Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

BÀI học KINH NGHIỆM và LIÊN hệ THỰC TRẠNG nợ CÔNG của VIỆT NAM 1 bài học cho hy lạp, châu âu và thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 27 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: DIỄN BIẾN, TÁC ĐỘNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CUỘC KHỦNG
HOẢNG NỢ CƠNG HY LẠP
1. Diễn biến cuộc khủng hoảng
1.1. Những tiềm ẩn từ giai đoạn trước khi khủng hoảng bùng nổ
1.2. Sự bùng phát của cuộc khủng hoảng nợ cơng
1.3. Chính sách Hy Lạp áp dụng để khôi phục nền kinh tế.
2.
Tác động của khủng hoảng nợ cơng
2.1. Đối với chính Hy Lạp
2.2. Đối với nền kinh tế Châu Âu và toàn thế giới
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
1. Thâm hụt ngân sách
2.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm
3.
Sử dụng nguồn vốn khơng hiệu quả
4.
Thiếu tính minh bạch trong số liệu
5.
Tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ LIÊN HỆ THỰC TRẠNG NỢ
CÔNG CỦA VIỆT NAM
1. Bài học cho Hy Lạp, Châu Âu và thế giới
1.1. Với Hy Lạp
1.1.1.
Chính sách tiền tệ giảm phát và đồng Euro
1.1.2.
Chi tiêu Chính phủ
1.1.3.


Chính sách quản lý nợ cơng
1.2. Với Châu Âu và thế giới
2.
Liên hệ nợ công ở Việt Nam
2.1. Thực trạng nợ công Việt Nam
2.2. Cơ cấu nợ cơng Việt Nam
2.2.1. Nợ chính phủ
2.2.2. Nợ được chính phủ bảo lãnh
2.2.3. Nợ chính quyền địa phương
2.3. Gợi ý chính sách
2.3.1. Sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả
2.3.2. Ưu tiên rõ ràng trong chi tiêu nợ công
2.3.3. Thay đổi cách tính nợ cơng
2.3.4. Huy động vốn trong nước
2.3.5. Thực hiện kỷ luật tài khóa rõ ràng, nghiêm ngặt
2.3.6. Xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả
2.3.7. Chỉ định một “đầu mối” xử lý nợ công phù hợp
2.3.8. Minh bạch trong quản lý
2.3.9. Thu hút nguồn thu ngoại tệ
2.3.10. Xử lý nghiêm minh cán bộ có dấu hiệu sai phạm

download by :


MỤC LỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
Hình 1: Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp giai đoạn 2001-2009 (%)
Hình 2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp giai đoạn 2001-2009 (%)
Hình 3: Biểu đồ thể hiện tổng nợ chính phủ so với GDP giai đoạn 2001-2009 (%)
Hình 4: Biểu đồ thể hiện mức thâm hụt trung bình và tăng trưởng trung bình của Hy
Lạp giai đoạn 1999-2008 (%)

Hình 5: Mức độ nợ cơng trên GDP của Hy Lạp giai đoạn 2006-2018
Hình 6: Biểu đồ mức nợ công của Hy Lạp năm 2008-2018 (triệu euro)
Hình 7: Biểu đồ GDP Hy Lạp giai đoạn 1960-2020
Hình 8: Biểu đồ Tỷ lệ thất nghiệp Hy Lạp giai đoạn 1981-2020
Hình 9: Tốc độ tăng trưởng GDP của Hy Lạp giai đoạn 2006-2020( %)
Hình 10: Tỉ lệ nợ cơng trên GDP của Hy Lạp giai đoạn 2010-2014
Hình 11: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp 2008-2018(%)
Hình 12: Bảng số liệu thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách của EU năm 2009. (Đơn vị
tính: tỷ lệ phần trăm GDP)
Hình 13: Lợi suất trái phiếu chính phủ khu vực đồng tiền chung châu Âu ( đơn vị :
phần trăm)
Hình 14: Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ qua các năm. Đơn vị: % - Nguồn: CNN
Business
Hình 15: Tỉ lệ lạm phát của Hy Lạp so với Đức và khối Eurozone
Hình 16: GDP thực tế và nợ của Chính phủ Hy Lạp giai đoạn 1995-2015
Hình 17: Nợ cơng Việt Nam giai đoạn 2015-2019
Hình 18: Nợ nước ngồi của Chính phủ phân theo từng bên cho vay giai đoạn 20182019
Hình 19: Quy mơ nợ cơng của Việt Nam giai đoạn 2011-2020(% GDP)
Hình 20: Bảng tính tốn vay và trả nợ của Chính phủ giai đoạn 2015-2019
Hình 21: Dư nợ Chính phủ giai đoạn 2015-2019
Hình 22: Nợ của chính quyền địa phương giai đoạn 2015-2020

LỜI MỞ ĐẦU

download by :


Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục với cường độ mạnh và
diễn biến phức tạp gây ra những hậu quả nặng nề đối với các quốc gia công nghiệp phát
triển. Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến nền kinh tế chao đảo, đến

nay đang dần khơi phục lại tuy nhiên vẫn cịn dư âm. Năm 2010, nợ công vượt lên mức
quá cao so với mức an toàn ở những nền kinh tế phát triển, đang trở thành chủ đề nóng
bởi đó là yếu tố có nguy cơ đe dọa những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu,
làm lo ngại tới viện cảnh một lần nữa nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy giảm.
Sự hiện hữu của ‘bóng ma’ khủng hoảng nợ đã và đang làm đau đầu các nhà
lãnh đạo Liên minh Châu Âu. Chính điều đó đã đánh lên hồi chuông báo động cho tất
cả các nước trên thế giới phải suy nghĩ nghiêm túc về tình trạng nợ cơng của chính
quốc gia mình. Thiết nghĩ việc nghiên cứu “Khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp” là việc
hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay khơng chỉ ở Việt Nam mà cịn trong khu vực và
trên thế giới
Đây là đề tài khá rộng và có tính bao qt, trong giới hạn tiểu luận này, nhóm
học sinh lớp kinh tế vĩ mô KTE 203-K60.1 chỉ xin trình bày hiểu biết về những vấn đề
sau:
Chương I: Diễn biến, tác động và chính sách của cuộc khủng hoảng Hy Lạp - phân
tích diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ cơng Hy Lạp từ đó làm nổi bật tác động tới nền
kinh tế Hy Lạp, Châu Âu và toàn thế giới và những chính sách Hy Lạp áp dụng giúp
khôi phục nền kinh tế trong nước.
Chương II: Nguyên dân dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp - Phân tích để
làm rõ nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn tới sự suy giảm trầm trọng của nền kinh tế
Hy Lạp.
Chương III: Bài học kinh nghiệm và liên hệ thực trạng nợ công tại Việt Nam Kinh nghiệm đối với Hy Lạp, Châu Âu và thế giới rút ra từ cuộc khủng hoảng nợ cơng
đồng thời trình bày thực trạng nợ công của Việt Nam và gợi ý chính sách.
Bài nghiên cứu cịn nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý.

NỘI DUNG

download by :


CHƯƠNG I: DIỄN BIẾN, TÁC ĐỘNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CUỘC

KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HY LẠP
1. DIỄN BIẾN
1.1. Giai đoạn trước sự bùng phát khủng hoảng trầm trọng
Hy Lạp là một quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Nam Âu. Ngày 1 tháng 1
năm 1981, Hy Lạp trở thành thành viên thứ 10 của Liên minh châu Âu. Nền kinh tế Hy
Lạp đã phát triển rất nhanh chóng với một nguồn vốn đầu tư lớn của nước ngoài đổ vào
Hy Lạp để hiện đại hóa hệ thống hạ tầng cơ sở của nước này, xây dựng nền kinh tế Hy
Lạp theo hướng hiện đại. Dịch vụ và du lịch ngày càng phát triển đã góp phần nâng cao
mức sống của người dân.
Dân số Hy Lạp khoảng 11,1 triệu người (năm 2009 theo International
monetary fund) chiếm 2,5% dân số EU. Giai đoạn 2001-2009, Hy Lạp có GDP bình
qn đầu người (current prices) trung bình khoảng 22,66 nghìn USD, tỷ lệ thất nghiệp
trung bình là 9,4% (trong khi tỷ lệ này của EU là là 8,9%) nhưng lại duy trì được tốc độ
tăng trưởng cao so với các nước trong EU
Cơ cấu kinh tế của Hy Lạp năm 2009 như sau: Dịch vụ 76%, cơng nghiệp 20,6%,
nơng nghiệp 3,4%. Trong đó du lịch là ngành thế mạnh của Hy Lạp, là nguồn thu ngoại
tệ chủ yếu, đóng góp 15% GDP. Bên cạnh đó các ngành khác như tài chính ngân hàng,
viễn thông, sản xuất thiết bị công nghệ cao cũng phát triển mạnh tại Hy Lạp.
Những chính sách cải cách kinh tế hợp lý cùng với việc gia nhập Liên minh châu
Âu đã giúp nền kinh tế Hy Lạp phát triển mạnh mẽ, đồng thời nâng cao mức sống cho
người dân Hy Lạp. Chỉ số phát triển con người của Hy Lạp xếp thứ 22 thế giới, tốc độ
tăng trưởng thường xuyên nằm ở mức cao so với các nước trong Eurozone. Bình quân
giai đoạn 2001- 2009, GDP của Hy Lạp tăng khoảng 2,7%, trong đó năm 2009 GDP đạt
khoảng 328,16 triệu USD, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 29,58 nghìn USD.
Hình 1: Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp giai đoạn 2001-2009 (%)

