khả năng tiêu thụ các tài sản tài chính trên thò trường tài chính đã tạo ra tính thanh
khỏan cho nền kinh tế. Nếu không trao đổi, mua bán được tức thiếu tính thanh khỏan,
buộc nhà đầu tư phải nắm giữ các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn hoặc phải nắm giữ các
công cụ vốn cho đến khi công ty phá sản phải thanh lý tài sản. Nhìn chung các thò trường
tài chính đều có tính thanh khỏan, nhưng mức độ thanh khỏan giữa các thò trường là khác
nhau.
Chức năng thứ ba của thò trường tài chính là giảm thiểu chi phí tìm kiếm và chi phí thông
tin cho các bên giao dòch. Muốn cho một giao dòch mua bán có thể diễn ra, người mua và
người bán phải tìm được nhau. Muốn thế các bên giao dòch phải mất một khỏan chi phí và
thời gian cho việc giới thiệu quảng cáo và tìm đối tác. Những chi phí này được gọi là chi
phí tìm kiếm. Mặt khác, những người mua cũng cần nắm được thông tin nhận đònh các giá
trò đầu tư của một công cụ tài chính và tính chắc chắn của dòng tiền dự kiến thu được từ
đầu tư. Muốn nắm được thông tin họ phải mất chi phí gọi là chi phí thông tin. Do thò
trường tài chính có ưu thế về khối lượng và giá trò giao dòch lớn, các thông tin được cung
cấp đầy đủ và nhanh chóng nên nó có khả năng giảm thiểu được những chi phí tìm kiếm
và chi phí thông tin trong giao dòch cho các chủ thể tham gia thò trường.

Chức năng thứ tư của thò trường tài chính là ổn đònh và điều hòa lưu thông tiền tệ. Thông
qua mua, bán các trái phiếu, tín phiếu chính phủ của ngân hàng trung ương trên thò trường
tài chính, chính phủ có thể tạo ra nguồn thu để bù đắp một phần thâm hụt ngân sách và
kiểm sóat lạm phát. Ngòai ra, ngân hàng trung ương cũng có thể mua bán ngọai tệ trên
thò trường ngọai hối để điều chỉnh cung cầu ngọai tệ nhằm giúp ổn đònh tỷ giá hối đóai.


ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
9
1.3 Cấu trúc và hàng hóa của thò trường tài chính
Tùy theo các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân lọai thò trường tài chính theo
nhiều cách dưới đây.
Thứ nhất, căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, thò trường tài chính được phân thành thò
trường tiền tệ và thò trường vốn;
Thứ hai, căn cứ vào cách thức huy động vốn, thò trường tài chính được chia thành thò
trường nợ và thò trường vốn cổ phần;
Thứ ba, căn cứ vào tính chất phát hành các công cụ tài chính, người ta chia thò trường tài
chính thành thò trường sơ cấp và thò trường thứ cấp.
Dưới đây sẽ trình bày khái niệm về các lọai thò trường và hàng hóa của từng lọai.
1.3.1 Thò trường tiền tệ (Money Market).
Thò trường tiền tệ là một bộ phận của thò trường tài chính, trong đó chỉ mua bán trao đổi
các công cụ tài chính ngắn hạn (các giấy nợ có thời hạn dưới một năm). Các công cụ tài
chính lưu thông trên thò trường tiền tệ hay hàng hóa của thò trường tiền tệ bao gồm tín
phiếu kho bạc, các lọai thương phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ gửi tiền, kỳ phiếu ngân hàng,
các khế ước cho vay…
Tín phiếu kho bạc là một công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do kho bạc nhà nước
phát hành theo đònh kỳ 3 tháng, 6 tháng hoặc 9 tháng. Tín phiếu kho bạc là công cụ nắm

giữ chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại đầu tư nguồn vốn
đóng băng vào tín phiếu kho bạc để thu lợi tức và dùng nó như tiền dự trữ cấp hai, tức
chuyển thành tiền mặt bất cứ lúc nào để giải quyết khó khăn về tài chính của ngân hàng.
Tín phiếu kho bạc thường an tòan và có tính thanh khỏan cao, dễ dàng chuyển nhượng
trên thò trường tiền tệ.
Thương phiếu hay còn gọi là kỳ phiếu thương mại là một lọai giấy nhận nợ, đặc biệt người
giữ nó có quyền đòi tiền khi đến hạn. Thương phiếu gồm có hối phiếu, lệnh phiếu và
chứng chỉ lưu kho. Hối phiếu là phiếu ghi nợ do người bán hàng trả chậm ký phát trao cho
người mua hàng trả chậm, trong đó yêu cầu người mua hàng phải trả một số tiền nhất
đònh khi đến hạn cho người bán hoặc bất cứ người nào xuất trình hối phiếu này (người thụ
hưởng). Lệnh phiếu là giấy nhận nợ do người mua hàng trả chậm ký phát trao cho người
bán hàng trả chậm, trong đó người mua cam kết trả một khỏan tiền nhất đònh khi đến hạn
cho người thụ hưởng. Chứng chỉ lưu kho là giấy do một công ty kinh doanh kho bãi ký
phát, thừa nhận có giữ hàng hóa cho người chủ hàng ký gửi và cam kết giao hàng cho chủ
hàng hay một người nào đó do chủ hàng chỉ đònh bằng cách ký hậu.
Thò trường tiền tệ họat động sẽ giúp huy động các nguồn vốn, cung ứng các nguồn vốn
ngắn hạn cho các chủ thể có nhu cầu vốn ngắn hạn cho đầu tư góp phần hiệu quả nguồn
lực của xã hội. Vì vậy, đôi khi người ta gọi thò trường tiền tệ là thò trường vốn ngắn hạn
(Short-Term Capital Market).
Thò trường tiền tệ có một số đặc trưng sau đây:
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
10
(1) Các công cụ của thò trường tiền tệ có thời gian đáo hạn trong vòng một năm nên
có tính thanh khỏan cao, độ rủi ro thấp và họat động tưong đối ổn đònh;
(2) Họat động của thò trường tiền tệ diễn ra chủ yếu là họat động tín dụng do đó giá
cả được hình thành thể hiện thông qua lãi suất tín dụng ngân hàng.
Các chủ thể tham gia trên thò trường tiền tệ gồm ngân hàng trung ương, kho bạc nhà

