Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.61 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MINH THƯ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách cơng
Mã số : 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG MAI

HÀ NỘI, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đầy đủ theo quy định và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Quảng Nam, ngày tháng

năm 2021

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Minh Thư


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO TỔN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ............................................................................................11
1.1.............................................................................................................Mộ
t số khái niệm cơ bản................................................................................11
1.2. Quy trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số.............................................................................................................21
1.3. Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
từ năm 1986 đến nay.......................................................................................26
1.4. Một số yếu tố tác động đến quá trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số................................................................... 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN
BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM......................................................... 39
2.1.............................................................................................................Kh
ái quát chung về văn hóa các dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Nam...........39
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2015- 2020..........48
2.3. Một số vấn đề thực tiễn đặt ra trong thực hiện chính sách bảo tồn và phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.....57
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.........................................................................................65

3.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam hiện nay............65


3.2. Giải pháp về hoạt động của địa phương khi hiện thực hố các chính sách
bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh
Quảng Nam hiện nay.......................................................................................68
3.3.............................................................................................................Nh
ững đề xuất kiến nghị............................................................................... 75
KẾT LUẬN.................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

1

BCH

Ban chấp hành

2

DTTS

Dân tộc thiểu số


3

HĐND

Hội đồng nhân dân

4

KTM

Kinh tế mở

5

TĐC

Tái định cư

6

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

7

UBND

Ủy ban nhân dân


8

Nghĩa đầy
đủ

UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

9

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp
Quốc

DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
Tên hình

hình

Trang

Các hoạt động trong đời sống hằng ngày - vốn tri thức
3.1

bản địa, cũng đồng thời là bản sắc văn hóa của đồng bào
miền núi

75



MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong q trình hội nhập quốc tế, việc giữ gìn bản sắc dân tộc để “hội nhập mà
khơng bị hịa tan” là một u cầu để khẳng định và phát triển đất nước. Theo đó, văn
hố có một đóng góp quan trọng. Văn hố và giá trị của nó len lỏi trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong mọi hoạt động của con người, mỗi cá nhân, mỗi tập thể,
trong giá trị của từng sản phẩm.
Đồng thời, văn hố khơng chỉ là hệ tri thức, hệ giá trị hay hệ thống những chuẩn
mực mà còn là hệ thức sống của con người. Sự khác nhau giữa các yếu tố, đặc điểm
của các nền văn hoá khác nhau là sự đa dạng và là kết quả của hoạt động tương tác
giữa con người với môi trường sống, nhu cầu sống. Cho nên, việc nhận định các yếu
tố, đặc điểm đó là tiến bộ hay khơng tiến bộ phụ thuộc nhiều vào chính mơi trường
sống và nhận thức của những người bản địa, cũng như nhận thức của những người
nhìn nhận và đánh giá về nền văn hố đó.
Một quốc gia có nhiều tộc người khác nhau, việc xác định một nền văn hoá
chung với đặc điểm thống nhất và đa dạng là một điều tất yếu. Nền văn hoá Việt Nam
được cấu thành từ những yếu tố văn hoá của 54 dân tộc. Dù những yếu tố văn hoá của
dân tộc Kinh chiếm đa số, song, 53 dân tộc thiểu số đều góp phần tạo nên bản sắc dân
tộc vừa độc đáo, vừa đa dạng trong sự thống nhất của nền văn hoá Việt Nam. Điều này
được nhận định và trở thành định hướng trong chiến lược phát triển văn hoá của Việt
Nam. “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước” là đường lối và mục tiêu của chính sách văn hố được Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội năm 1991. Mục tiêu này tiếp tục được khẳng định trong đề án “Bảo
tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đếnnăm 2020”[23]. Để hiện thực

hoá mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta đưa ra nhiều chủ trương, chính sách. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, văn hoá của các dân
tộc thiểu số phải đối mặt với nhiều khó khăn. Cho nên, việc xây dựng, ban hành và
thực hiện chính các chính sách cần có sự thay đổi nhất định để phù hợp hơn với nhu
6