Theo International monetary fund, kinh tế Hy Lạp tăng trưởng hàng năm khoảng
3,65% trong giai đoạn từ 2004-2007 do một phần là chi tiêu cho thế vận hội Athens
2004 và phần còn lại là sự gia tăng tín dụng mà đóng góp đáng kể là sự gia


download by :


tăng của tín dụng tiêu dùng. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng đạt đỉnh điểm là 5,7%, cao
hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của EU với 3,7%.
Năm 2008, tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp chỉ còn là -0,3%- đây được xem là sự
tụt dốc không phanh trong tăng trưởng của kinh tế nước này. Năm 2009, GDP tăng
trưởng đạt mức -4,3% là kết quả của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, các biện pháp
tín dụng và thất bại của Athens để giải quyết thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, gây ra
do các nguồn thu của nhà nước không kịp với nhu cầu chi tiêu của chính phủ, thậm chí
một số loại thuế cịn chịu áp lực cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Nợ công, lạm phát, thất nghiệp của Hy Lạp luôn ở mức cao so với khu vực
Eurozone. Năm 2009, tình trạng thất nghiệp tăng cao, lên đến 9,6% là do những tác
động của khủng hoảng tài chính.
Hình 2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp giai đoạn 2001-2009 (%)

Đến tháng 2/2009, thủ tướng Hy Lạp thừa nhận rằng nền kinh tế Hy Lạp đang trong
tình trạng cần đặc biệt quan tâm khi bộ trưởng tài chính Châu Âu nhấn mạnh mối lo
ngại về quy mô khoản nợ công rất lớn của đất nước này.

Hình 3: Biểu đồ thể hiện tổng nợ chính phủ so với GDP giai đoạn 2001-2009 (%)

download by :


Có thể thấy trong suốt thập kỷ trước khi khủng hoảng tài chính bắt đầu vào năm
2008, chính phủ Hy Lạp đã vay mượn rất nhiều từ nước ngoài để bù đắp cho thâm hụt
ngân sách và tài khoản vãng lai. Khủng hoảng chính thức bùng nổ mạnh mẽ sau đó
nhưng những tiềm ẩn nguy từ trước vẫn là vấn đề đáng quan tâm:
- 2001: Hy Lạp gia nhập Eurozone

Hy Lạp được mời vào khu vực đồng tiền chung từ trước đó (tháng 6/2000). Sau
khi gia nhập, nước này trở thành thành viên thứ 12 của Eurozone, bỏ đồng Drachma để
dùng Euro. Để đạt chuẩn, nước này phải chứng minh có nền kinh tế khỏe mạnh, đạt các
tiêu chí về giá cả ổn định và tài chính cơng.
- Tháng 8/2004: Hy Lạp tổ chức Olympic Athens
Giữa năm 2004, Hy Lạp chi tới 9 tỷ euro để tổ chức Olympic, biến Thế vận hội
mùa hè năm 2004 trở thành kỳ Olympic “đắt đỏ nhất” tại thời điểm đó. Tuy nhiên
những cơng trình được xây dựng cho vận động viên, người hâm mộ và giới truyền
thơng sau đó lại hầu như khơng được sử dụng và ngày càng xuống cấp. Olympic Athens
được coi là nguyên nhân trực tiếp đẩy Hy Lạp vào cuộc khủng hoảng nợ kéo dài suốt
giai đoạn này. Lạm chi cho Olympic đã làm tăng nợ công và thâm hụt ngân sách của
nước này.
- 2004: Hy Lạp thừa nhận thổi phồng số liệu
Cuối năm 2004, Chính phủ Hy Lạp thừa nhận đã thổi phồng các số liệu điều
kiện để gia nhập Eurozone, đặc biệt là thâm hụt ngân sách giai đoạn 2000-2003.
Điều kiện của Eurozone là thâm hụt dưới 3% GDP. Tuy nhiên, sau cuộc điều tra của Cơ
quan Thống kê Liên minh Châu Âu - Eurostat, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp thừa nhận
số liệu này chưa từng dưới 3% từ năm 1999.
- Tháng 2/2007: Khởi phát cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu
Thị trường thế chấp dưới chuẩn của Hoa Kỳ sụp đổ sau khi bong bóng nhà đất
vỡ vào năm 2006.Cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ cuối cùng gây ra một cuộc khủng
hoảng ngân hàng toàn cầu và cuộc khủng hoảng tín dụng kéo dài đến năm 2009, làm
sụp đổ tài sản tài chính tồn cầu Lehman Brothers và khiến chính phủ phải cứu trợ các
ngân hàng ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Khi chi phí đi vay tăng lên và nguồn tài chính cạn
kiệt, Hy Lạp không thể trả được nợ và khoản nợ ngày càng tăng.
Thêm vào đó, Hy Lạp có mức thâm hụt trung bình cao nhất của EU và thấp hơn
mức tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 1999-2008.

download by :



Hình 4: Biểu đồ thể hiện mức thâm hụt trung bình và tăng trưởng trung bình của Hy Lạp giai
đoạn 1999-2008

)

Giai đoạn 2001-2008, báo cáo thâm hụt ngân sách trung bình của nước này là
5%/năm so với mức 2% trung bình của khu vực Châu Âu và thâm hụt tài khoản vãng lai
vào khoảng trung bình 9%/ năm so với trung bình chung 1% của khu vực theo thống kê
của IMF (World Economic Outlook, October 2009). Vào năm 2009, thâm hụt ngân sách
ước đoán hơn 13% GDP. Nguyên do chủ yếu cho tình trạng này là do chi tiêu quá nhiều
của Chính phủ. Cũng trong năm 2009, tình trạng thâm hụt gấp đôi của nước này tiếp tục
được tài trợ khiến tỷ lệ nợ nước ngoài tăng lên khoảng 116,76% GDP. Cả thâm hụt ngân
sách lẫn nợ nước ngoài đều trên mức cho phép theo quy định của liên minh tiền tệ và
kinh tế EU.
Niềm tin của Hy Lạp đối với các khoản tài trợ nước ngoài cho việc bù đắp thâm
hụt ngân sách và cán cân vãng lai khiến cho nền kinh tế bị tổn thương nghiêm trọng và
giảm niềm tin của các nhà đầu tư.
1.2. Khủng hoảng chính thức bùng nổ
Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2007-2008 ảnh hưởng ít nhiều đến sự
bền vững của nền kinh tế Hy Lạp. Vào khoảng giữa năm 2009, Thủ tướng Hy Lạp đã
tiết lộ thâm hụt ngân sách nhà nước thực chất khác xa so với những báo cáo trước,
cơng bố ước tính mức thâm hụt ngân sách năm 2009 là 12,7% GDP, cao hơn nhiều so
với con số ước tính hiện tại của thị trường lúc đó là 6,7% GDP, một sự chênh lệch gần
như gấp đôi con số ước tính ban đầu và gấp 4 lần cho phép của 1 quốc gia sử dụng
đồng tiền Euro(3%). Tỷ lệ nợ công trên GDP cũng ngày càng tăng,với mức nợ công
lên đến 126.7%. Đến cuối tháng 11/2009, giới phân tích dấy lên lo ngại về nguy cơ vỡ
nợ hàng loạt của các quốc gia trong khu vực châu Âu trước sức ép của khủng hoảng tài
chính tồn cầu từ năm 2008 và nợ nước ngoài của Hy Lạp quá cao. Tình trạng khủng
hoảng nợ càng tồi tệ hơn khi tính minh bạch trong cơng khai thơng tin nợ của Chính phủ

khơng được đảm bảo. Các nghi ngờ về sửa số liệu, che giấu mức độ nợ và sự khai báo
sai lệch về thu nhập thật sự đã khiến lòng tin của giới đầu tư vào

download by :