nước, các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các tổ chức kinh tế và các cá nhân
trong xã hội. Thông qua thò trường tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể thực thi nghiệp vụ
thò trường mở nhằm kiểm sóat lượng tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại và điều
tiết lượng tiền cung ứng.
Theo tính chất họat động, thò trường tiền tệ được chia thành các thò trường bộ phận đó là
thò trường tín dụng, thò trường liên ngân hàng, thò trường chứng khóan ngắn hạn, thò trường
ngọai hối…
Thò trường tín dụng bao gồm các họat động tín dụng của các ngân hàng thương mại gồm
có họat động huy động vốn và cho vay vốn ngắn hạn.
Thò trường liên ngân hàng họat động nhằm giải quyết nhu cầu vốn tín dụng giữa các ngân
hàng với nhau trước khi ngân hàng thương mại đi vay chiết khấu tại ngân hàng trung
ương.
Thò trường chứng khóan ngắn hạn là nơi thực hiện các giao dòch mua bán, chuyển nhượng
và trao đổi các giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, chứng
chỉ tiền gửi tiết kiệm và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Thò trường ngọai hối (exchange Market) là nơi diễn ra các giao dòch, mua bán, chuyển
nhượng, vay và cho vay bằng ngọai tệ. Thò trường ngọai hối là một bộ phận quan trọng
của thò trường tiền tệ. Tác động của cung-cầu ngọai tệ trên thò trường ngọai hối sẽ ảnh
hưởng đến việc hình thành tỷ giá hối đóai, một trong các biến số quan trọng của nền kinh
tế.
Các công cụ của thò trường ngọai hối gồm có hợp đồng giao ngay (Spot), hợp đồng giao
kỳ hạn (Forward), hợp đồng giao hóan đổi (Swap), các hợp đồng quyền chọn (Option)….
Nhờ các công cụ này mà thò trường ngọai hối có thể đáp ứng nhu cầu ngọai tệ cho các tổ
chức kinh tế, đồng thời tạo cho thò trường ngọai hối họat động ổn đònh.
1.3.2 Thò trường vốn (Capital Market)
Thò trường vốn là thò trường mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn
(thường có thời hạn trên 1 năm). Các công cụ của thò trường vốn bao gồm cổ phiếu, trái
phiếu chính phủ, trái phiếu công ty. Thò trường vốn bao gồm thò trường chứng khóan, thò
trường vay nợ dài hạn, thò trường tín dụng thuê mua, thò trường cầm cố, thò trường bất
động sản…. So với các công cụ trên thò trường tiền tệ, các công cụ trên thò trường vốn có

tính thanh khỏan kém hơn và độ rủi ro cao hơn, nhưng có mức sinh lợi cao hơn. Vai trò
của thò trường vốn là cung cấp tài chính cho các khỏan đầu tư dài hạn của chính phủ, công
ty và cá nhân hộ gia đình.
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
11
Các công cụ trên thò trường vốn bao gồm các công cụ vốn và các công cụ nợ có thời hạn
đáo hạn trên một năm. Loại công cụ này có biến động giá mạnh hơn và tính thanh khoản
thấp hơn các công cụ trên thò trường tiền tệ và được coi là những khoản đầu tư khá rủi ro.
Những loại công cụ chính là cổ phiếu (công cụ vốn ) và trái phiếu (công cụ nợ). Ngoài ra
còn có các công cụ chuyển đổi hoặc các công cụ phái sinh.
Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và tài sản
của một công ty cổ phần. Cổ phiếu bao gồm nhiều loại khác nhau như cổ phiếu thường,
cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi dự phần…
Trái phiếu là giấy chứng nhận việc vay vốn của một chủ thể ( chủ thể phát hành) đối với
một chủ thể khác (chủ thể cho vay vốn). Trên trái phiếu quy đònh hàng kỳ chủ thể phát
hành phải trả cho người nắm giữ trái phiếu một khoản tiền nhất đònh ( lãi tức trái phiếu )
và tới thời điểm đáo hạn phải hoàn trả khoản vốn cho vay ban đầu. Có nhiều loại trái
phiếu khác nhau như trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thò, trái phiếu
có thể chuyển đổi…
Các khoản tín dụng cầm cố là các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp hoặc các hộ
gia đình để mua nhà ở, đất đai, bất động sản và dùng chính các tài sản này làm thế chấp
cho khoản vốn vay.
Các khoản tín dụng thương mại là các khoản cho vay trung, dài hạn của các ngân hàng
thương mại hoặc các công ty tài chính cho người tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có nhu
cầu vay vốn. Các khoản tín dụng này thường không được giao dòch mua bán trên thò
trường thứ cấp nên tính thanh khoản rất thấp.
Chứng chỉ quỹ đầu tư là một loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ đại diện cho một

quỹ đầu tư chứng khoán phát hành, xác nhận quyền hưởng lợi của người đầu tư đối với
quỹ.
1.3.2.1 Thò trường nợ và thò trường vốn cổ phần
Theo cách thức huy động vốn, thò trường tài chính được chia ra thành thò trường nợ
và thò trường vốn cổ phần.
Thò trường nợ
Thò trường nợ là thò trường mua bán các công cụ nợ như trái phiếu, các khoản cho vay,…
Đặc trưng của thò trường nợ là các công cụ giao dòch đều có kỳ hạn nhất đònh, có thể là
ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn tuỳ theo cam kết nợ giữa chủ nợ và người mắc nợ. Hoạt
động trên thò trường nợ phụ thuộc rất lớn vào biến động của lãi suất ngân hàng. Căn cứ
vào lãi suất người ta có thể xác đònh giá mua bán, trong trường hợp lãi suất biến động
mạnh sẽ ảnh hưởng lớn đến khối lượng giao dòch.
Thò trường vốn cổ phần
Thò trường vốn cổ phần là thò trường mua bán các cổ phần của công ty cổ phần. Đặc trưng
của thò trường cổ phần là các công cụ trên thò trường không có kỳ hạn mà chỉ có thời điểm
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
12
phát hành, không có ngày mãn hạn. Người mua cổ phiếu chỉ có thể lấy lại tiền bằng cách
bán lại cổ phiếu trên thò trường hoặc trường hợp công ty cổ phần mà họ nắm cổ phiếu
tuyên bố phá sản. Khác với thò trường nợ, hoạt động của thò trường vốn cổ phần chủ yếu
phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của các công ty cổ phần. Giá trò cổ phiếu tăng khi
công ty họat động có hiệu quả (tỷ suất sinh lời) cao và ngược lại.
Thò trường sơ cấp và thò trường thứ cấp
Dựa vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính, người ta chia thò
trường tài chính thành thò trường sơ cấp và thò trường thứ cấp.
Thò trường sơ cấp
Thò trường sơ cấp hay còn gọi là thò trường phát hành là thò trường trong đó các

