TAP CHI SINH HOC 2019, 41(2se1&2se2): 255–263
DOI: 10.15625/0866-7160/v41n2se1&2se2.14147
SEASONAL SPAWNING CYCLE IN NATURE OF BLOTCHED SNAKEHEAD
Channa maculata (Lacepède, 1801)
Ta Thi Binh1,*, Nguyen Huu Duc2, Do Van Tu3, Nguyen Dinh Vinh1, Nguyen Cong Thanh1
1
Department of Agriculture, Forestry and Fisheries, Vinh University, Nghe An, Vietnam
2
Faculty of biological, Hanoi National University of Education, Ha Noi, Vietnam
3
Institute of Ecology and Biological Resourcer, VAST, Vietnam
Received 12 August 2019, accepted 30 September 2019
ABSTRACT
In order to determine the seasonal spawning in nature of Blotched Snakehead, Channa maculata,
360 adults of this species collected at 5 locations in the Thanh Hoa Province from January to
December 2017, with body weights from 198 g to 873 gwere analyzed. The gonado somatic
index (GSI) of this species was shown to be the highest in May (2.71 for females and 1.32 for
males) and lowest in December (0.57 for females and 0.22 for males). The conditional factor is
from 3.42×10-2 to 3.89×10-2 for females and from 3.34×10-2 to 3.78×10-2 for males, peaking in
May (3.89×10-2 for females and 3.89×10-2 for males). The Fulton’s and Clark’s indecs were
highest in November (1.67 for Fulton’s and 1.35 for Clark’s) then decreased in the following
months with lowest values recored in May (1.05 Fulton and 0.66 Clark). The highest gonadic
maturity indexes as well as gonad maturity degree belonging III and IV stages of females and
males were observered from April to June of the year during which the highest gonadic maturity
indices and gonad maturity degree of 3rd and 4th stages were recorded.
Keywords: Channa maculata, gonado somatic index, seasonal spawning.
Citation: Ta Thi Binh, Nguyen Huu Duc, Do Van Tu, Nguyen Dinh Vinh, Nguyen Cong Thanh, 2019. Seasonal
spawning cycle in nature of blotched snakehead Channa maculata (Lacepède, 1801). Tap chi Sinh hoc,
41(2se1&2se2): 255–263. />*
Corresponding author email:
©2019 Vietnam Academy of Science and Technology (VAST)
255
TAP CHI SINH HOC 2019, 41(2se1&2se2): 255–263
DOI: 10.15625/0866-7160/v41n2se1&2se2.14147
MÙA SINH SẢN TỰ NHIÊN CỦA CÁ CHUỐI HOA
Channa maculata (Lacepède, 1801)
Tạ Thị Bình1,*, Nguyễn Hữu Dực2, Đỗ Văn Tứ3, Nguyễn Đình Vinh1, Nguyễn Công Thành1
Viện Nông nghiệp và Tài nguyên, Trường Đại học Vinh
2
Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
3
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
1
Ngày nhận bài 12-8-2019, ngày chấp nhận 30-9-2019
TĨM TẮT
Bài báo đã phân tích 360 mẫu cá chuối hoa (Channa maculata) khối lượng 198 – 873 gam, thu
được từ 5 địa điểm thuộc các thủy vực ở Thanh Hóa từ tháng 1–12/2017 để xác định mùa sinh
sản của loài này ngoài tự nhiên. Kết quả cho thấy, hệ số thành thục (GSI) cao nhất vào tháng 5
(cái 2,71, đực 1,32) và thấp nhất vào tháng 12 (cái 0,57, đực 0,22). Nhân tố điều kiện (CF) của cá
cái dao động trong khoảng 3,42×10-2–3,89×10-2 và cá đực 3,34×10-2–3,78×10-2. Nhân tố điều
kiện (CF) của cá cái và đực đều cao nhất vào tháng 5 tương ứng 3,89×102 và 3,78×10-2. Độ béo
của cá cao nhất ở tháng 11(1,67 độ béo Fulton và 1,35 độ béo Clark), độ béo giảm dần ở các
tháng sau và thấp nhất vào tháng 5, tương ứng 1,05 và 0,66. Tỷ lệ thành thục tuyến sinh dục của
cá cái và cá đực tăng cao từ tháng 4 đến tháng 6 trong năm. Như vậy, có thể nhận định mùa sinh
sản ngồi tự nhiên của cá chuối hoa kéo dài từ tháng 4–6.