Hy Lạp càng sụt giảm nặng nề, cũng như niềm tin của các nhà đầu tư vào triển vọng
tương lai của Hy Lạp.
Hình 5: Mức độ nợ cơng trên GDP của Hy Lạp giai đoạn 2006-2018

(Ngay từ ban đầu, Hy Lạp đã khơng có đủ điều kiện để tham gia Eurozone. Với
mức nợ công/GDP là 98,9% cao hơn mức tiêu chuẩn của Eurozone là 60%, Hy Lạp đã
“hô biến” số liệu, chỉnh sửa sao cho phù hợp với mức đạt yêu cầu để được tham gia vào
khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Kể từ khi Hy Lạp nắm quyền sử dụng đồng Euro,
tình trạng vay mượn của Hy Lạp càng ngày càng nghiêm trọng, để rồi vào năm 2009,
khi chính phủ mới lên nắm quyền, tất cả mọi thứ mới dần được tiết lộ…)
Việc Hy Lạp khai gian số liệu vào năm 2009 đã khiến cho các tổ chức tài chính
quốc tế hạ tín nhiệm của Hy Lạp, làm thành Athens khó khăn hơn trong việc kiếm các
khoản vay mới. Tuy vậy, chính phủ Hy Lạp vẫn tiếp tục chào bán thành công các đợt
trái phiếu để huy động vốn cho việc chi tiêu. Chính phủ Hy Lạp đã vay được 10,6 tỷ
USD vào tháng 01/2010, 6,7 tỷ USD vào tháng 3/2010 và 2,07 tỷ USD vào tháng
4/2010 với mức lãi suất rất cao. Ngồi ra, Hy Lạp cịn vay thêm 71,8 tỷ USD bằng các
thỏa thuận trực tiếp với các nước và tổ chức tài chính quốc tế để thanh toán các khoản
lãi và nợ gốc với thời gian đáo hạn đến gần. Động thái này càng làm cho nợ công của
Hy Lạp tăng, trong khi năng lực trả nợ rất giới hạn. Nền kinh tế Hy Lạp càng lún sâu
xuống lầy của khả năng vỡ nợ. Và ngày 23/4/2010, Hy Lạp tuyên bố mất khả năng trả
nợ và chính thức kêu gọi hỗ trợ tài chính
Để tránh được tương lai mù mịt của việc vỡ nợ của Hy Lạp, ngày 20/5/2010, bộ
ba Troika gồm Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund-IMF), Ủy ban Châu
Âu (European Commission) và Ngân hàng Trung ương Châu Âu(ECB) đã ra quyết định

cho Hy Lạp vay 110 tỷ Euro(144 tỷ USD) trong thời hạn 3 năm, với lãi suất 5%/năm.
Đổi lại, Hy Lạp phải cam kết cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 12% trong năm
2010 và đưa về dưới mức 3% theo tiêu chuẩn của Liên minh châu Âu vào năm 2013
,đồng nghĩa với việc phải chấp nhận điều khoản phải cắt giảm chi tiêu, đồng thời tăng
mức thuế và cải cách thể chế xã hội bằng biện pháp tài chính thắt chặt. Dù đã có sự hỗ
trợ của Troika, Hy Lạp vẫn còn đứng trên bờ vực vỡ nợ, khi nợ cơng chiếm 175.2%
GDP vào năm 2011, cịn tăng 27.7% so với năm 2010. Tháng 2 năm 2012, EU

download by :


lại đưa ra khoản hỗ trợ tài chính thứ 2 cho Hy Lạp giá trị 130 tỷ Euro (166.67 tỉ USD),
với 48 tỷ Euro để tái vốn hóa các ngân hàng, và trong đó có cả 53.5% số tiền ứng là
khoản xóa nợ cho các doanh nghiệp với điều kiện Hi Lạp có thể giảm mức nợ xuống
120.5% vào năm 2020, đồng nghĩa với việc Hy Lạp phải “thắt lưng buộc bụng”, sử
dụng nguồn vốn chi tiêu chính phủ ít nhất có thể và tăng thuế, và giảm mức lương tối
thiểu của người dân 22%. Kể cả lần hỗ trợ thứ 2 này, cũng như lần 1, cũng kết thúc
trong thất bại. Sau đó, vào tháng 7 cùng năm, chủ tịch ECB thơng báo rằng sẽ làm bất
cứ điều gì để cứu đồng Euro, để rồi tháng 9 năm đó, ơng đã tun bố chính thức chương
trình khơng giới hạn về việc mua trái phiếu để cứu lấy các vùng Eurozone đang gặp khó
khăn, trong đó có Hy Lạp. Tháng 12, IMF cho Hy Lạp vay thêm 8.2 tỷ Euro (10.5 tỷ
USD) và giảm lãi suất để khiến Hy Lạp giảm tỷ lệ nợ trên GDP xuống 124%. Sau đó,
nhờ các biện pháp tài chính thắt chặt, tình trạng khủng hoảng đã dần hạ nhiệt. Trái lại,
biện pháp tài khóa đã khiến cho 25000 công dân lao động của Hi Lạp bị đào thải, cùng
với đó là sự chồng chất càng ngày càng lớn của cắt giảm lương, tăng mạnh trong thất
nghiệp, cải cách thuế và nhiều sự giảm chi tiêu chính phủ khác. Đây là ngọn đuốc châm
ngịi cho nhiều cuộc phản đối của các cộng đồng người dân Hy Lạp. ( trước đó cũng đã
có nhiều cuộc nổi dậy phản đối IMF)
Hình 6: Biểu đồ mức nợ cơng của Hy Lạp năm 2008-2018 (triệu euro)


Năm 2014, triển vọng của nền kinh tế Hy Lạp rất lạc quan. Chính phủ dự đoán
thặng dư cơ cấu trong năm 2014, mở ra khả năng tiếp cận thị trường cho vay tư nhân
đến mức tồn bộ thiếu hụt tài chính cho năm 2014 được bù đắp thông qua bán trái phiếu
tư nhân. Tháng 4 năm 2014, các nhà đầu tư đã chào mừng Hy Lạp quay lại thị trường
trái phiếu sau 4 năm vắng bóng, khiến nhiều người gọi đây là " điểm bắt đầu của sự kết
thúc" .Sự cứu chữa IMF và EU cung cấp tuy vậy không thể làm nguôi ngoai tình trạng
thất nghiệp với tỷ lệ thất nghiệp tăng kỷ lục 27% trong các nước EU, cùng với việc
người dân phải chịu sống trong hoàn cảnh cùng cực, nghèo đói, nhiều người phải di cư
kiếm sống.
Năm 2015, đảng cánh tả chống biện pháp "thắt lưng buộc bụng" của IMF giành
chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử chớp nhoáng với sự điều hành Thủ tướng Alexis
Tsipras đã phá vỡ hơn 40 năm chế độ 2 đảng. Ơng nói rằng sẽ có một đàm phán với
Troika về các thỏa thuận trong cứu trợ tài chính, cắt giảm nợ cũng như thay đổi chi tiêu
của cơng chúng. Đây cũng có thể lối thoát của Hy Lạp ra khỏi Eurozone. Tuy vậy, đề
nghị của Alexis không được thông qua, và ông cũng phải chấp nhận gói cứu trợ

download by :


lần thứ 3 của IMF giá trị 86 tỷ Euro( lúc trước, 3-6-2015, Hy Lạp đã khơng hồn trả
được khoản nợ 1.6 tỷ đô của IMF). Tuy vậy, lần này Troika sẽ trực tiếp giám sát sự điều
hành của nền kinh tế và hành chính cơng nước này, và bắt buộc áp đặt sự tăng thuế
thêm nữa.
Vào ngày 20 tháng 2 năm 2017, Bộ Tài chính Hy Lạp báo cáo rằng gánh nặng
nợ của chính phủ đã đạt 226,36 tỷ Euro sau khi tăng 2,65 tỷ Euro trong quý trước. Đến
giữa năm 2017, lợi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp bắt đầu đạt mức trước năm 2010,
báo hiệu khả năng trở lại bình thường kinh tế cho đất nước. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), GDP của Hy Lạp ước tính tăng 2,8% trong năm 2017.Sau đó, ngày 2/5/2017,
Chính phủ Hy Lạp và các chủ nợ gồm Liên minh châu Âu (EU), Ngân hàng trung ương
châu Âu (ECB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã đạt được thỏa thuận sơ bộ về các biện