công cụ tài chính được phát hành lần đầu và được bán cho người đầu tiên mua
chúng. Bởi vì phát hành lần đầu nên thò trường này còn được gọi là thò trường cấp
một. Thò trường này ít quen thuộc với công chúng đầu tư vì việc bán chứng khóan
tới những người mua đầu tiên được tiến hành theo những thoả thuận riêng với sự
trợ giúp chủ yếu của các đònh chế tài chính làm nhiệm vụ bảo lãnh phát hành.
Thò trường thứ cấp
Thò trường thứ cấp hay còn gọi là thò trường lưu hành chứng khóan là thò trường giao dòch
các công cụ tài chính sau khi chúng đã được phát hành trên thò trường sơ cấp. Thò trường
thứ cấp còn được gọi là thò trường cấp hai.
Hoạt động trên thò trường thứ cấp diễn ra trong phạm vi rộng hơn với tổng mức lưu
chuyển vốn lớn hơn rất nhiều so với thò trường sơ cấp. Việc mua bán chứng khoán trên thò
trường này hòan tòan không làm thay đổi nguồn vốn (tăng hay giảm) của tổ chức phát
hành mà chỉ chuyển vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác. Hay nói cách khác, đây là
họat động chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khóan từ tay nhà đầu tư này sang nhà đầu
tư khác. Họat động giao dòch chứng khóan có thể xác đònh giá trò thò trường của công ty
phát hành ra chứng khóan đó. Đây là thò trường cạnh tranh tự do.
Mối quan hệ giữa thò trường thứ cấp và thò trường sơ cấp được thể hiện ở chỗ, thứ nhất là
thò trường sơ cấp tạo tiền đề cho họat động của thò trường thứ cấp vì đã tạo ra hàng hóa
cho thò trường giao dòch. Thứ hai là thò trường thứ cấp hoạt động làm cho các công cụ tài
chính có tính lỏng cao hơn và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trên thò
trường sơ cấp. Vì vậy, có thể nói thò trường thứ cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của
thò trường sơ cấp.
1.4 Khái niệm về trung gian tài chính
Trung gian tài chính là những tổ chức làm cầu nối giữa những người cần vốn và những
người cung cấp vốn trên thò trường. Trung gian tài chính, dù thuộc loại hình nào đi nữa,
đều có chung một đặc điểm là phát hành các công cụ tài chính để thu hút vốn. Mức chênh
lệch mà người trung gian nhận được giữa lãi suất cho vay (hay lợi tức đầu tư ) với lãi suất
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG



BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
13
huy động vốn chính là chi phí trung gian hay hoa hồng trung gian. Khi những người có
vốn ký thác số vốn của mình vào các trung gian tài chính, khoản đầu tư của họ là đầu tư
gián tiếp; còn khi trung gian tài chính đầu tư số vốn này, khoản đầu tư đó là đầu tư trực
tiếp.
1.4.1 Các loại hình trung gian tài chính
Các tổ chức trung gian tài chính có thể chia thanh ba nhóm chính gồm các tổ chức nhận
tiền gửi ( ngân hàng), các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng và các trung gian đầu tư.
Các tổ chức nhận tiền gửi. Đây là các tổ chức tài chính trung gian lớn nhất trên thò
trường tài chính xét theo phạm vi hoạt động và khả năng về vốn. Các tổ chức này
huy động vốn bằng cách mở tài khoản séc và tài khoản tiết kiệm cho khách hàng,
đồng thời sử dụng số vốn huy động được để cho vay theo nhiều hình thức khác
nhau hoặc đầu tư vào chứng khoán. Thu nhập của các tổ chức này đến từ hai
nguồn đó là thu nhập từ các khoản cho vay và mua chứng khoán; và thu nhập từ
các khoản phí.
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng như công
ty bảo hiểm và quỹ hưu trí, an sinh xã hội là các trung gian tài chính huy động vốn
dựa trên cơ sở hợp đồng theo đònh kỳ. Các tổ chức này có thể đầu tư các loại chứng
khoán dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu công ty, các khoản cho vay cầm cố.
Các trung gian đầu tư. Các trung gian đầu tư bao gồm các công ty tài chính, quỹ
tương hỗ và quỹ tương hỗ thò trường tài chính. Công ty tài chính huy động vốn bằng
cách bán các thương phiếu hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Sau đó, công ty sử
dụng số vốn này cho người tiêu dùng vay để mua sắm nhà cửa, trang thiết bò, xe
hơi…. Quỹ tương hỗ là loại hình trung gian tài chính huy động vốn bằng cách bán
chứng chỉ quỹ cho các cá nhân và dùng vốn đó để đầu tư vào danh mục cổ phiếu
và trái phiếu đã được đa dạng hoá. Quỹ tương hỗ thò trường tiền tệ là thể chế tài
chính tương đối mới mang các đặc trưng của quỹ tương hỗ nhưng được phép mở tài
khoản tiền gửi cho khách hàng. Giống như hầu hết các quỹ tương hỗ, tổ chức này
được phép bán cổ phiếu để huy động vốn đồng thời sử dụng số vốn này để mua