cầu cuộc sống, với điều kiện kinh tế - xã hội.
Đối với tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Bắc Trà My nói riêng, địa phương
có nhiều dân tộc thiểu số cư trú với những đặc trưng văn hoá riêng, có quy mơ dân số
khơng q lớn, điều kiện về dân trí, giao thơng, mơi trường,... có nhiều khó khăn, hạn
chế; bởi vậy, khi những tác động khách quan từ bên ngồi, những giá trị văn hố
truyền thống của các dân tộc dễ bị tổn thương. Do vậy, việc bảo tồn, phát huy giá trị
nền tảng văn hóa truyền thống của các dân tộc cần phải có những phương hướng, giải
pháp đủ mạnh và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh. Cho nên, việc bảo tồn và phát
triển giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc được xác định là nhiệm vụ quan
trọng và được các cấp uỷ Đảng, Chính quyền đặc biệt quan tâm. Từ định hướng của
Đảng đến những văn bản, chính sách của Nhà nước đã được địa phương vận dụng linh
hoạt trong điều kiện của mình.
Riêng với huyện Bắc Trà My, với hơn 50% dân số là người dân tộc thiểu số,
đời sống văn hoá tinh thần của người dân cũng đang chịu những tác động mạnh mẽ từ
sự phát triển kinh tế - xã hội, từ yếu tố văn hoá ngoại lai,... Nhiều giá trị văn hoá
truyền thống đặc trưng của các dân tộc đã và đang có nguy cơ mai một. Điều này có
nhiều nguyên nhân tác động đến. Do đó, việc xem xét, đánh giá những chủ trương,
chính sách bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu
số đã có cịn phù hợp hay cần có sự điều chỉnh là rất cần thiết trong bối cảnh đổi mới.
Để góp phần vào đó, việc đánh giá từ những trường hợp cụ thể là cơ sở quan trọng.
Chính vì vậy, đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam” có ý nghĩa và
cần thiết. Trong phạm vi luận văn cao học chun ngành Chính sách cơng, đề tài sẽ có

đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần tích cực và có hiệu quả thiết
thực đối với địa phương.
2.
2.1.

Tình hình nghiên cứu về đề tài
Nghiên cứu chung về những nguyên tắc, những yêu cầu cơ bản và thực tiễn

bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá của các dân tộc thiểu số
Phạm Minh Hạc “Phát triển văn hố giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết
7


hợp với tinh hoa nhân loại” do Nxb Văn hoá dân tộc ấn hành năm 1996 tại Hà Nội [9].
Cuốn sách đã nêu ra một số khái niệm về văn hóa, văn minh; đánh giá vai trị của văn
hóa, văn minh và tác phong cơng nghiệp; khẳng định vai trị của văn hóa trong việc
giáo dục con người Việt Nam; đồng thời, nêu rõ sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc và vai trị của văn hóa trong cuộc đấu tranh chống "diễn biến
hịa bình".
Trên cơ sở những quan niệm về di sản văn hố, tác giả Hồng Vinh của sách
“Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc” do Nxb Chính trị
quốc gia ấn hành năm 1997 tại Hà Nội [33] đã đưa ra một hệ thống lý luận về di sản
văn hoá, đồng thời bước đầu vận dụng vào việc nghiên cứu văn hoá Việt Nam để bảo
tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc.
Đặng Thị Tuyết trong “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá ở Việt Nam” (đăng
trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 4/2015) đã phân tích thực trạng bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam theo những nhận định về thành tựu và hạn chế
trong những năm trước. Qua đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
Tuy vậy, các cơng trình trên mới chỉ nghiên cứu các cơ sở chung cho việc định

hướng bảo tồn và phát huy, phát triển di sản văn hóa dân tộc Việt Nam, nên chưa tập
trung đi sâu nghiên cứu trường hợp về một tộc người cụ thể của một vùng đất.
2.2.

Những nghiên cứu về bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc thiểu số

Nhiều bài viết của các tác giả được in trong “Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số Việt Nam” do Nxb Văn hoá dân tộc ấn hành năm 1996 tại Hà
Nội[17]. Một số bài viết này đã phân tích các giá trị văn hóa đặc sắc của các tộc người
trên lãnh thổ Việt Nam. Qua đó, việc bảo tồn, phát triển văn hoá các DTTS được nhấn
mạnh là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục thực hiện thường
xuyên và lâu dài.
Trong cơng trình “Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập” do Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm
2010 tại Hà Nội[22], tác giả Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra những giá trị tiêu biểu mang đặc
8


sắc riêng của văn hoá truyền thống Việt Nam. Trên cơ sở đó, những giải pháp nhằm
bảo tồn và phát huy các giá trị tiêu biểu trong điều kiện CNH,HĐH của đất nước được
đề xuất.
Mặc dù các tài liệu nghiên cứu này đã nhấn mạnh nhiệm vụ cấp thiết có ý nghĩa
chiến lược, chỉ ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tiêu biểu của
văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung và văn hóa các DTTS nói riêng. Nên nó có
giá trị tham khảo hữu ích ở góc độ dân tộc học, tuy nhiên việc tiếp cận các nghiên cứu
này dưới góc nhìn chính sách cơng cịn chưa rõ nét.
2.3.