Từ khóa: Cá chuối hoa, hệ số thành thục, mùa vụ sinh sản.
*Địa chỉ liên hệ email:
MỞ ĐẦU
Trong các loài cá nước ngọt, họ cá quả
Channidae (thuộc bộ Anabantiformes), được
các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước
quan tâm do chúng có kích thước lớn, thịt
ngon và sức sống cao. Nhiều loài đã được
nghiên cứu đầy đủ về đặc điểm sinh học,
sản xuất giống và phát triển công nghiệp
nuôi quan trọng ở các nước trong khu vực
như Việt Nam, Thái Lan, Campuchia,
Phillipines, Ấn Độ và Malaysia (Muntaziana
et al., 2013). Ở Việt Nam, họ cá quả chỉ có
duy nhất một giống Channa thuộc họ
Channidae gồm 12 loài phân bố khắp cả
nước với nhiều tên gọi khác nhau theo tiếng
địa phương. Trong đó, cá lóc đen (C.
striata) và cá lóc bơng (C. micropeltes) đã
được nghiên cứu nhiều và phát triển nghề
ni do chúng có kích cỡ lớn và giá trị kinh
256
tế cao (Nguyễn Huấn và Dương Nhựt Long,
2008). Gần đây, cá dày (C. lucius) cũng đã
được nghiên cứu đặc điểm sinh học và sản
xuất giống (Tiền Hải Lý, 2016). Cá chành
dục (C. gachua) kích thước nhỏ nhưng cũng
đã được nghiên cứu đặc điểm sinh học và
sản xuất giống (Hồ Mỹ Hạnh, 2017). Trong
khi đó cá chuối hoa (C. maculata) cũng là
một đối tượng ni có tiềm năng nhưng lại
chưa được nghiên cứu nhiều.
Cá chuối hoa đã được đưa vào Sách Đỏ
Việt Nam 2007, bậc EN và danh mục các loài
thuỷ sinh quý hiếm cần bảo vệ tại QĐ số:
82/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp &
Phát triển nơng thơn. Cá chuối hoa cịn là một
trong những lồi cá có giá trị kinh tế cao, có
thịt thơm ngon được sử dụng rộng rãi trong
nội địa. Trong tự nhiên, cá chuối hoa chủ yếu
sống ở các sơng ngịi, ao hồ, đồng ruộng ngập
Mùa sinh sản tự nhiên của cá chuối hoa
nước, nơi có nhiều thực vật thủy sinh và có
mặt ở hầu khắp các thuỷ vực ở miền núi, đồng
bằng, cả ở vùng nước lợ nơi có nồng độ muối
thấp (Mai Đình Yên, 1978; Nguyễn Văn Hảo,
2005). Chúng cũng phân bố tự nhiên ở Nhật
Bản, Nam Trung Quốc, Đài Loan và
Philipines (Water & James, 2004). Hiện nay,
ở trong nước mới chỉ có một số cơng trình
nghiên cứu về cá chuối hoa như đặc điểm
phân loại học và một số đặc điểm sinh học của
chúng. nghiên cứu bước đầu về sản xuất
giống nhân tạo. (Nguyễn Thái Tự, 1983; Mai
Đình Yên, 1978; Nguyễn Văn Hảo, 2005;
Nguyễn Đình Vinh và nnk., 2015; Tạ Thị
Bình và nnk., 2015).
Việc khảo sát mùa vụ sinh sản của cá
chuối hoa ngoài tự nhiên làm cơ sở cho việc
cho đẻ nhân tạo, xây dựng kỹ thuật sản xuất
cá giống và đưa vào ni lồi cá này góp
phần đa dạng hóa đối tượng ni, duy trì và
phát triển nguồn lợi, bảo vệ quỹ gen, bảo tồn
đa dạng sinh học ở các thuỷ vực sơng thuộc
khu vực Thanh Hóa nói riêng và Việt Nam
nói chung.
VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Mẫu vật nghiên cứu gồm 360 mẫu cá
chuối hoa, khối lượng từ 198 g đến 873 g, thu
được từ các thuỷ vực tại các huyện thuộc tỉnh
Thanh Hóa, bao gồm Hà Trung, Vĩnh Lộc,
Hậu Lộc, Nga Sơn và Hoằng Hóa (hình 1) .