pháp "thắt lưng buộc bụng" để đổi lấy gói cứu trợ tài chính thứ 3 trị giá 86 tỷ Euro
Năm 2018 là năm gói hỗ trợ thứ 3 của Troika hết hạn, và cũng đặt dấu chấm đằng
sau cho hơn 8 năm khủng hoảng của nền kinh tế Hy Lạp. Nền kinh tế Hy Lạp cũng
bước dần sang trang mới. Mặc dù tỷ lệ nợ công trên GDP vẫn ở mức 180%, tỷ lệ thất
nghiệp giảm đáng kể xuống từ 27% xuống khoảng 20%.
1.3. Chính sách Hy Lạp đã áp dụng giúp khôi phục nền kinh tế
Tại Hy Lạp, trong hành trình giải cứu khỏi nguy cơ vỡ nợ, quốc gia này đã thực
hiện liên tục năm đợt chính sách nhằm tăng nguồn thu cũng như giảm chi tiêu chính
phủ, cụ thể:
Đợt đầu tiên vào tháng hai năm 2010, chính phủ quyết định khơng tăng lương
công chức, cắt giảm 10% phụ cấp, cắt lương làm thêm giờ…
Đợt thứ hai diễn ra chỉ một tháng sau đó, tiền phụ cấp giảm tiếp 12%, 46 lương
cơng chức cũng giảm 7%, thuế giá trị gia tăng tăng từ 19% lên 21%, cùng hàng loạt các
loại thuế mới được đặt thêm.
Hai tháng sau đó, đợt thứ ba được ban hành. Lần này chính phủ giảm cả lương
hưu, tăng tuổi về hưu, thuế giá trị gia tăng lại tăng tiếp lên 23%.
Sang đến giữa năm 2011, đợt thứ tư diễn ra. Lương hưu lại tiếp tục bị cắt giảm,
các đối tượng có thu nhập cao bị đánh thuế mạnh hơn, cùng với việc gia tăng thuế bất
động sản cùng các tài sản có giá trị khác.
Cuối cùng đầu năm 2012, chính phủ lại tiếp tục cắt giảm tiền lương tối thiểu, sửa
đổi luật tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh nhiều hơn và sa thải được nhiều
nhân công hơn, các chi tiêu cơ bản cho y tế và quốc phịng cũng bị cắt giảm. Việc liên
tục phải có những chính sách mới nhằm làm giảm thâm hụt là do khi đã thực hiện chính
sách thắt chặt, kinh tế suy thối dẫn đến nguồn thu khơng nhiều, hiệu quả của các chính
sách khơng cao và chính phủ lại tiếp tục phải có những chính sách mới thắt chặt hơn
nữa (Nelson, Belkin & Mix, 2010).
Những khoản tiền được bộ ba chủ nợ bơm vào nền kinh tế Athens kèm theo
những yêu cầu về cải cách kinh tế cũng đã giúp tình trạng nợ cơng và thất nghiệp của
Hy Lạp từ mức cao nhất trong lịch sử xuống mức an toàn. Cụ thể, trong vòng 8 năm,
25% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Hy Lạp đã “bốc hơi”, song từ năm 2017, GDP

của nước này tăng trở lại.

download by :


Hình 7: Biểu đồ GDP Hy Lạp giai đoạn 1960-2020

Tỷ lệ thất nghiệp cũng từ mức cao hơn 27%, giảm xuống cịn dưới 20%.

Hình 8: Biểu đồ Tỷ lệ thất nghiệp Hy Lạp giai đoạn 1981-2020

Hồi tháng 6-2018, Athens đã đạt thỏa thuận với các chủ nợ trong Eurozone, qua
đó gia hạn thêm 10 năm để nước này thanh toán các khoản nợ cơng của mình, hiện
ở mức tương đương 180% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và vẫn là mức cao nhất
trong EU. Thỏa thuận này cũng cho phép Hy Lạp khơng cịn phải phụ thuộc vào chương
trình cứu trợ của nước ngoài từ ngày 20-8 tới
➞Thỏa thuận nêu trên là một bước ngoặt quan trọng đối với khu vực Eurozone sau gần
một thập niên kể từ cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp đã khiến thế giới choáng váng vì
những khoản chi tiêu vượt tầm kiểm sốt.
Ngày 20-8-2018 cuộc khủng hoảng nợ tại Hy Lạp đã chấm dứt.

download by :


Nền kinh tế Hy Lạp đã phát đi những tín hiệu khả quan sau khi nước này tiến hành các
cải cách cơ bản về thuế và môi trường kinh doanh, tạo đà cho sự phục hồi kinh tế mạnh
mẽ hơn. Các dự án hạ tầng cơng cộng có thể thúc đẩy đầu tư vào các lĩnh vực du lịch và
logistics, qua đó góp phần nâng dự báo tăng trưởng kinh tế của quốc gia Đông Nam Âu.
2. TÁC ĐỘNG
2.1. Tác động lên Hy Lạp

- Bị hạ xếp hạng tín dụng, lãi suất trái phiếu chính phủ tăng:
Thâm hụt ngân sách triền miên và tỷ lệ nợ công trên GDP cao của Hy Lạp trong
giai đoạn 2009-2011 đã khiến giới đầu tư quốc tế hết sức quan ngại về khả năng thanh
toán các khoản nợ khổng lồ này. Kết quả là S&P, Moody’s và Fitch liên tục hạ xếp hạng
tín dụng của trái phiếu chính phủ nước ngồi, có giai đoạn hạ xuống mức CCC (theo
Fitch đây là mức cận kề phá sản) khiến cho việc Chính phủ Hy Lạp vay thêm nợ mới
hết sức khó khăn.
Do xếp hạng tín dụng liên tục giảm nên giá trái phiếu chính phủ cũng giảm theo,
do vậy để huy động được vốn từ nguồn này buộc Chính phủ Hy Lạp phải liên tục nâng
lãi suất của các chứng khốn chính phủ.
- Cắt giảm chi tiêu mạnh mẽ:
Đứng trước nguy cơ vỡ nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải áp dụng chính sách tài
khóa thắt chặt hết sức ngặt nghèo để cải thiện tình hình ngân sách. Chính phủ đã chủ
động cắt giảm mạnh các khoản chi tiêu và gia tăng nguồn thu chủ động từ thuế, cụ thể
là: Tăng các loại thuế, đánh thuế vào các mặt hàng xa xỉ, giảm chi tiêu công (chi tiêu
cho giáo dục, quân sự và an sinh xã hội), tư hữu hóa các doanh nghiệp quốc doanh, sa
thải công chức và giảm chi tiêu y tế.
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm
Khi tăng thuế, môi trường đầu tư kém hấp dẫn, do vậy ở thời kỳ khủng hoảng nợ
công này, FDI vào Hy Lạp liên tục giảm.
- Tăng trưởng GDP sụt giảm
Trước khi xảy ra khủng hoảng, Hy Lạp là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá ấn tượng trong khu vực, với mức tăng trưởng hàng năm đạt trung bình 4%
(giai đoạn 2003 – 2007) nhưng sau khi khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Hy
Lạp sụt giảm mạnh.
Hình 9: Tốc độ tăng trưởng GDP của Hy Lạp giai đoạn 2006-2020( %)
GDP growth (annual %)- Greece in 2006 to 2020_(source: The world bank)

download by :



Từ 2009 đến 2012, GDP Hy Lạp giảm hơn 25% do chính sách tài khóa.
Điều này gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỷ lệ nợ công trên GDP- vấn đề
then chốt quyết định tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng, tăng từ 127%
(2009) đến 175% (2014) (chỉ vì sự sụt giảm GDP với tiền nợ không đổi). Vào
năm 2013, IMF thừa nhận rằng đã đánh giá thấp tầm ảnh hưởng của việc tăng
thuế và cắt giảm chi tiêu đến GDP Hy Lạp. Thủ tướng Alexis Tsipras nói với tờ
Bloomberg về sai lầm trong thiết kế của 2 khoản trợ cấp đầu tiên, điều mà ông
cho rằng đã dẫn đến sụt giảm 25% tổng GDP.