Những nghiên cứu về văn hoá dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Nam, huyện


Bắc Trà My
-

Bên cạnh đó, cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người” của tác giả

Nguyễn Từ Chi (2003), Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin Hà Nội ấnhành lấy đối tượng
nghiên cứu là văn hóa và tộc người ở Việt Nam. Dưới góc nhìn văn hóa, bằng cách tiếp cận nhiều
chiều, với những cách lý giải khác nhau, tác giả giúp người đọc hiểu thêm về những sự kiện, hiện
tượng dân tộc học của Việt Nam. Cuốn sách có thể được coi như là một trong những tác phẩm có
cách tiếp cận sâu sắc và tỉ mỉ các vấn đề tộc người từ nhiều góc độ.
-

Cuốn “Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam” (2006) và “Bảo

tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và
hội nhập” (2010) của tác giả Ngơ Đức Thịnh có thể xem là một đóng góp quan trọng
đối với sự nghiệp nghiên cứu và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
CNH,HĐH.
-

Trên cơ sở dựa vào lý luận phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ

nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cuốn “Văn hóa các dân tộc Việt Nam
thống nhất mà đa dạng” của tác giả Nông Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh (xuất bản
năm 2002, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia) là sự tiếp cận có hệ thống của các nhà
nghiên cứu trên nhiều góc độ: văn hóa, lịch sử và dân tộc học nhằm hướng tới sự
tương tác biện chứng giữa sự thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam
-

Bài viết “Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa của các


dân tộc hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Huy được đăng trên Tạp chí Cộng Sản số
20 năm 2003 đề cập khá chi tiết và cụ thể công tác bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa
9


của các dân tộc ở nước ta thời gian qua
-

Bài viết “ Văn hóa làng các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam” của Tác giả

Nguyển Tri Hùng đăng trên trang baotang.quangnam.gov.vn nêu rõ phát triển kinh tế xã hội gắn với bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá làng, các tập quán pháp tốt
đẹp của các tộc người miền núi ở Quảng Nam trong thời kỳ hiện đại là một vấn đề cần
bàn luận thêm.
Bên cạnh đó, cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu văn hóa tộc người và văn hóa
Việt Nam, văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Những nghiên cứu trên
góp phần cung cấp cơ sở lý thuyết, thực tiễn trong q trình thực hiện chính sách bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình Đổi mới và hội
nhập. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu chính sách thì việc nghiên cứu, phân tích, đề ra
những giải pháp chính sách nhằm hồn thiện, bổ sung, trong đó bao gồm các nhóm
giải pháp mang tính đặc thù của từng địa phương là yêu cầu quan trọng trong q trình
đưa chính sách vào thực tiễn. Ở mỗi cơng trình nghiên cứu cũng đã đề cập đến hoạt
động thực thi chính sách ở mỗi vùng, miền, địa phương khác nhau; do đó, đây cũng
chính là nguồn tài liệu hữu ích giúp tác giả tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc độ lý
luận và thực tiễn khác nhau. Qua đó, có sự kế thừa, tổng hợp, phát triển các nội dung
về chính sách và thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa DTTS gắn với đặc
điểm và tình hình phát triển kinh tế - xã hội riêng trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh
Quảng Nam.
Nhìn chung, về cơ bản các cơng trình nghiên cứu trên có liên quan đến đề tài,
chúng có giá trị tham khảo hữu ích nhất định ở nhiều góc độ văn hóa học, dân tộc

học... Tuy nhiên, qua các cơng trình này cũng cho thấy ít có nghiên cứu nào đề cập sâu
về văn hóa các tộc người thiểu số của trường hợp huyện Bắc Trà My (Quảng Nam)
nhất là dưới góc nhìn thực hiện chính sách cơng. Nên đề tài luận văn nghiên cứu
không bị trùng lặp.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
10