Thời gian tiến hành nghiên cứu từ tháng
1–12/2017.
Mẫu cá chuối hoa được phân tích tại
phịng thí nghiệm cơ sở Thủy sản, Viện
Nơng nghiệp và Tài ngun, Trường Đại
học Vinh.
Hình 1. Vị trí các điểm thu mẫu cá chuối hoa
Phƣơng pháp thu và phân tích số liệu
Chọn ngẫu nhiên 30 cá thể/tháng từ các
mẫu thu được bằng lưới kéo, lưới đáy, vợt,…
Sau khi thu, tiến hành làm chết cá, rửa sạch,
bảo quản lạnh và chuyển mẫu về phân tích tại
phịng thí nghiệm.
Xác định chiều dài tổng (TL, cm), chiều
dài chuẩn (SL, cm), khối lượng toàn thân (W,
257
Ta Thi Binh et al.
g), khối lượng tuyến sinh dục (Wtsd, g), khối
lượng không nội quan (Wo, g), xác định tỉ lệ
cá đực-cái và các giai đoạn phát triển của
tuyến sinh dục cá dựa trên cơ sở quan sát
hình dạng, kích cỡ và màu sắc của tuyến sinh
dục theo thang phân chia 6 bậc của Xakun và
Buskaia (1968). Các chỉ tiêu về chiều dài
được xác định bằng thước đo Palme (cm) và
các chỉ tiêu về khối lượng được phân tích
bằng cân điện tử 2 số lẻ (g).
(iv) Xác định mùa sinh sản
Được dự đoán dựa trên kết quả khảo sát
biến động độ béo, biến động của hệ số thành
thục, nhân tố điều kiện, quá trình phát triển
tuyến sinh dục của các mẫu cá chuối hoa thu
được qua các tháng trong năm.
Các chỉ tiêu được dùng để khảo sát mùa
vụ sinh sản của cá chuối hoa được xác định
gồm:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
(i) Hệ số thành thục (gonadosomatic
index - GSI) là một hệ số để dự đoán mùa vụ
sinh sản của cá. GSI của cá chuối hoa được
xác định cho từng tháng và dựa theo công
thức của Biswas (1993).
GSI %
100 Wtsd W
Trong đó: Wtsd = Khối lượng tuyến sinh dục
(g); W: Khối lượng toàn thân (g).
(ii) Xác định độ béo Fulton, Clark
Được tính lần lượt theo cơng thức:
Ðộ béo Fulton:
F
W 100 SL3
Ðộ béo Clark:
C
Wo 100 SL3
(iii) Nhân tố điều kiện (Conditional
factor): Để phát hiện sự thay đổi về điều kiện
môi trường, chủ yếu là sự thay đổi liên quan đến
độ phong phú về thức ăn và mùa vụ sinh sản của
đàn cá. CF được xác định theo cơng thức:
CF
W TLb
Trong đó: W = Khối lượng thân cá có nội
quan; Wo = Khối lượng thân cá khơng có nội
quan; TL= Chiều dài thân cá; SL = Chiều dài
chuẩn; b = Hệ số tăng trưởng (được tính dựa
vào mối tương quan giữa chiều dài và khối
lượng của cá).
258
Phƣơng pháp xử lý số liệu
Toàn bộ số liệu thu được tính tốn và vẽ
đồ thị trên phần mềm Microsoft Excell 2010.
Hệ số thành thục
Hệ số thành thục là chỉ tiêu sinh học cho
biết hoạt động sinh sản, được dùng để xác
định những giai đoạn thành thục của tuyến
sinh dục (Le Cren, 1951; Hojo et al., 2004).
Hệ số thành thục chịu sự chi phối chủ yếu là
khối lượng tuyến sinh dục. Khối lượng tuyến
sinh dục luôn thay đổi theo mùa và ở cá cái
thể hiện rõ hơn ở cá đực. Bảng 1 cho thấy GSI
của cá chuối hoa cái và đực thay đổi liên tục
trong 12 tháng. Hệ số GSI của cá chuối hoa cả
ở cá cái và cá đực bắt đầu tăng từ tháng 1 và
đạt đỉnh vào tháng 5, lần lượt là 2,71 và 1,32
tương ứng và đạt thấp nhất vào tháng 12, lần
lượt là 0,57 ở cá cái và 0,22 ở cá đực. Sự biến
động trên cho thấy sau khi tham gia sinh sản,
phần lớn các sản phẩm sinh dục (tế bào trứng
và tinh trùng) được phóng ra mơi trường ngồi
nên tuyến sinh dục của cá sẽ giảm nhanh về
kích cỡ và khối lượng nên hệ số thành thục
của cá cũng giảm theo. Vì thế, hệ số thành
thục là một trong những điều kiện cần thiết để
nhận biết mức độ chín muồi của sản phẩm
sinh dục của cá.