Hình 10: Tỉ lệ nợ cơng trên GDP của Hy Lạp giai đoạn 2010-2014

- Thất nghiệp gia tăng và chất lượng cuộc sống người dân
Việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ tác động tiêu cực đối với môi trường
kinh doanh trong nước làm giảm hoạt động đầu tư, khiến cho công ăn việc làm

download by :


tạo ra ngày càng ít đi, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, cộng với chính sách “thắt lưng
buộc bụng” khiến cho tình trạng thất nghiệp tại quốc gia này càng trầm trọng.
Tỷ lệ thất nghiệp tăng từ dưới 10% (2005-2009) đến khoảng 25% (20142015).
Hình 11: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp 2008-2018(%)

Ảnh hưởng xã hội của chính sách tài khóa lên người dân rất nghiêm trọng.
Vào năm 2012, một bài báo cáo chỉ ra rằng: 20,000 người dân đã trở thành người
vô gia cư trong thời kỳ suy thoái, xấp xỉ 36% người dân sống dưới mức nghèo
năm 2014. Năm 2015, OECD công bố rằng gần 20% người Hy Lạp thiếu nguồn
tiền để phục vụ các bữa ăn hàng ngày.
Cho đến nay, trốn thuế ngày càng mở rộng trên quy mô lớn do càng nhiều

người hoạt động trong nền kinh tế ngầm (hiện chiếm 21,5% GDP). Nhiều công
việc hiện nay đều là làm bán thời gian và trả lương ít hơn giai đoạn trước khủng
hoảng.Vì vậy, Hy Lạp chứng kiến tỉ lệ “chảy máu chất xám” ngày càng gia tăng.
Các ngân hàng chưa hoàn toàn phục hồi, và thận trọng hơn trong việc cho vay vốn
đầu tư
2.2. Tác động lên nền kinh tế Châu Âu và thế giới:
Tác động đầu tiên của cuộc khủng hoảng nợ cơng châu Âu chính là việc
đồng Euro liên tục trượt giá so với các đồng tiền khác. Điều này gây thiệt hại
nặng nề cho tất cả các quốc gia thành viên trong khối Eurozone. Biến động tỷ giá
ảnh hưởng trực tiếp lên cán cân thương mại, do chi phí cho các hàng hóa nhập
khẩu gia tăng theo đà suy giảm của đồng Euro. Thêm nữa, bên cạnh việc nhận
viện trợ từ EU và IMF, các quốc gia này cũng phải tập trung nguồn lực tài khóa
để chống chọi với cuộc khủng hoảng, trong khi dư âm từ cuộc khủng hoảng tài
chính tồn cầu cuối năm 2007 vẫn chưa hồn tồn được dập tắt. Hậu quả trực
tiếp từ những chính sách thắt chặt ngân sách tại khu vực này làm cho tăng trưởng
kinh tế đều thấp và thậm chí có tăng trưởng âm. Nền tài chính của nhiều nước
suy yếu nghiêm trọng và có thể phải mất nhiều năm mới phục hồi. Các ngân
hàng và các tổ chức tài chính cũng có nguy cơ phá sản hàng loạt nếu như khu
vực đồng tiền chung châu Âu tan vỡ.

download by :


Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu cũng tác động lên nhóm các quốc gia
đang phát triển. Sự sụt giá của đồng Euro làm cho giá trị xuất khẩu của các quốc
gia này sụt giảm, dẫn đến suy giảm kinh tế. Nếu khu vực Eurozone xử lý nợ
thiếu hiệu quả hoặc tồi tệ hơn là tan vỡ, mức tăng trưởng sẽ còn thấp hơn nhiều
vào năm 2012 và tiếp tục giảm vào năm 2013.

CHƯƠNG II: Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ cơng Hy Lạp

1. Chi tiêu chính phủ quá lớn trong khi nguồn thu giảm sút gây ra thâm hụt
ngân sách
Trong giai đoạn 2001-2007, tốc độ tăng GDP của Hy Lạp trung bình là 4.3%,
cao hơn so với khu vực châu Âu là 3.1%. Nguyên do của việc này chủ yếu đến từ sự gia
tăng nhanh ở khu vực tư nhân và chi tiêu từ chính phủ mà EU tài trợ cho đầu tư. Thế
nhưng trong khi chi tiêu chính phủ tăng đến 87% thì doanh thu thuế chỉ tăng có 31%
dẫn tới thâm hụt ngân sách nặng nề, vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU. Các
nhân tố chính dẫn đến việc này là: các hệ thống y tế và trợ cấp lương hưu tốn kém, việc
thiếu ý thức của người dân trong việc đóng thuế, tổ chức các hoạt động kinh tế ngầm, kỉ
luật tài khóa lỏng lẻo và việc quản lý thiếu hiệu quả của Hy Lạp. Chúng ta sẽ tìm hiểu
qua từng nhân tố.
Đầu tiên, hệ thống lương hưu của Hy Lạp thuộc hạng tốt nhất châu Âu. Theo
OECD, tỷ lệ lương hưu tại đây là 70- 80% mức lương chính và trợ cấp lương hưu chỉ
đòi hỏi 35 năm làm việc so với 40 năm ở nhiều nước khác. Thế nên, với trung bình độ
tuổi trên 64 của người dân Hy Lạp là 19% tại năm 2007 và được dự đoán sẽ tăng đến
32.1% năm 2060 thì sẽ tăng gánh nặng cho các khoản chi tiêu công cộng và hệ thống
trợ cấp lương hưu này. Bên cạnh đó, tổng số tiền trợ cấp cơng cộng của Hy Lạp dự đốn
là sẽ tăng từ 11.5% GDP năm 2005 đến 24% GDP năm 2050. Thứ hai là vấn đề quản lí
của Hy Lạp, theo OECD, chi tiêu cho quản lí cơng trong tổng số chi tiêu công của Hy
Lạp đã cao hơn nhiều so với các nước thành viên OECD nhưng chất lượng và số lượng
dịch vụ không được cải thiện nhiều. Năm 2009 chi tiêu cơng của chính phủ Hy Lạp
chiếm đến 50% GDP thế nhưng chính phủ vẫn muốn tiếp tục hiện đại hóa và củng cố
vấn đề quản lí tổng chi tiêu cơng. Tuy nhiên kết quả nhận được là có quá đông nhân
viên và năng suất thấp dẫn đến cản trở việc tăng trưởng kinh tế. Ngồi ra, các ngành
cơng nghiệp chủ chốt của Hy Lạp đều bị ảnh hưởng khá mạnh bởi khủng hoảng tài
chính tồn cầu năm 2008 dẫn đến kinh tế Hy Lạp lâm vào tình trạng khó khăn, ngân
sách nhà nước ít được tài trợ thêm. Mà để kích thích kinh tế thì Hy Lạp phải tăng cường
chi tiêu chính phủ, việc này đã làm trầm trọng thêm thâm hụt ngân sách. Ngoài ra kỷ
luật tài khóa lỏng lẻo cũng gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng của thâm hụt ngân
sách. Đặc biệt là vào năm 2009, q trình kiểm sốt kinh tế tiến hành đã trở nên tồi tệ

và lỏng lẻo hơn mức bình thường, nhất là trong các cuộc bầu cử chính trị. Hơn nữa việc
chi tiêu thiếu hợp lý, “chi nhiều hơn thu” kéo dài và hệ thống phúc lợi ngày càng lớn
cũng đẩy tình trạng thâm hụt ngân sách vượt mức kiểm soát.
Cuối cùng, vấn đề trốn nợ và nền kinh tế ngầm tại Hy Lạp được các nhà kinh tế
cho là nhân tố chính cho việc mất cân bằng cán cân ngân sách. Theo đánh giá của Ngân
hàng thế giới (WB) cho thấy nền kinh tế ngầm của Hy Lạp chiếm từ 25-30% GDP. Hệ
thống thuế với nhiều mức thuế cao và sự thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và phát triển nền kinh tế ngầm ở Hy Lạp.

download by :


2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm và mức tiết kiệm trong nước thấp dẫn đến
giảm mức độ cạnh tranh quốc tế, ngồi ra cịn phải vay nợ nước ngồi cho chi tiêu
cơng
Sau năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của Hy Lạp bắt đầu thấp hơn so với mức
mà Cơ quan Thống kê Hy Lạp dự báo. Nền công nghiệp của Hy Lạp cũng đã giảm sút
về cạnh tranh quốc tế. Và những tác nhân chính của việc này được các nhà kinh tế cho
là vấn đề tiền lương và năng suất lao động thấp. Nhìn vào bảng dưới đây ta thấy được
GDP/người của Hy Lạp thấp gần nhất EU và tình trạng thâm hụt ngân sách nặng nề
nhất EU đủ để thấy mức độ cạnh tranh của Hy Lạp đã bị sụt giảm nhiều trong cuộc
khủng hoảng nợ cơng này.
Hình 12: Bảng số liệu thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách của EU năm 2009. (Đơn vị
tính: tỷ lệ phần trăm GDP)