các công cụ an toàn và có tính thanh khoản cao trên thò trường tiền tệ. Lãi suất của
các tài sản này sẽ được thanh toán đònh kỳ cho cổ đông.
Mặc dù phương thức hoạt động cụ thể của các trung gian tài chính là khác nhau, nhưng
vai trò trung gian tài chính của các tổ chức này được thể hiện qua một số mặt dưới đây.
Thứ nhất, trung gian tài chính thực hiện chuyển đổi thời gian đáo hạn của các công
cụ tài chính. Có thể nhận thấy chức năng này rõ nhất thông qua hoạt động của các
tổ chức nhận tiền gửi, chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Nhờ có các trung gian
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
14
tài chính, cả nhà đầu tư (người gửi tiền) và người đi vay đều có thể lựa chọn được
những thời hạn thích hợp với mục tiêu của mình.
Thứ hai, trung gia tài chính có thể giúp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư bằng
cách đa dạng hoá đầu tư. Các sản phẩm của trung gian tài chính càng đa dạng giúp
các nhà đầu tư đa dạng hóa đầu tư để giảm thiểu các rủi ro.
Thứ ba, thông qua trung gian tài chính các nhà đầu tư có thể giảm thiểu chi phí hợp đồng
và chi phí xử lý thông tin. Các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân thường
không có điều kiện để phân tích đánh giá một khỏan đầu tư, khả năng sinh lời cũng như
mức độ rủi ro của từng tài sản tài chính. Vì vậy họ phải thuê hợp đồng và phải trả các chi
phí thực hiện hợp đồng này. Các trung gian tài chính với tư cách là nhà đầu tư chuyên
nghiệp có thể giảm thiểu các chi phí này do họ có ưu thế về tính tập trung, tính chuyên
nghiệp và qui mô đầu tư lớn.
Thứ tư, các trung gian tài chính có thể cung cấp một cơ chế thanh tóan thuận tiện. Ngày
nay, đa số các giao dòch được thực hiện mà không dùng tiền mặt. Các trung gian tài chính
có thể thể cung cấp các phương thức thanh tóan không dùng tiền mặt như thành tóan qua
việc sử dụng sec, thẻ tín dụng, hoặc chuyển tiền điện tử.
1.5 Mối quan hệ giữa các bộ phận của thò trường tài chính
Qua giới thiệu về cấu trúc của thò trường tài chính, có thể nhận thấy giữa các thò trường bộ

phận cấu thành trong thò trường tài chính có mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng với
nhau. Những biến động trên thò trường này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các
thò trường khác. Dưới đây sẽ trình bày một số quan hệ giữa các thò trường bộ phận trên thò
trường tài chính.
Mối qaun hệ giữa thò trường chứng khoán và thò trường ngoại hối. Thò trường ngoại hối và
thò trường tiền tệ có quan hệ khăng khiết với nhau thông qua các tác động qua lại và chi
phối lẫn nhau. Mỗi biến động trên thò trường tiền tệ đều có thể dẫn đến có những thay đổi
trên thò trường ngoại hối. Các mối quan hệ hình thành giữa hai thò trường này chủ yếu
thông qua hai yếu tố là lãi suất và tỷ giá. Sự biến động của lãi suất trên thò trường tiền tệ
có thể có tác động đến các luồng vốn di chuyển giữa hai thò trường này, làm ảnh hưởng
đến mối quan hệ cung cầu về ngoai tệ, làm tỷ giá hối đoái trên thò trường ngoại hối thay
đổi. Chẳng hạn, vào năm 2000, Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã liên tục tăng lãi suất 6 lần.
Theo phản ứng dây chuyền, Ngân hàng trung ương Châu Âu cũng nâng lãi suất và lãi
suất trên thò trường liên ngân hàng theo đó cũng tăng lên. Tại Việt Nam do ảnh hưởng
của xu hướng này, các ngân hàng thương mại cũng từng bước nâng lãi suất huy động
ngoai tệ tăng nên. Điều này dẫn đến có một khối lượng khá lớn tiền gửi đồng việt nam
(VNĐ) được rút ra khỏi tài khoản ngân hàng để mua ngoại tệ chủ yếu là đô la Mỹ (USD)
trên thò trường, sau đó gửi USD vào ngân hàng để hưởng phần lãi suất cao hơn. Kết quả
là vốn huy động ngoai tệ tăng mạnh ở một số ngân hàng thương mại. Trong một số thời
điểm lãi suất huy động USD tại Việt nam mặc dù đã được nâng lên song vẫn thấp hơn lãi
suất USD trên thò trường quốc tế, đã có hiện tượng một số ngân hàng huy động ngoai tệ
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
15
trong nước và chuyển ra nước ngoài để hưởng lãi suất cao hơn để kiếm lời. Nhu cầu ngoại
tệ trên thò trường ngoại hối đã gia tăng nhanh chóng sau đó và kết quả là làm cho tỷ giá
có xu hướng bò đẩy lên.
Mối quan hệ giữa thò trường tiền tệ và thò trường chứng khoán. Mối quan hệ giữa thò

trường tiền tệ và thò trường chứng khoán được thể hiện thông qua sự tác động của hai yếu
tố là lãi suất và tỷ giá hối đoái lên giá của chứng khoán. Tỷ giá hối đoái là nhân tố có tác
động mạnh mẽ nhất đối với quyết đònh đầu tư trên thò trường chứng khoán. Các nhà đầu
tư vào chứng khóan trên thò trường chứng khoán sẽ thay thế tài sản ngoại tệ vì chứng
khoán chính là tiền. Nếu tiền bò mất giá thì giá trò chứng khoán sẽ bò giảm. Bởi vì do giá
chứng khóan trên thò trường trong nước giảm, các nhà đầu tư này có thể chuyển vốn đầu
tư ra nước ngoài. Như vậy, tác động của tỷ giá hối đoái đã làm dòch chuyển đầu tư từ thò
trường chứng khoán sang thò trường hối đoái và trong trường hợp ngược lại, nếu đồng tiền
bản đòa cao giá so với ngọai tệ vốn sẽ chuyển từ đầu tư ngọai tệ sang đầu tư chứng khóan.
Lãi suất thò trường cũng là nhân tố tác động trực tiếp tới giá của chứng khoán thông qua
việc thay đổi mức sinh lời được các nhà đầu tư yêu cầu khi chấp nhận đầu tư vào chứng
khoán. Khi thò trường tiền tệ có dấu hiệu thay đổi lãi suất chiết khấu và lãi suất tái chiết
khấu từ ngân hàng trung ương thì lập tức thay đổi này sẽ ảnh hưởng tới lượng tiền cung
ứng và tác động tới cung tín dụng từ phía ngân hàng thương mại, đồng thời cũng tác động
tới giá của chứng khoán. Tuy nhiên, mức độ tác động của lãi suất vào giá trái phiếu và
giá cổ phiếu là không gống nhau. Lãi suất có tác động trực tiếp tới giá trái phiếu, khi lãi
suất chiết khấu tăng (hoặc giảm). Ngược lại, đối với cổ phiếu, quan hệ giữa lãi suất và
giá không phải là mối quan hệ trực tiếp và cùng chiều. Mức độ ảnh hưởng của lãi suất lên
giá cổ phiếu phụ thuộc vào các nguyên nhân gây ra thay đổi và mức độ tác động của thay
đổi này lên dòng thu nhập tương lai của cổ phiếu. Qua một số nghiên cứu thực tế cho thấy
mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu thường là ngược chiều. Bởi vì khi lãi suất thò
trường tăng, giá trái phiếu giảm thì nhà đầu tư có xu hướng chuyển từ đầu tư cổ phiếu
sang đầu tư trái phiếu làm cho giá cổ phiếu giảm và ngược lại. Với cấu trúc và cơ chế
họat động của thò trường tài chính nêu trên, quá trình lưu chuyển vốn trên thò trường tài
chính có thể mô tả qua sơ đồ dưới đây.
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
16