Hệ số GSI của cá cái cao hơn cá đực là do
khối lượng buồng trứng lớn hơn nhiều so với
khối lượng tinh sào cá đực trong cùng giai
đoạn phát triển. Phạm Minh Thành và Nguyễn
Văn Kiểm (2009) cho rằng nguyên nhân của
sự tăng khối lượng tuyến sinh dục cá được
quyết định bởi sự chuyển hóa dinh dưỡng nội
tại từ cơ và gan trong cơ thể cá. So sánh giá trị
GSI của một số loài cá trong họ Channidae
cho thấy, cá chành dục (Channa gachua) ở
Ấn Độ có hệ số thành thục của cá bắt đầu tăng
cao từ tháng 5 đến tháng 11 và sau đó giảm
dần (Ghanbahadur et al., 2013). Gần đây,
Mùa sinh sản tự nhiên của cá chuối hoa
nghiên cứu trên đối tượng cá chành dục (C.
gachua) của Hồ Mỹ Hạnh (2017) cho thấy,
giá trị hệ số GSI bắt đầu thấp từ tháng 12 đến
tháng 4 (0,59–1), bắt đầu tăng vào tháng 5 và
cao nhất vào tháng 7 (2,61). Trong thời gian
các tháng 11, 12 và từ tháng 1 đến tháng 4, hệ
số thành thục của cá giảm thấp và đạt thấp
nhất là tháng 1 (0,48). Mahmud et al. (2016),
nghiên cứu trên cá lóc (C. striata) ở
Bangladesh cho thấy GSI trung bình cao nhất
vào tháng 7 (5,95 ± 0,20 đối với cá cái và
0,14 ± 0,01 đối với cá đực). Prasad et al.
(2011) cũng ghi nhận đối với cá lóc (C.
punctata) có GSI thấp nhất từ tháng 11 đến
tháng 2 cho cả hai giới tính và sau đó tăng dần
từ tháng 3, khi đó tuyến sinh dục bắt đầu
thành thục và đạt cao nhất vào tháng 8, khi
hầu hết các cá thể trưởng thành thành thục
hoàn toàn (giai đoạn IV). Theo Amzad et al.
(2015), nghiên cứu sinh học buồng trứng cá
lóc (C. punctata) ở Bangladesh cho thấy, giá
trị GSI đạt cao nhất vào tháng 7 (5,64 ± 1,24)
và thấp nhất vào tháng 5 (0,19 ± 0,05). Tiền
Hải Lý (2016) đã tiến hành nghiên cứu sự
biến động GSI trên cá dày (C. lucius). Kết quả
cho thấy hệ số GSI của cá cái và cá đực bắt
đầu tăng từ tháng 12 năm trước và đạt đỉnh
cao nhất vào tháng 6 năm sau, tương ứng 1,68
và 0,53. Hệ số GSI thấp nhất đối với cá dày
cái (0,69) vào tháng 11 và cá dày đực (0,15)
vào tháng 9. Tác giả này cũng cho rằng hệ số
GSI của cá cái cao hơn cá đực, là do khối
lượng buồng trứng lớn hơn nhiều so với khối
lượng tinh hoàn cá đực trong cùng giai đoạn
phát triển.