Trên cơ sở làm rõ hiệu quả, tác động của chính sách và nhận diện những vấn đề
cấp bách trong bảo tồn và phát huy, tiến hành đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển bảnsắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên
địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa làm rõ thêm cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và

-

phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.
Phân tích thực trạng bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà

-

My, tỉnh Quảng Nam; đánh giá tình hình thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam trong thời gian
qua.
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển


-

văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu:

Đó là nghiên cứu việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các
DTTS.
- Phạm vi khơng gian nghiên cứu:

Tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: từ năm 2015 đến nay

Thời điểm nghiên cứu được tác giả chọn mốc từ năm 2015 đến nay là vì: Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa chính thức vẫn còn hiệu lực. Thời
gian này, tỉnh Quảng Nam đã tập trung nhiều nguồn lực đểthực hiện có hiệu quả việc
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là văn hóa vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, thực hiện đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam
lần thứ XX, XXI đã đề ra.
11



5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và khoa học chính sách cơng để nghiên cứu thực hiện chính sách
bảo tồn, phát triển giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà
My, tỉnh Quảng Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích các nguồn

tư liệu: Văn kiện, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, Bộ, Ngành ở Trung
ương và địa phương; các cơng trình nghiên cứu, sách báo, các báo cáo, tài liệu thống
kê của Ban, ngành, đoàn thể; tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
vấn đề bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt
Nam nói chung, vùng dân tộc thiểu sổ huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam nói riêng.
-

Phương pháp xử lý số liệu: Các thông tin tài liệu sơ cấp được hệ thống hóa,

phân loại, tổng hợp, xử lý theo từng nội dung, hoạt động có liên quan đến đề tài.
-

Phương pháp phân tích, thống kê: trên cơ sở số liệu thứ cấp, đề tài sử dụng

phương pháp này để mô tả, đánh giá, so sánh về thực trạng kết quả, hiệu quả, tác
động chính sách và một số yếu tố ảnh hưởng đến bảo tồn, phát triển văn hoá các dân

tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My.
-

Phân tích tổng hợp: Là một trong những thành tố quan trọng trong quy trình

xem xét hệ thống, đánh giá có tính đại diện về hiệu quả của các chính sách đối với
việc bảo tồn và phát triển văn hoá.
Việc kết hợp hiệu quả các phương pháp nghiên cứu sẽ tạo được hiệu quả tốt
hơn. Nhìn chung các phương pháp được sử dụng đều có tác dụng tích cực vào kết quả
của luận văn. Trong đó, các phương pháp bao trùm là phân tích, so sánh, tổng hợp.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở lý thuyết về thực hiện chính sách cơng, luận văn góp phần hệ thống
hóa làm rõ hơn cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển giá trị văn
12


hóa các dân tộc thiểu số. Đồng thời, đề xuất một số quan điểm về thực hiện chính sách
bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam thời gian qua, luận
văn cung cấp một số luận cứ khoa học thực tiễn nhằm đưa ra đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam hiện nay. Qua đó, kết quả luận văn góp phần
tham mưu cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương dưới góc nhìn chính sách cơng
trong cơng tác quản lý nhà nước lĩnh vực bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc

thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
kết cấu thành 3 chương cụ thể, đó là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số;
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam giai đoạn
hiện nay.

13


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO
TỔN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HĨA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.

Khái niệm “Văn hố các dân tộc thiểu số”

Văn hóa ở nghĩa hẹp, là sự phản ánh những hoạt động tinh thần (từ quan niệm
tư tưởng và giá trị, ý thức về giá trị, định hướng giá trị...) của con người cùng các giá
trị mà hoạt động đó tạo ra.
Ở nghĩa rộng, văn hóa là tổng hịa mọi sản phẩm của đời sống vật chất và tinh

thần do con người sáng tạo nên, cùng với việc sử dụng công cụ tư duy, tư tưởng,
phương thức biểu đạt, mơ hình hành động và phương thức, thái độ ứng xử của cộng
đồng dân tộc trong việc chế ngự thiên nhiên và tổ chức xã hội, hình thành nhân cách
con người. Nói cách khác, văn hóa là tất cả những gì khơng phải từ thiên nhiên, mà là
từ hoạt động con người, là tất cả những gì con người sáng tạo nên nhằm phục vụ đời
sống cộng đồng và phát triển xã hội. Văn hóa là sự hoạt động nhận thức của con người
và cách thức tổ chức hành động thực tiễn đối với môi trường xung quanh nhằm cải
biến tự nhiên và phát triển xã hội. Với ý nghĩa đó, văn hóa theo Hồ Chí Minh, đó là:
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn. Tồn bộ những
sáng tạo và phát minh đó là văn hố"[15;tr.431].
Ơng F.Mayor, Cựu Tổng giám đốc UNESCO đã định nghĩa: “Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và các