SƠ ĐỒ 1.2: LƯU CHUYỂN VỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH



















Sơ đồ 1.2 phản ánh mức độ phát triển của thò trường tài chính có ý nghóa quan trọng đối
với việc khuyến khích tiết kiệm, khuyến khích đầu tư và thúc đẩy quá trình vốn hóa trong
nền kinh tế. Đặc biệt ở đây phải kể đến vai trò của các tổ chức trung gian tài chính, bộ
phận đã chuyển tải một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm đưa vào đầu tư và góp phần
tích cực trong việc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn.
Thò trường tài chính:
- Thò trường tiền tệ
- Thò trường vốn
Cung về vốn:
1. Chính phủ

2. Doanh nghiệp
3. Hộ gia đình
Các tổ chức trung gian tài chính:
1. Ngân Hàng thương mại
2. Bảo hiểm, quỹ hưu trí
3. Tổ chức nhận tiền gửi và cho vay
4. Ngân Hàng
5. Các quỹ thò trường tiền tệ
Cầu về vốn:
1. Doanh nghiệp
2. Chính phủ
3. Hộ gia đình
Công cụ
thò trường
sơ cấp
Tiền tiết kiệm
Tiền tiết kiệm
Tiền tiết kiệm
Tiền tiết kiệm
Công cụ
thò trường
sơ cấp
Công cụ
thò trường
sơ cấp
Công cụ
thò trường
sơ cấp
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG



BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
17
CHƯƠNG 2
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHÓAN: CHỨC NĂNG, TỔ CHỨC VÀ
NGUYÊN TẮC HỌAT ĐỘNG

Như đã nêu, thò trường chứng khóan là một bộ phận cấu thành của thò trường tài chính, nó
cũng thực hiện các chức năng và tuân thủ các nghuên tắc chung của thò trường tài chính.
Tuy nhiên, thò trường chứng khóan có những đặc thù riêng, vì vậy trong chương này sẽ
trình bày về bản chất, chức năng của thò trường chứng khóan, các nguyên tắc họat động,
các thành phần tham gia thò trường chứng khóan, cấu trúc của thò trường chứng khóan và
đôi nét về lòch sự hình thành thò trường chứng khóan.

2.1- Bản chất và chức năng của thò trường chứng khoán
2.1.1-Bản chất của thò trường chứng khoán
Như đã đề cập ở chương một, thò trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao
dòch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở
thò trường sơ cấp khi mà người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát
hành, và ở thò trường thứ cấp khi có họat động mua đi bán lại các chứng khoán đã được
phát hành ở thò trường sơ cấp. Xét về mặt hình thức, thò trường chứng khoán chỉ là nơi
diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó
thay đổi các chủ thể hay chủ sở hữu nắm giữ chứng khoán.
Xét về mặt bản chất thì thò trường chứng khoán là:
(1) Nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. Tập trung các nguồn vốn tiết
kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dung nguồn vốn này theo giá mà người sử
dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thò trường về khả năng sinh lời từ các dự án của
người sử dụng. Hay nói cách khác, đây là sự chuyển dòch từ tư bản sở hữu sang tư bản
kinh doanh.
(2) Đònh chế tài chính trực tiếp, qua đó cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thò

trường một cách trực tiếp. Ngược với cách tài trợ gián tiếp được thực hiện thông qua các
trung gian tài chính, những người có vốn có khi có đủ điều kiện về môi trường tài chính,
pháp lý… sẽ trực tiếp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh không cần qua các trung gian tài
chính mà chuyển vốn thông qua thò trường chứng khoán, một thò trường dẫn vốn trực tiếp
từ người có vốn sang người cần vốn theo nguyên tắc đầu tư.
Nếu đầu tư qua các trung gian tài chính, các chủ thể đầu tư không thể theo dõi, kiểm tra,
quản lý vốn đầu tư của mình. Điều đó làm cho quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách
rời nhau, làm giảm động lực tiềm năng trong quản lý. Ngược lại, nếu đầu tư qua thò
trường chứng khoán, kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sử
dụng và quyền sở hữu về vốn, nâng cao khả năng quản lý vốn.
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
18
Chứng khóan thể hiện trên thò trường có thể coi như một tư bản hàng hóa. Bởi vì, thò
trường chứng khoán thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ. Các chứng khoán
mua bán trên thò trường chứng khoán có thể đem lại thu nhập cho người nắm giữ nó sau
một thời gian nhất đònh và được lưu thông trên thò trường chứng khoán theo giá cả thò
trường. Có thể nói, thò trường chứng khoán là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư bản, là
hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa. Những người sở hữu chứng khóan có
thể mua bán chứng khoán trên thò trường tại bất kỳ thời điểm nào, vì vậy, các chứng
khoán trung và dài hạn cũng có thể trở thành đối tượng đầu tư ngắn hạn.
2.1.2-Chức năng của thò trường chứng khoán
Vai trò quan trọng của thò trường chứng khóan được thể hiện như một công cụ tập trung
vốn cho nền kinh tế, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân để tài trợ cho các dự án
đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế của một quốc
gia, đặc biệt là với Việt nam, nơi đang có nhu cầu rất lớn về vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế xã hội.
Các chức năng cụ thể của thò trường chức khóan được thể hiện qua các mặt dưới đây.