Bảng 1. Biến động hệ số thành thục của cá chuối hoa qua các tháng trong năm 2017
Cá cái
Cá đực
W(g)
Wtsd(g)
GSI(%)
W(g)
Wtsd(g)
1/2017
834,83 ± 105,77 3,41 ± 1,02 1,20 ± 0,28 446,08 ± 29,19 1,60 ± 0,16
2/2017
398,69 ± 144,16 4,01 ± 1,34 1,30 ± 0,47 361 ± 116,18 1,58 ± 0,23
3/2017
441,76 ± 184,21 5,17 ± 1,47 1,45 ± 0,46 394,23± 125,22 1,69 ± 0,44
4/2017
436 ± 132,57
5,44 ± 0,45 2,02 ± 0,56 457 ± 164,88 2,84 ± 0,26
5/2017
496,94 ± 113,07 8,57 ± 0,44 2,71 ± 0,56 423,67 ± 79,91 3,52 ± 0,30
6/2017
441,76 ± 130,27 6,95 ± 0,35 2,54 ± 0,68 399 ± 104,09 3,12 ± 0,31
7/2017
422,71 ± 128,23 5,88 ± 0,33 2,31 ± 0,23 432,38 ± 85,72 3,29 ± 0,32
8/2017
436 ± 102,61
4,53 ± 0,32 1,44 ± 0,25 412,33 ± 68,44 2,59 ± 0,32
9/2017
410 ± 91,19
4,66 ± 0,29 1,35 ± 0,24 431,5 ± 105,61 2,40 ± 0,31
10/2017
450,94 ± 89,07 3,02 ± 0,45 0,90 ± 0,07 422,79±106,96 1,67 ± 0,37
11/2017
352,73 ± 93,02 2,86 ± 0,47 0,77 ± 0,12 448 ± 101,12 1,20 ± 0,33
12/2017
386,14 ± 86,82 1,63 ± 0,37 0,57 ± 0,06 392,5 ± 106,97 0,69 ± 0,41
Ghi chú: Số liệu thể hiện trong bảng ở dạng TB±Sd;TB: Trung bình; Sd: Độ lệch chuẩn;
lượng tồn thân; Wtsd (g) là khối lượng tuyến sinh dục; GSI (%) là hệ số thành thục.
Tháng/năm
Kết quả thu được trong nghiên cứu này và
những kết quả của các tác giả trước đây cho
thấy, các lồi cá lóc thuộc họ Channidae có
giá trị GSI đạt cao nhất từ tháng 5 đến tháng 8
trong năm. Đây cũng là lúc tuyến sinh dục của
tất cả cá thành thục đạt cực đại về khối lượng
và tế bào sinh dục đạt giai đoạn chín muồi
hồn tồn chuẩn bị bước vào thời kỳ tập trung
sinh sản.
Nhân tố điều kiện (CF)
CF được xác định thông qua hệ số hệ số
tăng trưởng (b) từ việc phân tích mối tương
GSI(%)
0,45 ± 0,04
0,56 ± 0,09
0,69 ± 0,11
1,10 ± 0,42
1,32 ± 0,16
1,24 ± 0,27
1,20 ± 0,13
0,85 ± 0,09
0,65 ± 0,09
0,53 ± 0,06
0,36 ± 0,04
0,22 ± 0,09
W(g) là khối
quan giữa chiều dài chuẩn và khối lượng toàn
thân của cá chuối hoa và kết quả này được thể
hiện qua phương trình hồi qui với 202 mẫu cá
thể cái và 158 mẫu cá thể đực đã thu được
trong 12 tháng khảo sát, với b đạt trung bình
tương ứng 2,5205 và 2,4567 (hình 2).
Biến động của nhân tố điều kiện (CF) của
cá chuối hoa cũng được xác định không lớn
từ tháng 1 đến tháng 12/2017. Kết quả cho
thấy, chỉ số CF của cá chuối hoa cái dao
động trong khoảng 3,42×10-2–3,89×10-2 và
của con đực 3,42×10-2–3,78×10-2. Hệ số CF
259
Ta Thi Binh et al.
của cá cái và đực đều cao nhất vào tháng 5,
tương ứng 3,89×10-2 và 3,78×10-2 (hình 3).
Như vậy, thời gian hệ số CF đạt cực đại cũng
trùng với thời gian khi GSI của cá đạt mức
cao nhất.
Hình 2. Tương quan giữa chiều dài chuẩn và khối lượng tồn thân của cá chuối hoa cái và đực
Hình 3. Biến động nhân tố điều kiện của cá chuối hoa theo thòi gian
Theo King (1995), nhân tố điều kiện nói
lên hiện trạng hay điều kiện phát triển của cá
tại từng thời điểm khảo sát. Nhân tố điều kiện
đánh giá mức độ tăng khối lượng của cá so
với mức độ tăng về chiều dài và nguyên nhân
của sự gia tăng nhanh về khối lượng của cá
trong một khoảng thời gian nhất định chủ yếu
là do sự gia tăng về khối lượng tuyến sinh dục
của cá trong giai đoạn thành thục sinh dục của
chúng, đặc biệt là ở cá cái và vào thời kỳ có
nguồn thức ăn tự nhiên phong phú khi cá sử
dụng nhiều thức ăn hơn so với điều kiện bình
thường.