thị hiếu - những yếu tố xác định các đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[32]. Định nghĩa
này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình
phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng tạo nên những giá trị vừa có tính nhân
văn phổ qt, vừa có tính đặc thù - bản sắc riêng mỗi cộng đồng dân tộc (nhấn mạnh
việc giữ gìn tính đa dạng của văn hóa); đồng thời khuyến cáo nguy cơ tổn thương của
các nền văn hóa trong làn sóng tồn cầu hóa, vì hệ lụy của cách thức phát triển kinh tế
không tôn trọng yếu tố văn hóa. Ngày 3/11/2002, Đại hội đồng UNESCO đã ra tun
bố tồn cầu về Đa dạng văn hố: "Văn hoá nên được xem là một tập hợp các điểm nổi
bật về mặt tinh thần và vật chất, tri thức và tình cảm của một xã hội hay một nhóm xã
hội, và ngồi văn chương và nghệ thuật thì văn hố cịn bao gồm lối sống, cách thức

cùng chung sống, thế hệ các giá trị, truyền thống và tín ngưỡng". Theo giới nghiên
cứu văn hoá, nhận định này là phù hợp với quan điểm cách tiếp cận của Hồ Chí Minh
vào năm 1943 về phạm vi rộng lớn của văn hố.
Như vậy, văn hóa tác động vào các cấp độ, các q trình, đó là: cải tạo vật chất;
cải tạo cơ cấu xã hội; và cải tạo tâm lý con người, tâm lý xã hội.
Từ cơ sở nêu trên, có thể hiểu: Văn hóa là sản phẩm của xã hội lồi người được
tạo ra trong q trình lao động sản xuất, là tổng thể hệ thống những chuẩn mực, giá
trị cùng với ý thức và khả năng sáng tạo mang ý nghĩa lịch sử - xã hội của cộng đồng
người nhất định để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống nhằm thích ứng sự tồn tại và phát
triển.
Trong văn hóa gồm có văn hóa vật chất (văn hóa vật thể) và văn hóa tinh thần
(văn hóa phi vật thể).
Với văn hóa vật chất, đó là các sản phẩm vật chất do con người tạo ra, là dạng
thức văn hóa vật thể hữu hình nhằm phục vụ nhu cầu vật chất của con người. Chẳng
hạn như: công cụ lao động, sản xuất; kiến trúc nhà ở; trang phục; ẩm thực...
Với văn hóa tinh thần, đó là các sản phẩm tinh thần do con người tạo ra, là dạng
thức văn hóa phi vật thể nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người. Chẳng hạn
như: ngôn ngữ; kho tang tri thức dân gian; phong tục tập quán; lối tư duy, suy nghĩ,
hành vi ứng xử; tôn giáo; lễ hội; văn chương, hội họa, âm nhạc, vũ điệu…


Đối với thuật ngữ dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa:
Ở nghĩa rộng, dân tộc (nation) là hình thái phát triển cao nhất của tộc người,
xuất hiện trong xã hội TBCN và XHCN. Dân tộc đặc trưng bởi tính cộng đồng chặt
chẽ và bền vững về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, các đặc điểm về văn hóa và ý thức tự
giác tộc người.
Ở nghĩa hẹp, dân tộc (ethnie) được hiểu là dùng để chỉ những tộc người, là hình
thái đặc thù của một tập đồn người, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên
và xã hội, được phân biệt bởi 3 đặc trưng cơ bản là ngơn ngữ, văn hố và ý thức tự
giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. Chẳng hạn là các