Thứ nhất, chức năng của thò trường chứng khòan là huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ
được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã
hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của các công ty, thò trường chứng khoán đã tạo
ra những tác động tích cực đối với phát triển nền kinh tế xã hội. Thông qua thò trường
chứng khoán, chính phủ và chính quyền đòa phương có thể huy động được các nguồn vốn
nhằm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án công phục vụ thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội.
Thứ hai, thò trường chứng khóan khuyến khích tiết kiệm và thực hiện cung cấp môi trường
đầu tư cho công chúng. Thò trường chứng khoán là nơi đảm bảo cho công chúng có được
một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn các lọai chứng khóan đa dạng,
phong phú. Các loại chứng khóan trên thò trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và
độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hóa nào mà họ cho là phù
hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Điều này đã tạo cơ hội thuận tiện để
khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một hữu ích,
mang lại hiệu quả đầu tư qua đầu tư vào các lọai chứng khóan. Với chức năng này, thò
trường chứng khoán góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
Thứ ba, thò trường chứng khóan là công cụ tạo tính thanh khỏan cho các khỏan tiết kiệm
phục vụ đầu tư dài hạn. Thò trường chứng khoán đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể
chuyển đổi các chứng khoán mà họ sở hữu thành tiền mặt hoặc loại chứng khoán khác khi
họ muốn. Khả năng thanh khỏan (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong
những yếu tố có tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Thò trường chứng
khoán hoạt động càng hữu hiệu, có tính năng động và hiệu quả cao thì khả năng thanh
khỏan của các chứng khoán giao dòch trên thò trường càng cao.
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
19
Thứ tư, thò trường chứng khóan có thể coi là công cụ đo lường giá trò của doanh nghiệp

cũng như đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Thông qua giá chứng khoán trên thò
trường hoạt động của các doanh nghiệp được phản ảnh một cách tổng hợp và chính xác.
Trên thò trường chứng khóan, các thông tin của doanh nghiệp được cung cấp cho các nhà
đầu tư qua bảng đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lời và triển vọng
của doanh nghiệp đã phần nào lượng giá được tích sản của doanh nghiệp. Mặt khác, với
tính chất đặc biệt nhạy bén của thò trường chứng khóan, việc lên xuống giá của chứng
khóan cũng phản ánh được giá trò của doanh nghiệp biến động tại bất kỳ thời điểm nào.
Điều này cũng có thể giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp
được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ năm, thò trường chứng khóan tạo điều kiện giúp chính phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vó mô. Các chỉ báo của thò trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế
một cách nhạy bén và chính xác. Chỉ báo của thò trường chứng khoán tăng lên cho thấy
đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng. Ngược lại, chỉ báo giá chứng khoán giảm
sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Mặt khác, thông qua thò trường chứng
khoán, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm
hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dunïg một số chính
sách, biện pháp tác động vào thò trường chứng khoán để đònh hướng đầu tư đảm bảo phát
triển nền kinh tế theo mục tiêu của chính phủ.
2 2 Các chủ thể tham gia thò trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thò trường chứng khoán có thể được chia thành 4 lọai
gồm nhà phát hành, nhà đầu tư, các tổ chức kinh doanh chứng khóan và các tổ chức khác
có liên quan đến chứng khoán (cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội, các tổ chức khác).
2.2.1-Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thò trường chứng khoán.
Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hóa của thò trường chứng
khoán. Nhà phát hành có thể bao gồm:
(1) Chính phủ và chính quyền đòa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ
và trái phiếu đòa phương;
(2) Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty;

(3) Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,
chứng chỉ thụ hưởng … phục vụ cho hoạt động của họ.

2.2.2-Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thò trường chứng khoán.
Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại là nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư là một tổ
chức dưới đây gọi là nhà đầu tư tổ chức.
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
20
Nhà đầu tư cá nhân. Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham
gia mua bán trên thò trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên,
trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và
ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân phải xem xét lựa chọn các hình thức đầu
tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của chính mình.
Nhà đầu tư tổ chức. Nhà đầu tư tổ chức thường được gọi là các đònh chế đầu tư, thường
xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thò trường. Các tổ chức này có các bộ
phận chức năng gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thò trường và đưa ra
các quyết đònh đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thò trường chứng
khoán là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ an sinh và bảo hiểm xã hội
khác. Ưu điểm nổi bật của đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư là có thể đa dạng hóa danh
mục đầu tư và các quyết đònh đầu tư do các chuyên gia có kinh nghiệm thực hiện.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Các công ty tài
chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư
vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi. Bên cạnh các công ty chứng khoán, các ngân
hàng thương mại cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng
khoán cho chính mình.
2.2.2-Các tổ chức kinh doanh trên thò trường chứng khoán

Các tổ chức kinh doanh trên thò trường chứng khóan gồm các công ty chứng khóan và các
ngân hàng thương mại.
Công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lónh vực
chứng khóan có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính như bảo lãnh
phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo được một số
vốn nhất đònh (theo qui đònh của từng quốc gia) và phải được phép của cơ quan có thẩm
quyền.
Các ngân hàng thương mại. Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng
vốn tự có để tăng và đa dạng hóa lợi nhuận thông qua đầu tư vào các chứng khoán. Tuy
nhiên, các Ngân hàng chỉ được đầu tư vào các chứng khoán trong những giới hạn nhất
đònh để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước cho
phép ngân hàng thương mại thành lập các công ty con độc lập để kinh doanh chứng
khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
2.2.3- Các tổ chức liên quan đến thò trường chứng khoán
Cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan quản lý, giám sát thò trường chứng khoán được hình
thành dưới nhiều mô hình hoạt động khác nhau. Có nước cơ quan quản lý, giám sát là do
các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc chính phủ, nhưng có nước
lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và nhà nước. Nhìn chung cơ quan quản
lý, giám sát họat động của thò trường chứng khóan là do chính phủ (nhà nước) thành lập
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
21
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và bảo đảm cho thò trường chứng khoán hoạt
động lành mạnh, phát triển vững chắc. Chẳng hạn, tại Trung Quốc có cơ quan Giám quản
chứng khoán của Quốc vụ viện Trung Quốc. Tại Anh có Ủûy ban đầu tư chứng khoán (SIB
- Securities Investment Board). Tại Mỹ có Ủy ban Chứng khoán và Giao dòch chứng
khoán (SEC - Securities and Exchange Commission) là một cơ quan của liên bang có tư