Kết quả nghiên cứu về GSI của cá cũng
ghi nhận chúng đạt đỉnh cao vào tháng 5
(bảng 1). Kết quả khảo sát thực tế cho thấy cá
chuối hoa thu được trong thời gian này phần
lớn có tuyến sinh dục phát triển ở giai đoạn
260
III, IV, khi khối lượng tuyến sinh dục đạt cực
đại và chuẩn bị hoàn thành giai đoạn sinh
trưởng. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), đây
là giai đoạn tích lũy dinh dưỡng và trong
khoảng thời gian này khối lượng tuyến sinh
dục không ngừng tăng lên. Điều này đồng
nghĩa với khối lượng tổng cơ thể đạt cực đại
đã dẫn đến CF tăng cao trong giai đoạn này và
phù hợp với quy luật chung của loài.
Độ béo Fulton, Clark
Giá trị độ béo Fulton và Clark của cá
chuối hoa biến động khá lớn qua các tháng.
Trong đó, độ béo Fulton biến động trong
khoảng từ 1,05–1,67; độ béo Clark ở khoảng
0,66–1,25 (hình 4).
Giá trị của độ béo của cá chuối hoa tăng
cao nhất trong năm vào tháng 11 và sau đó
Mùa sinh sản tự nhiên của cá chuối hoa
giảm dần cho đến tháng 2; bắt đầu từ tháng 3,
hai độ béo Fulton và Clark cùng bắt đầu giảm
thấp dần cho đến tháng 5. Điều này được giải
thích khi cá bắt đầu chuyển sang giai đoạn thành
thục sinh dục, vật chất tích lũy sẽ được chuyển
hóa qua tuyến sinh dục để chuẩn bị bước vào
mùa sinh sản. Trong quá trình thành thục sinh
dục, sự tích lũy và chuyển hóa vật chất dinh
dưỡng để tạo ra sản phẩm sinh dục xảy ra
đồng thời. Nhưng vào thời kỳ đầu của sự tạo
trứng, mức độ tích luỹ vật chất dinh dưỡng
trong cơ thể thường cao hơn so với q trình
chuyển hố để tạo sản phẩm sinh dục (Chung
Lân, 1969, dẫn theo Nguyễn Văn Kiểm,
2004). Từ tháng 4, độ béo của cá giảm nhanh
hơn bởi vì từ lúc này tốc độ phát triển của tuyến
sinh dục nhanh nhất để hệ số thành thục đạt đỉnh
vào tháng 5 (hình 4). Sau đó, độ béo của cá lại
bắt đầu tăng dần, ngược lại, hệ số thành thục
của cá chuối hoa bắt đầu giảm xuống. Điều đó
cho thấy, sau thời gian tập trung phần lớn vật
chất dinh dưỡng tích lũy trong cơ thể cho q
trình thành thục và hoạt động sinh sản, cá phải
tăng cường độ dinh dưỡng nhằm đảm bảo
năng lượng cho các hoạt động sống của cơ thể
và tích lũy ở các cơ quan (gan và cơ) để chuẩn
bị cho mùa sinh sản tiếp theo.
Mùa sinh sản của cá chuối hoa
Kết quả nghiên cứu cho thấy, độ béo
Fulton và Clark của cá chuối hoa biến động
rõ qua các tháng và cùng đạt đỉnh vào tháng
11 (hình 4). Sự biến động này có có liên
quan với hệ số thành thục của cá do trước khi
thành thục sinh dục, nhiều lồi cá cũng tích
lũy chất béo ở một số cơ quan khác nhau
trong cơ thể cá (Trần Thanh Hiền và Nguyễn
Anh Tuấn, 2009). Hệ số thành thục và Độ
béo luôn là 2 chỉ số đối nghịch nhau ở mọi
thời điểm (hình 4).
Hình 4. Biến động của hệ số thành thục và độ béo của cá chuối hoa theo thời gian
Kết quả ở hình 5 cho thấy, tỷ lệ tuyến sinh
dục thành thục cá cái đạt đỉnh vào tháng 4,
sau đó giảm nhẹ dần vào tháng 5, tháng 6.