Ngồi ra, tiết kiệm trong nước của Hy Lạp thấp dẫn tới vay nợ nước ngồi cho
chi tiêu cơng. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp trong cuối thế kỉ XX chỉ
ở mức 10-12% GDP. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn
đến từ bên ngoài, ngoài ra do mất độ tin tưởng khi rủi ro của trái phiếu chính phủ Hy
Lạp là cao hơn bất kỳ chính phủ trong Eurozone nào khác theo bảng dưới đây, dân

chúng đã tạo ra các làn sóng bán tháo trái phiếu đã làm giảm cung tiền tức khả năng huy
động vốn khiến Chính phủ Hy Lạp phải tăng cường vay nợ nước ngoài để đảm bảo cho
chi tiêu cơng.
Hình 13: Lợi suất trái phiếu chính phủ khu vực đồng tiền chung châu Âu ( đơn vị :
phần trăm)

download by :


3. Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngồi và việc sử dụng nguồn vốn
khơng hiệu quả.
Hy Lạp gia nhập Eurozone từ năm 2001 và có cơ hội tiếp cận được với thị
trường vốn quốc tế khi sử dụng đồng tiền Euro làm đồng tiền quốc gia, một hệ thống
tiền tệ được các nền kinh tế phát triển như Đức và Pháp bảo đảm và một chính sách tiền
tệ chung được quản lý bởi Ngân hàng trung ương châu Âu. Nhờ việc gia nhập
Eurozone, Hy Lạp đã có được nhiều sự tin tưởng của các nhà đầu tư quốc tế và dễ dàng
thu hút và tiếp cận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp hơn so với
các nước không sử dụng đồng tiền chung châu Âu. Đáng lẽ với ưu đãi này thì nền kinh
tế của Hy Lạp đã tiến xa hơn rất nhiều tuy nhiên với kế hoạch chi tiêu khơng hợp lý thì
ưu đãi này lại khiến cho mức nợ của Hy Lạp càng ngày càng tăng và nhanh chóng đạt
mức độ cao.
4. Vấn đề thi hành theo qui định của EU, sự thiếu tính minh bạch trong số liệu
thống kê và mất niềm tin của các nhà đầu tư.
Năm 1997, EU đã cho thông qua hiệp ước về tính ổn định và phát triển nhằm
nâng cao mức độ giám sát và tuân theo các quy tắc tài chính được tạo lập từ trước.
Theo như hiệp ước thì thâm hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP và nợ công
không được quá 60 % GDP. Tuy nhiên khi số lượng thành viên gia tăng thì việc tuân
thủ các quy định trong hiệp ước dần trở nên khó khăn từ đó giới hạn vai trị của nó
trong việc ngăn ngừa các nước khỏi tình trạng nợ cơng q cao như Hy Lạp.
Hơn nữa sự thiếu minh bạch trong số liệu thống kê cũng góp phần khơng nhỏ tạo

nên khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp. Năm 2004, khi Hy Lạp báo cáo tình hình thâm hụt
ngân sách là 3.2% GDP thì đã bị ủy ban châu Âu chất lượng của các số liệu cơng là
khơng thỏa đáng. Phịng thống kê của EU khơng cơng nhận và có những u cầu sửa
đổi số liệu do cục thống kê Hy Lạp đưa ra từ năm 2000. Chính phủ Hy Lạp đã cố gắng
đưa ra một bức tranh sáng về tình trạng ngân sách dẫn đến chất lượng của các số liệu đã
cao lên. Và chính việc này đã làm Hy Lạp bị mất niềm tin từ các nhà đầu tư

download by :


mang lại rất nhiều lợi ích khi Hy Lạp tham gia vào Eurozone và không ngạc nhiên khi
ồ ạt các làn sóng rút vốn ra khỏi các ngân hàng của Hy Lạp khiến cho quốc gia này gặp
khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường quốc tế. Và như đã nói, do tiết kiệm
trong nước thấp nên đầu tư của Hy Lạp phụ thuộc rất nhiều vào dòng vốn bên ngồi, từ
đó nợ cơng của đất nước này tăng vọt.
5. Tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008
Khi khủng hoảng tài chính 2008 diễn ra, Hy Lạp đã nhận được những gói hỗ trợ
khổng lồ từ EU nhằm kích thích phát triển kinh tế vượt qua cơn khủng hoảng. Nhưng
chính những gói tài trợ này cũng góp phần làm gia tăng nợ công của Hy Lạp. Gọi là gói
cứu trợ nhưng thực chất là EU cho Hy Lạp vay với lãi suất phải chăng, chính điều này
khiến cho EU bị người dân Hy Lạp cho là một ngân hàng chứ khơng thực sự muốn giúp
đỡ. Ngồi ra khi nhận về gói hỗ trợ, Hy Lạp cũng buộc phải thực hiện các biện pháp “
thắt lưng buộc bụng “ là giảm chi tiêu công và tăng thuế. Tuy nhiên chưa thấy hiệu quả
đâu thì những chính sách kinh tế khắc khổ này lại vấp phải bất bình của người dân.
Nhiều cuộc biểu tình nổ ra vì cho rằng các biện pháp này sẽ đẩy thêm nhiều người dân
vào khó khăn và nghèo đói. Họ cho rằng chính phủ bỏ qua lợi ích của người dân và
tuyên bố sẽ khơng trả nợ hộ nhà nước. Vì vậy, nợ cơng Hy Lạp đã tăng thành con số
khổng lồ một cách nhanh chóng.

CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ LIÊN HỆ NỢ

CÔNG VIỆT NAM
1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HY LẠP, CHÂU ÂU VÀ THẾ GIỚI
1.1 Với Hy Lạp
Chính sách tiền tệ giảm phát và đồng Euro
Thảm họa ở Hy Lạp phản ánh mối hiểm nguy to lớn mà chính sách tiền tệ giảm
phát (bao gồm tăng lãi suất và giảm cung tiền) có thể mang lại. Tuy nợ cơng của Hy
Lạp khá cao, tương đương 113% GDP, nhưng trên thực tế, nhiều quốc gia khác cũng
đang hoặc đã từng gánh những mức nợ tương tự mà không hề lâm vào khủng hoảng.
Chẳng hạn, vào năm 1946, nước Mỹ khi đó vừa ra khỏi Chiến tranh Thế giới 2
đã có mức nợ liên bang tương đương 122% GDP. Nhưng các nhà đầu tư khi đó khơng
lo ngại gì, và một thập kỷ sau, tỷ lệ nợ so với GDP của Mỹ giảm còn một nửa. Trong
những thập kỷ tiếp theo, tỷ lệ nợ công so với GDP của Mỹ tiếp tục giảm, xuống tới mức
đáy 33% vào năm 1981.

download by :


Hình 14: Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ qua các năm. Đơn vị: % - Nguồn: CNN Business.

Cuối năm 1946, Chính phủ Mỹ nợ 271 tỷ USD và vào cuối năm 1956, mức nợ
này tăng nhẹ lên 274 tỷ USD. Như vậy, tỷ lệ nợ so với GDP giảm khơng phải bởi nợ
giảm mà vì GDP tăng, cụ thể là tăng gần gấp đơi tính theo USD trong vịng 1 thập kỷ.
Sự gia tăng của GDP tính bằng USD hầu như là kết quả của sự tăng trưởng kinh
tế và lạm phát, với cả hai yếu tố này cùng gia tăng với tốc độ khoảng 40% trong thời
gian 1946-1956.
Không may cho Hy Lạp, quốc gia châu Âu này không thể kỳ vọng điều tương tự. Lý do
nằm ở đồng Euro.
Việc trở thành một thành viên của khu vực sử dụng đồng Euro giúp đem tới
những khoản vay lãi suất thấp và những dòng vốn khổng lồ. Nhưng những dòng vốn
này cũng đồng thời dẫn tới lạm phát và rốt cục, Hy Lạp nhận thấy mình phải đương đầu

với tình trạng leo thang của giá cả mạnh hơn ở các nền kinh tế lớn của châu Âu.