cách pháp lý thực hiện việc kiểm soát thò trường chứng khoán. Tại Nhật Bản có Cơ quan
giám sát tài chính (Financial Supervision Agency (FSA)) với chức năng cơ bản là tiến
hành điều tra và xử lý các giao dòch gian lận trên thò trường chứng khoán…
Tại Việt Nam đã thành lập cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thò trường chứng
khoán trước khi hình thành thò trường chứng khoán. Đó là Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước, thành lập theo Nghò đònh số 75/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ. Ủy ban Chứng
khoán Nhà Nước là một cơ quan trực thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với thò trường chứng khoán ở Việt Nam.
Sở giao dòch chứng khoán. Sở giao dòch chứng khoán thực hiện vận hành thò trường thông
qua bộ máy tổ chức gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên sở giao
dòch. Ngoài ra, sở giao dòch cũng ban hành các quy đònh điều chỉnh các hoạt động giao
dòch chứng khoán trên sở, phù hợp với các quy đònh của luật pháp và các qui đònh của Ủy
ban chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ
chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành
chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói
riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung.
Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Đây là tổ chức nhận lưu giữ các chứng
khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dòch chứng khoán.
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên
cung cấp dòch vụ đánh giá năng lực thanh tóan các khỏan vốn gốc và lãi đúng thời hạn và
theo những điều khỏan đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ
thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường được gắn cho một đợt phát hành, chứ không
phải cho công ty. Do vậy một công ty phát hành có thể mang nhiều mức hệ số tín nhiệm
cho các phát hành nợ của nó. Hệ số tín nhiệm được biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ
số, tùy theo quy đònh của từng công ty xếp hạng. Dựa vào các hệ số tín nhiệm, các nhà
đầu tư có thể cân nhắc đưa ra quyết đònh đầu tư của mình.
2.3-Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thò trường chứng khoán
Thò trường chứng khóan họat động theo ba nguyên tắc chủ yếu đó là nguyên tắc trung
gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai.

2.3.1-Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc trung gian, các giao dòch trên thò trường chứng khoán được thực hiện
thông qua các tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thò trường sơ cấp, các
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
22
nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo
lãnh phát hành. Trên thò trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh
các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối khách
hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dòch mua bán chứng khoán trên tài khỏan của
mình. Nguyên tắc trung gian đảm bảo cho các lọai chứng khóan được giao dòch là các lọai
chứng khóan thực. Điều này vừa đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư vừa giúp thò trường
chứng khóan họat động lành mạnh và phát triển tích cực.
2.3.2-Nguyên tắc đấu giá
Việc xác đònh giá chứng khóan trên thò trường chứng khoán được thực hiện trên nguyên
tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ cung cầu trên thò
trường. Các lọai đấu giá được phân biệt theo hình thức cũng như phương thức thực hiện.
Căn cứ vào các hình thức đấu giá, các loại đấu giá gồm có đấu giá trực tiếp, đấu giá gián
tiếp và đấu giá tự động.
Đấu giá trực tiếp là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới chứng khoán trực tiếp
gặp nhau thông qua người trung gian (một chuyên gia chứng khoán) tại quầy giao dòch để
thương lượng giá.
Đấu giá gián tiếp là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới chứng khoán không trực tiếp
gặp nhau, mà chỉ thương lượng giá gián tiếp qua hệ thống điện thoại và mạng máy tính.
Đấu giá tự động là hình thức đấu thông giá qua hệ thống mạng máy tính nối giữa máy chủ
của sở giao dòch chứng khóan với hệ thống máy của các công ty thành viên. Các lệnh
mua, bán được truyền đến máy chủ, máy chủ tự động khớp các lệnh mua – bán có giá
phù hợp và thông báo kết quả cho những công ty chứng khoán có các lệnh đặt hàng được

thực hiện.
Căn cứ vào phương thức đấu giá, có hình thức đấu giá đònh kỳ và đấu giá liên tục.
Đấu giá đònh kỳ là hệ thống trong đó các giao dòch chứng khoán được tiến hành tại một
mức giá duy nhất bằng cách tập hợp tất cả các đơn đặt mua và bán chứng khóan trong
một khỏang thời gian nhất đònh. Đấu giá đònh kỳ là phương thức xác đònh mức giá cân
bằng giữa cung và cầu. Phương thức đấu giá này rất có hiệu quả trong việc hạn chế các
biến động giá quá mức. Biến động này có thể phát sinh từ việc phối hợp những đơn đặt
hàng được chuyển tới thò trường một cách bất thường (trong trường hợp đấu giá liên tục).
Tuy nhiên, phương thức này không phản ánh kòp thời những thông tin về thò trường. Do
vậy, hình thức này chỉ thích hợp với giai đoạn đầu của thò trường chứng khoán khi mà số
lượng khách hàng và khối lượng giao dòch còn ít, không khí thò trường kém sôi động.
Đấu giá liên tục là hệ thống trong đó việc mua bán chứng khoán được tiến hành liên tục
bằng cách phối hợp các đơn đặt hàng của khách hàng ngay khi có các đơn đặt hàng có thể
phối hợp được. Đặc điểm của đấu giá liên tục là giá cả được xác đònh qua phản ứng tức
thời của thông tin và các nhà đầu tư có thể phản ứng nhanh chóng trước những thay đổi
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
23
trên thò trường. Hình thức đấu giá này thích hợp với những thò trường có khối lượng giao
dòch lớn và nhiều đơn đặt hàng.
Thông thường khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân thủ theo các thứ tự ưu
tiên. Chẳng hạn ưu tiên về giá (giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất), ưu tiên
về thời gian, về khách hàng (ưu tiên các nhà đầu tư cá nhân trước), ưu tiên về quy mô
lệnh (cùng một mức giá, ưu tiên các lệnh có khối lượng lớn hơn).
2.3.3-Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là các hàng hóa trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được
các chứng khoán như các hàng hóa thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có
liên quan (giá cả mua, bán, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty

niêm yết). Do đó thò trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố
thông tin công khai và minh bạch. Theo luật đònh, các bên phát hành chứng khoán có
nghóa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kòp thời các thông tin có liên quan đến tổ chức
phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu
cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất. Thông tin được công bố thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng, sở giao dòch, các công ty chứng khoán và các tổ chức
có liên quan khác.
Việc công khai thông tin về thò trường chứng khoán phải thỏa mãn yêu cầu chính xác, kòp
thời và dễ tiếp cận. Các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin cậy có
thể dẫn tới những quyết đònh đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng tới quyền lợi
của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên thò trường chứng khoán, do đó đòi
hỏi thông tin cần phải chính xác. Nếu các thông tin công khai nhưng không kòp thời, chậm
trễ, lạc hậu thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Việc công khai thông tin thò trường
chứng khoán nhằm đảm bảo cho tất cả các nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận được.
Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ nhà đầu tư, đồng thời nó cũng nói lên rằng một khi
thông tin đã được cung cấp đầy đủ, kòp thời và chính xác thì nhà đầu tư phải chòu trách
nhiệm về các quyết đònh đầu tư của mình.
2.4-Phân loại thò trường chứng khoán
Thò trường chứng khóan cũng được phân lọai dựa trên các tiêu chí khác nhau.
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khóan, thò trường chứng
khóan được phân thành thò trường sơ cấp và thò trường thứ cấp.
Thò trường sơ cấp hay thò trường phát hành. Thò trường sơ cấp hay thò trường phát hành là
thò trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thò trường này, vốn từ nhà đầu
tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán
mới phát hành.
Vai trò của thò trường sơ cấp gồm:
(1) Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động qua
việc phát hành chứng khoán;
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG



BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
24
(2) Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khỏan tiền nhàn rỗi
tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thò trường sơ cấp được thể hiện:
(1) Thò trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát
hành
(2) Những người bán trên thò trường sơ cấp được xác đònh thường là kho bạc, ngân
hàng nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành…;
(3) Giá chứng khoán trên thò trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết đònh và thường
được in ngay trên chứng khoán.
Thò trường thứ cấp hay thò trường lưu hành. Thò trường thứ cấp là nơi giao dòch các chứng
khoán đã được phát hành trên thò trường sơ cấp. Thò trường thứ cấp đảm bảo tính thanh
khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
Đặc điểm của thò trường thứ cấp được thể hiện:
(1) Trên thò trường thứ cấp, các khỏan tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về
các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát
hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành chứng
khoán mà di chuyển giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên thò trường.
(2) Giao dòch trên thò trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá chứng
khoán trên thò trường thứ cấp được quyết đònh thông qua cung và cầu;
(3) Thò trường thứ cấp là thò trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và
bán các chứng khoán nhiều lần trên thò trường thứ cấp.
Thứ hai, căn cứ vào phương thức hoạt động, thò trường chứng khoán được phân thành thò
trường tập trung (sở giao dòch chứng khoán) và thò trường phi tập trung (thò trường OTC-
Over The Counter)
Thò trường tập trung là đòa điểm họat động chính thức của các giao dòch chứng khóan còn
gọi là sở giao dòch chứng khóan (tính chất tập trung ở đây là muốn nói đến việc giao dòch
được các tổ chức tập trung theo một đòa điểm vật chất). Tại sở giao dòch chứng khoán, các

giao dòch được tập trung tại một đòa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dòch và tham
gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dòch.
Trên thò trường phi tập trung (OTC), các giao dòch (cả sơ cấp lẫn thứ cấp) được tiến hành
qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên tòan lãnh thổ của quốc gia và được
nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả trên thò trường này được hình thành theo phương
thức thỏa thuận.
Đối với thò trường thứ cấp, cấu trúc thò trường cơ bản được hình thành dựa trên cơ sở đấu
giá và đấu lệnh. Trong thò trường đấu giá, các nhà tạo thò trường đưa ra giá đặt mua và
giá chào bán loại chứng khoán được ấn đònh của họ. Các nhà đầu tư giao dòch những
chứng khoán này như đối tác của nhà tạo thò trường. Giá được xác đònh thông qua cạnh
ĐHQG HCM - KHOA KINH TẾ– NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


BIÊN SOẠN: NGUYỄN THỊ CÀNH, TRẦN VIẾT HỒNG, CUNG TRẦN VIỆT, CAO HƯƠNG GIANG, TRẦN HÙNG SƠN
25
tranh giữa các nhà tạo thò trường. Thò trường này thực hiện các nguyên tắc đấu lệnh như
ưu tiên về giá, thời gian, ưu tiên về khách hàng, về số lượng (ưu tiên các lệnh có số lượng
lớn)…. Trong thò trường đấu lệnh, lệnh của các nhà đầu tư được ghép với nhau không có sự
tham gia của các nhà tạo thò trường. Lệnh được ghép tại mức giá thỏa mãn cả hai bên
mua và bán. Giá được xác đònh thông qua cạnh tranh giữa các nhà đầu tư. Trên thò trường
này, thực hiện phương thức ghép lệnh đònh kỳ hoặc ghép lệnh liên tục và cũng thực hiện
đầy đủ các quyền ưu tiên trong giao dòch. Trong đấu lệnh liên tục, lệnh được thực hiện
một cách liên tục bằng việc ghép lệnh ngay khi có các lệnh mới có thể ghép được.
Thứ ba, căn cứ vào hàng hóa trên thò trường, thò trường chứng khoán cũng có thể phân
thành thò trường cổ phiếu, thò trường trái phiếu, thò trường các công cụ chứng khoán phái
sinh.
Thò trường cổ phiếu là thò trường giao dòch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
Thò trường trái phiếu là thò trường giao dòch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành,
các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu của công ty, trái phiếu đô thò, trái phiếu chính

phủ. Việc vay vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu ngày càng trở nên phổ biến ở các
quốc gia. Vì vậy, thò trường trái phiếu ngày càng lớn về quy mô và hoạt động ngày càng
sôi động.
Thò trường các công cụ chứng khoán phái sinh. Cùng với sự phát triển của thò trường
chứng khoán, các công cụ lưu thông trên thò trường chứng khoán cũng ngày càng phát
triển về số lượng và đa dạng về chủng loại. Bên cạnh các giao dòch truyền thống về cổ
phiếu và trái phiếu, các giao dòch mua bán chứng từ tài chính khác như quyền mua cổ
phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn đã xuất hiện. Các chứng từ tài chính này được
ra đời từ các giao dòch chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) và được quyền chuyển đổi sang
các chứng khoán qua hành vi mua bán theo những điều kiện nhất đònh. Do đó, người ta
gọi chúng là các chứng từ có nguồn gốc chứng khoán, hay các chứng khoán phái sinh.
Thò trường các chứng khoán phái sinh là thò trường phát hành và mua đi bán lại các chứng
khoán phái sinh đã được phát hành. Đây là loại thò trường cao cấp chuyên giao dòch
những công cụ tài chính cao cấp, do đó thò trường này chỉ xuất hiện ở những nước có thò
trường chứng khoán phát triển mạnh.
2.5- Sơ lược về lòch sử hình thành và phát triển thò trường chứng khoán
Vào giữa thế kỷ XV ở tại những thành phố trung tâm buôn bán lớn ở các nước
Phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi mua bán
các vật phẩm hàng hóa …. Lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình
thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu
chợ đã trở thành “thò trường” với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy
ước này được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trò bắt buộc chung cho
mọi thành viên tham gia “thò trường”.

×