Vào tháng 4, có 50,0% cá cái có tuyến sinh
dục đạt giai đoạn III; 40,0% ở giai đoạn IV và
3,33% ở giai đoạn V; vào tháng 5, tuyến sinh
dục của cá ở đoạn III là 26,67%, ở giai đoạn
IV là 53,33% và giai đoạn V là 13,33%. Vào
tháng 6, tuyến sinh dục của cá ở đoạn III là
33,3%, ở giai đoạn IV là 50,00% và giai đoạn
V là 6,67. Tỷ lệ cá cái thành thục sinh dục
giảm mạnh dần từ tháng 7 đến tháng 11. Thời
điểm này, cá cái ở giai đoạn IV chỉ đạt khoảng
3,33–23,33%, giai đoạn III là 26,67–43,33%
trong khi đó cá cái ở giai đoạn I–II chiếm tỷ lệ
từ 33,33–70,0%.
Kết quả phân tích hệ số GSI và các giai
đoạn phát triển tuyến sinh dục, độ béo cho
thấy, chu kỳ chín sinh dục và mùa vụ sinh sản
của cá chuối hoa được xác định thông qua
diễn biến của tỷ lệ cá thành thục ở giai đoạn
IV, V và hệ số thành thục sinh dục. Số liệu
thu được và phân tích từ tháng 1 đến tháng
12/2017 cho thấy, cá thành thục ở giai đoạn
IV xuất hiện từ tháng 3, tăng dần từ tháng
261
Ta Thi Binh et al.
4–6, giảm vào các tháng 7 (hình 5). Sự phát
dục thành thục ngồi tự nhiên khơng đồng
loạt, vì vậy, cá chuối hoa là lồi đẻ theo đợt
và mùa sinh sản của cá chuối hoa ở ngoài tự
nhiên bắt đầu từ tháng 3, đẻ rộ vào tháng 5 và
6 và kết thúc vào tháng 8. Ngoài ra, kết quả
khảo sát hệ số điều kiện (CF) của cá cũng ghi
nhận CF của cá cũng bắt đầu tăng lên từ tháng
3 và đạt đỉnh cao ở tháng 5. So sánh kết quả
nghiên cứu của chúng tôi với kết quả của
Dương Nhựt Long (2003), trên đối tượng cá
lóc đen cho thấy, thời gian kéo dài mùa sinh
sản của cá chuối hoa tương đối giống với cá
lóc đen (Channa striata) (cá lóc đen sinh sản
từ tháng 4–8, tập trung ở tháng 5).
Hình 5. Các giai đoạn thành thục của cá chuối hoa ở các tháng
KẾT LUẬN
Cá chuối hoa đẻ rải rác từ tháng 3 đến
tháng 10, nhưng tập trung vào tháng 5 đến
tháng 6. Vì vậy, có thể kết luận mùa sinh sản
chính của cá chuối hoa từ tháng 4 đến tháng 6
hàng năm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Amzad H. M., Sohel M., Mariya A., Fazley
R. A., & Sabiha M., 2015. Ovarian
biology of spotted snakehead (Channa
punctatus) from natural wetlands of
Sylhet, Bangladesh. Ann. Vet. Anim. Sci,
2: 64–76.
Bộ KH & CN -Viện KH & CN Việt Nam,
2007. Sách Đỏ Việt Nam; Phần I: Động
vật. Nxb Khoa học tự nhiên & Công nghệ.
Bộ NN & PTNT, 2008. Quyết định số:
82/2008/QĐ-BNN về việc công bố Danh
mục các lồi thuỷ sinh q hiếm.
262
Tạ Thị Bình, Nguyễn Đình Vinh, Chu Chí
Thiết, 2015. Nghiên cứu sản xuất giống cá
chuối hoa Channa maculata (Lacepède,
1801) trong điều kiện nhân tạo. Tạp chí
khoa học công nghệ thủy sản, Trường Đại
học Nha Trang, (2): 14–19.
Biswas S. P.,1993. Manual of method in fish
biology. International Book Co, Absecon
Highlans, N. J. 157 pp.
Gaikwad M. V., More V. R., Shingare S. M.,
Hiwarale D. K., & Khillare Y. K., 2009.
Study on gonadosomatic and fecundity
relationship in air-breathing fish Channa
gachua (Ham.) from godavari near
Aurangabad. African Journal of Basic &
Applied Sciences, 1(5-6): 93–95.