Hình 15: Tỉ lệ lạm phát của Hy Lạp so với Đức và khối Eurozone

Dần dần, Hy Lạp sẽ phải áp dụng chính sách tiền tệ giảm phát để đưa tỷ lệ lạm
phát về với mức “hợp chuẩn” với các quy định của khu vực đồng Euro. Và sự giảm
phát sẽ làm cho gánh nặng nợ nần của Hy Lạp thêm tồi tệ, trong khi lạm phát giúp nước
Mỹ thời hậu Chiến tranh Thế giới nhẹ nợ. Do đó, cách duy nhất để Hy Lạp khắc phục
khó khăn là cắt giảm chi tiêu và tăng thuế - những biện pháp có thể làm tỷ lệ thất
nghiệp của nước này thêm đáng ngại, niềm tin của thị trường trái phiếu vào Hy Lạp
càng bị xói mịn, đẩy quốc gia này vào tình trạng tồi tệ hơn.

download by :


- Chi tiêu Chính phủ
Nợ cơng của Hy Lạp tích tụ từ những năm 1980 dựa trên vay tiêu dùng tư nhân
khi thanh khoản của thị trường tài chính tồn cầu cao, dễ vay, để rồi bị ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008, nợ tư chuyển thành nợ cơng khi Chính phủ một
loạt các quốc gia buộc phải cứu trợ thanh khoản cho các ngân hàng tư nhân. Rồi GDP
thâm hụt ở mức cao trong nhiều năm do chi tiêu của Chính phủ trong chi an sinh xã hội
cộng thêm những yếu kém trong lĩnh vực quản lý thuế liên quan đến tệ tham nhũng.
Biểu đồ dưới đây cho thấy GDP giảm nhanh từ khoảng 245 tỷ euro năm 2006 trước
khủng hoảng xuống còn khoảng 179 tỷ euro năm 2014 làm cho khả năng trả nợ càng
thêm khó khăn. Vấn đề bây giờ đối với Hy Lạp là vừa phải cải cách thuế, vừa phải thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế để tạo nguồn thu ngân sách cho trả nợ.

Hình 16: GDP thực tế và nợ của Chính phủ Hy Lạp giai đoạn 1995-2015

- Chính sách quản lý nợ công

Thực tế cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra tại Hy Lạp cho thấy, chính sách quản
lý nợ cơng của Hy Lạp chưa thật sự phù hợp, tồn tại những điểm yếu nghiêm trọng. Các
vấn đề của kinh tế Hy Lạp là tập hợp của nhiều yếu tố trong nước và ngoài nước. Tuy
nhiên, những điểm quan trọng nhất vẫn tồn tại ngay chính trong bản thân đất nước này,
cụ thể là: sự phụ thuộc quá lớn của quốc gia này vào các nguồn trợ cấp của nước
ngoài; Nhu cầu vay nợ quá tràn lan; Khả năng trả nợ thấp; Chính phủ chi tiêu ngân
sách ồ ạt, lãng phí, thiếu hiệu quả và minh bạch thông tin nợ yếu kém.
1.2. Với Châu Âu
Liên minh Châu Âu đã nhắm mắt trước những yếu kém của Hy Lạp, đưa Hy Lạp
vào thành viên sử dụng đồng tiền Euro mạnh, lãi suất thấp và sẵn sàng đổ tiền cho vay
rất nhiều lần mà không đạt được tiến bộ thực chất nào. Từ cuộc khủng hoảng nợ công
của Hy Lạp, Liên minh Châu Âu có thể rút ra bài học kinh nghiệm và một số yếu tố
cần được giải quyết trong ngắn hạn:
Thứ nhất, sự chênh lệch trình độ phát triển và quản lý kinh tế: Mặc dù các
thành viên EU bình đẳng, song ln có sự khơng tương thích giữa các quốc gia nội khối
về thực lực kinh tế, trình độ phát triển và tình hình tài chính. Việc các quốc gia buộc
phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để đối phó với khủng hoảng nợ lại càng làm
cho sự khác biệt này thêm nghiêm trọng. Khoảng cách này giữa các nước thành viên
không thể thu hẹp trong ngắn hạn.
Thứ hai, sự hồn thiện các thể chế tài chính - tiền tệ chung: Dù có nhiều đồng
thuận về các nguyên tắc hợp tác kinh tế - tài chính - tiền tệ lâu đời, song cho đến

download by :


nay trong thể chế hợp tác của mình, các nước EU vẫn chưa có bất cứ một hình phạt nào
đối với các quốc gia vi phạm tỷ lệ nợ công trên GDP, được xác lập ở mức tối đa 60%
trong Hiệp định Maastricht khi thành lập khối.
Thứ ba, mặt trái của việc sử dụng đồng Euro: Bên cạnh những lợi ích do đồng
tiền chung mang lại, các nước sử dụng đồng Euro cũng bị kẹt trong tình cảnh khơng thể

sử dụng các công cụ tiền tệ giúp kiềm chế lạm phát như các quốc gia khác, bao gồm
tăng lãi suất hoặc giảm cung tiền.
Thứ tư, mặt trái của các biện pháp "thắt lưng buộc bụng" làm chậm tăng
trưởng kinh tế: Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng, các biện pháp
"thắt lưng buộc bụng" sẽ làm cho Hy Lạp tăng sức cạnh tranh, ngân sách cũng sẽ tiết
kiệm được khoản lớn. Việc cắt giảm rào cản thương mại cũng sẽ mang lại lợi ích cho
phát triển kinh tế khi giúp tăng xuất khẩu, song lại có những mặt trái do giảm vốn đầu
tư công và cả đầu tư xã hội, đồng thời làm tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, giảm sức mua của
người tiêu dùng và giảm nhu cầu vay vốn đầu tư.
Tóm lại, việc xử lý khủng hoảng nợ cơng địi hỏi sự phối hợp hài hồ giữa cơ
chế chính sách của Nhà nước và cơ chế thị trường, coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến
tính 2 mặt của các giải pháp chính sách, đồng thời duy trì động lực tăng trưởng kinh tế
và bảo đảm an sinh xã hội; Đa dạng hoá và phối hợp hiệu quả các nguồn lực trong nước
và quốc tế trong quản lý phát triển và vượt qua khủng hoảng. Đặc biệt, cần coi trọng
công tác dự báo, thông tin, bảo vệ người tiêu dùng và giữ vững lịng tin trên thị trường
tài chính, nỗ lực kiểm sốt khủng hoảng tài chính để vượt qua khủng hoảng chu kỳ, bất
ổn vĩ mơ, xã hội và chính trị; đề cao yêu cầu phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, với
lợi ích giữ vững ổn định kinh tế - chính trị - xã hội quốc gia là trên hết.
2.
LIÊN HỆ NỢ CƠNG VIỆT NAM
2.1. Thực trạng nợ cơng ở Việt Nam
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, có thể thấy bức tranh nợ cơng của Việt Nam đã
có sự thay đổi rõ rệt trong giai đoạn 2015 - 2020. Nợ công của Việt Nam giảm đáng kể
từ 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống còn 55% GDP năm 2019 và theo số liệu thống kê
mới nhất thì chỉ cịn 54,3% GDP vào năm 2020. Chỉ tiêu nợ Chính phủ/GDP giảm
tương ứng từ 52,7% xuống 50,8% ước năm 2020. Tốc độ tăng nợ cơng giảm từ trung
bình 18,1%/năm giai đoạn 2011-2015 xuống còn khoảng 6,8%/năm giai đoạn 20162019. Tỷ trọng nợ trong nước tăng từ 38,9% năm 2011 lên 60,1% năm 2016 và 61,9%
tổng dư nợ của Chính phủ cuối năm 2019; đồng thời lãi suất giảm dần, kỳ hạn trả nợ
tăng dần, cơ sở nhà đầu tư được mở rộng, góp phần giảm rủi ro danh mục nợ Chính
phủ.


download by :


Hình 17: Nợ cơng Việt Nam giai đoạn 2015-2019

Nguồn: Bản tin Nợ cơng số 10( 10/2020) của Bộ Tài chính

Đến cuối năm 2021, tổng nợ công của Việt Nam là 125 tỷ USD, tương đương
61% GDP, bình quân mỗi người dân nợ công gánh số nợ công là 1.384 USD, tương
đương 30 triệu, ngang với Trung Quốc, Philippines và Malaysia. Tốc độ tăng trưởng nợ
công so với GDP là 12,2%/năm cho giai đoạn từ 2010 – 2021. Đây là một vấn đề đáng
lo ngại vì Việt Nam nằm trong những quốc gia có tỷ lệ nợ trên GDP tăng nhanh nhất
(tăng trên 10%/năm) cho dù có thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Nếu xu hướng
này vẫn tiếp diễn trong những năm tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những quan ngại
nghiêm trọng về bền vững tài khóa.