Hồ Mỹ Hạnh, 2017. Nghiên cứu đặc điểm
sinh học và kỹ thuật sản xuất giống cá
Mùa sinh sản tự nhiên của cá chuối hoa
chành dục (Channa gachua Hamilton,
1822). Luận án tiến sĩ nuôi trồng thủy sản.
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Văn Hảo, 2005. Cá nước ngọt Việt
Nam, tập III. Nxb Nông nghiệp, 759 tr.
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn,
2009. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản.
Nxb Nông nghiệp, 191 tr.
Nguyễn Huấn và Dương Nhựt Long, 2008.
Hiện trạng sản xuất giống và kỹ thuật kích
thích cá lóc bơng (Channa micropeltes)
sinh sản. Tạp chí Khoa học, Trường Đại
học Cần Thơ, (2): 20–28.
King M., 1995. Fisheries biology, Assessment
and management. Fishing news books.
341 pp.
Nguyễn Văn Kiểm, 2004. Giáo trình Kỹ thuật
sản xuất cá giống. Bộ môn kỹ thuật nuôi
thủy sản nước ngọt, khoa Thủy sản,
Trường Đại học Cần Thơ. 194 tr.
Le Cren C. D. 1951. The Length-Weight
Relationship and Seasonal Cycle in Gonad
Weight and Condition in Perch, Perca
fluviatilis. Journal of Animal Ecology, 20:
201–219.
Dương Nhựt Long, 2003. Giáo Trình kỹ thuật
ni thủy sản nước ngọt. Bộ môn kỹ thuật
nuôi thủy sản nước ngọt, khoa Thủy sản,
Trường Đại học Cần Thơ. 194 tr.
Tiền Hải Lý, 2016. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học và kỹ thuật sinh sản cá dày (Channa
lucius Cuvier, 1831). Luận án tiến sĩ nuôi
trồng thủy sản, khoa Thủy sản, trường Đại
học Cần Thơ.
Mahmud N. A., H. Md. H. Rahman, G. M.
Mostakim, M. G. Q. Khan, Md.
Shahjahan, N. S. Lucky and M. S. Islam,
2016. Cyclic variations of gonad
development of an air-breathing fish,
Channa striata in the lentic and lotic
environments. Fisheries and Aquatic
Sciences, 19: 5.
Muntaziana M. P. A, S. M. N Amin, M.
Aminur Rahman, A. A Rahim and K.
Marimuthu, 2013. Present culture status of
the endangered snakehead Channa striata
(Bloch, 1793). Asian Journal of Animal
and Veterinary Advances, 8(2): 369–375.
Prasad L., Dwivedi A. K., Dubey V. K., &
Serajuddin M., 2011. Reproductive
biology of freshwater murrel, Channa
punctatus (Bloch, 1793) from river
Varuna (A tributary of Ganga River) in
India. Journal of Ecophysiology and
Occupational Health, 11(1-2), 69–80.
Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm,
2009. Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất
cá giống. Nxb Nông nghiệp, thành phố Hồ
Chí Minh, 215 tr.
Nguyễn Thái Tự, 1983. Thành phần lồi và
đặc tính phân bố khu hệ cá lưu vực sơng
Lam. Luận án Phó tiến sĩ sinh học.
Xakun O. F. and A. N. Buskaia, 1968. Xác
định các giai đoạn phát dục và nghiên cứu
chu kỳ sinh dục của cá. Bản dịch từ tiếng
Nga của Lê Thanh Lựu. Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội.
Hojo Y., Hattori T. A., Enami T., Furukawa
A., Suzuki K., Ishii H. T., Mukai H.,
Morrison J. H., Janssen W. G. M.,
Kominami S., Harada, N., Kimoto T. and
Kawato S., 2004. Adult male rat
hippocampus synthesizes estradiol from
pregnenolone by cytochromes P45017α
and P450 aromatase localized in neurons.
Proceedings of the National Academy of
Sciences, 101(3): 865–870.
Mai Đình n, 1978. Định loại các lồi cá
nước ngọt các tỉnh phía bắc Việt Nam. Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 340 tr.
Walter R. C. and D. W. James, 2004.
Snakeheads (Pisces, Channidae). A
biological synopsis and risk assessment.
U.S, Geological survey Circular, 1251.
263