Hình 18: Nợ nước ngồi của Chính phủ phân theo từng bên cho vay giai đoạn 2018-2019

Trong tổng số nợ công của Việt Nam, một vấn đề đáng được quan tâm là dư nợ
nước ngồi. Nhìn vào hình 2 dưới đây, có thể thấy rằng: Trong tổng số nợ cơng nước
ngồi của Việt Nam, bên cạnh các khoản vay từ MB và ACB, phần lớn các khoản vay

download by :


nợ nước ngoài đến từ ba đồng tiền lớn là JPY, KRW và Euro. Mối lo ngại đặt ra với
Việt Nam là: Khi những đồng tiền này lên giá cũng đồng nghĩa với việc giá trị của các
khoản nợ sẽ gia tăng theo.
2.2. Cơ cấu nợ công ở Việt Nam

Nợ cơng của Việt Nam hiện nay gồm có nợ của chính phủ, nợ được chính phủ
bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Trong đó, nợ của chính phủ và nợ được
chính phủ bảo lãnh là hai thành phần chính của nợ cơng tại Việt Nam với tỷ lệ lần lượt
là 86,7% và 12% (năm 2019), nợ của chính quyền địa phương có xu hướng giảm dần từ
2,9% xuống cịn 1,3% trong giai đoạn 2015-2019, chiếm tỉ trọng khơng đáng kể
(khoảng 1,3%) trong tổng nợ công của Việt Nam. Tỷ lệ nợ của chính phủ trong tổng nợ
cơng tương đối ổn định, dao động ở mức 86,7% và có xu hướng tăng nhẹ. Đi cùng với
nợ tăng cao, cơ cấu nợ cơng cũng đã có sự thay đổi. Bởi lẽ nhu cầu huy động ngày càng
lớn, trong khi khả năng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi nước ngoài dần hạn chế, Chính phủ
đã phải dựa chủ yếu vào nguồn vay trong nước. Tỷ trọng nợ trong nước tăng dần từ
60,1% năm 2016 lên 65,5% năm 2020; trong khi tỷ trọng nợ nước ngoài giảm dần từ
mức 39,9% năm 2016 xuống 34,5% năm 2020.
Nhận xét về điều này, TS. Luke Hong - chun gia chính, Trưởng nhóm nghiên
cứu về Việt Nam của Văn phịng nghiên cứu kinh tế vĩ mơ ASEAN+3 (AMRO) khi trao
đổi với phóng viên Thời báo Tài chính Việt Nam cho rằng: “Sự thay đổi cơ cấu nợ công
của Việt Nam là một dấu hiệu đáng hoan nghênh, vì nó báo hiệu sự chuyển đổi từ một
nền kinh tế thu nhập thấp dựa vào tài trợ phát triển bên ngoài sang một nền kinh tế thị
trường mới nổi phụ thuộc nhiều hơn vào các nguồn vay nợ trong nước. Sự thay đổi này
làm cho hoạt động tài khóa ít bị rủi ro tiền tệ hơn, mặc dù gánh nặng lãi suất có thể sẽ
tăng lên do Việt Nam sẽ có ít nguồn vốn ưu đãi hơn. Cuối cùng, niềm tin ngày càng tăng
của thị trường vào quản lý tài khóa đã dẫn đến sự gia tăng thành cơng thời gian đáo hạn
trung bình của đợt phát hành trái phiếu chính phủ. Đó là điều tích cực.”

Hình 19: Quy mô nợ công của Việt Nam giai đoạn 2011-2020(% GDP)

2.2.1. Nợ Chính phủ
Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay
khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp
luật. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến cuối năm 2019, tổng số nợ Chính


download by :


phủ là 2.897,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 86,7% tổng dư nợ công và tương đương 48% GDP
năm 2019. Theo Nghị quyết về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016
- 2020 được Quốc hội thông qua ngày 9-11-2016, u cầu bảo đảm an tồn nợ cơng với
mục tiêu: Nợ công hằng năm không quá 65% GDP, nợ Chính phủ khơng q 54% GDP,
nợ nước ngồi của quốc gia khơng q 50% GDP. Như vậy, Chính phủ đã thành cơng
trong việc giữ được mục tiêu duy trì nợ chính phủ ở mức dưới 54% GDP.

Hình 20: Bảng tính tốn vay và trả nợ của Chính phủ giai đoạn 2015-2019
(ĐVT: nghìn tỷ VNĐ)
Chỉ tiêu
Dư nợ
Nợ trong nước
Nợ nước ngồi
Nguồn: Bản tin Nợ công số 10( 10/2020) của Bộ Tài chính và tính tốn của tác giả

Hình 21: Dư nợ Chính phủ giai đoạn 2015-2019

2.2.2. Nợ được chính phủ bảo lãnh
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngồi được Chính phủ bảo lãnh. Báo cáo của Bộ Tài
chính cho thấy tính đến cuối năm 2015, tổng số nợ thực tế được chính phủ bảo lãnh là
455.122 tỷ đồng, tương đương khoảng 21 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 17,5% tổng nợ công, tức
hơn 11% GDP. Trong số 21 tỷ USD nợ được Chính phủ bảo lãnh, số nợ vay nước ngoài
chiếm khoảng 55%. Việc vay nợ nước ngoài nhiều sẽ khiến bên đi vay đối diện với rủi
ro do biến động tỷ giá, làm cho áp lực trả nợ tăng lên. Trong trường hợp rủi ro xảy ra
khiến cho bên đi vay không trả được nợ, trách nhiệm trả nợ đương nhiên thuộc về

Chính phủ.
2.2.3. Nợ chính quyền địa phương

download by :


Hình 22: Nợ của chính quyền địa phương giai đoạn 2015-2020

Theo Luật Quản lý nợ cơng, nợ chính quyền địa phương là khoản nợ phát sinh
do UBND cấp tỉnh vay. Nợ chính quyền địa phương bao gồm: Nợ do phát hành trái
phiếu chính quyền địa phương; Nợ do vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài; Nợ
của ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà nước, quỹ dự trữ tài
chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước và vay khác theo quy định của pháp luật về NSNN.
Không áp dụng phân loại nợ đối với các khoản cho vay lại UBND cấp tỉnh.
2.3. Gợi ý chính sách
So với các nền kinh tế khác trong khu vực, gói kích thích tài khóa của Việt Nam
để giảm thiểu tác động của Covid-19 tương đối khiêm tốn, một phần nhờ nỗ lực ngăn
chặn đại dịch hiệu quả của Việt Nam. Để tiếp tục phục hồi kinh tế mạnh mẽ trong bối
cảnh mơi trường cịn nhiều biến động, Việt Nam cần lưu ý thực hiện một số biện pháp
để việc quản lý nợ cơng được an tồn, bền vững. Cụ thể:
Thứ nhất , sử dụng vốn một cách hợp lí và có hiệu quả. Muốn vậy cần đổi mới
mơ hình kinh tế, cải thiện bộ máy tổ chức hoạt động các cơ quan nhà nước, đầu tư có
trọng điểm tránh đầu tư dàn trải thất thoát.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thấp hơn so với doanh nghiệp tư
nhân. Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo theo nhiều ảnh hưởng xấu đến nền
kinh tế nhà nước thất thốt vốn. Cần giảm bảo lãnh chính phủ đối với các dự án của
DNNN, để các doanh nghiệp hoạt động độc lập, cạnh tranh công bằng với các doanh
nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài. Trừ những dự án có hiệu quả kinh tế,
việc chính phủ quyết định cấp bảo lãnh cho những dự án bị từ chối cũng có nghĩa là
chấp nhận một khoản đầu tư kém hiệu quả ngay từ khi chưa được đầu tư. Chỉ có vậy

mới cải thiện sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, cần phải
tách bạch chức năng của các DNNN. Điều này có nghĩa là các DNNN hoạt động khơng
vì mục đích thương mại, đối với các DNNN này vẫn cần có sự hỗ trợ, bảo lãnh của
Chính phủ để thực hiện chức năng xã hội. Đối với các DNNN kinh doanh thương mại,
Nhà nước cần tiến hành thoái vốn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thu hồi

download by :


×