tộc người: Kinh, Tày, Thái, Nùng,... với tư cách là những cộng đồng dân tộc anh em tự
nguyện gắn kết nhau lại thành cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất trong sự nghiệp
dựng nước và cứu nước. Với nghiên cứu của đề tài luận văn tiếp cận dân tộc chủ yếu ở
nghĩa hẹp.
Dân tộc thiểu số là khái niệm dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít hơn so với
dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (theo
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về Cơng tác
dân tộc).
Từ một số ý nghĩa trên: Văn hóa dân tộc được hiểu là hệ thống hữu cơ những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, được tích luỹ trong hoạt động
thực tiễn lịch sử của cộng đồng dân tộc nhất định, nó mang ý nghĩa lịch sử - xã hội và
thể hiện bản sắc của cộng đồng dân tộc đó để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống nhằm
thích ứng sự tồn tại và phát triển.
Trong văn hóa dân tộc cũng gồm có văn hóa vật chất (văn hóa vật thể) và văn
hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể) của cộng đồng dân tộc. Song về bản sắc của nó,
văn hóa dân tộc chẳng những là sự thể hiện ở tinh thần, bản lĩnh, cốt cách và linh hồn
của một dân tộc, mà nó cịn thể hiện ở đặc trưng riêng có của một dân tộc này là dấu
hiệu để phân biệt so với một dân tộc khác. Hay nói cách khác, mỗi dân tộc đều có
đường nét bản sắc văn hóa độc đáo, tạo nên cách thức để hiện thực hóa thế giới quan
và nhân sinh quan của cộng đồng dân tộc trong thực tiễn đời sống xã hội. nét bản sắc


văn hóa dân tộc được thể hiện qua các đặc trưng về lối sống, tư duy, lý tưởng thẩm
mỹ…
Như vậy, có thể xem văn hóa dân tộc là tổng thể các tính cách, các phẩm chất
đặc trưng thuộc sức mạnh tiềm tàng và sự sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử, mà
qua đó giúp cho cộng đồng dân tộc đó tồn tại, duy trì và phát triển. Với ý nghĩa đó,
văn hóa dân tộc là yếu tố mang đậm sức mạnh tinh thần dân tộc, là chỗ dựa giúp cho
cộng đồng dân tộc đó vượt qua những khó khăn và hiểm nguy, những thử thách và trở
ngại trong tiến trình lịch sử xã hội vì dân tộc hịa bình và phát triển.

Đối với nước ta, hiện nay có 54 thành phần dân tộc (54 tộc người). Trong đó,
87% là dân tộc Kinh (chiếm đa số); và 13% thuộc về 53 dân tộc còn lại được gọi là
các dân tộc thiểu số.
Tuy quy mô dân số của 53 dân tộc thiểu số ở nước ta có số lượng khơng lớn,
song cùng với quá trình lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển đã kiểm định: mỗi một
tộc người đều có phong văn hóa truyền thống với bảnggiá trị cốt lõi mang tính bản
sắc được hình thành ổn định, bền vững theo chiều dài lịch sử gắn với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể về lịch sử tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của riêng mình. Với nền tảng
đó mà tạo nên diện mạo văn hóa các dân tộc, trong đó có văn hóa các dân tộc thiểu số.
Ở nước ta với một nền văn hóa thống nhất mà đa dạng, thì văn hóa các dân tộc
thiểu số: vừa có các đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam tiêu biểu, với “tinh thần
cần cù, lao động sáng tạo, có lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tính
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng - nước, có tinh thần đồn kết, có lịng nhân
ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống…”;
vừa có các đặc trưng mang sắc thái văn hóa riêng, độc đáo do đặc thù về điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh lịch sử của mỗi dân tộc thiểu số. Chính q trình lịch sử hình thành,
phát triển trên các mặt đời sống của từng tộc người là cơ sở khẳng định sự tồn tại và
xác định vị trí của thành phần dân tộc đó trong một lãnh thổ quốc gia. Văn hóa các dân
tộc thiểu số đã tạo nên diện mạo đặc trưng tính đa dạng văn hóa vùng miền, thể hiện
sự đa dạng phong phú nền văn hóa của quốc gia.
Như vậy, có thể hiểu: Văn hóa các dân tộc thiểu số là hệ thống hữu cơ những


giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, được tích luỹ trong hoạt động
thực tiễn lịch sử nhất định của cộng đồng các dân tộc thiểu số (các tộc người), nó
mang ý nghĩa lịch sử - xã hội và thể hiện bản sắc riêng có của các dân tộc thiểu số để
thỏa mãn nhu cầu cuộc sống nhằm thích ứng sự tồn tại và phát triển, góp phần làm
phong phú và đa dạng nền văn hóa của cả cộng đồng dân tộc quốc gia.
Khái quát lại, vấn đề cơ bản là văn hóa chỉ có thể tồn tại, duy trì và phát triển
khi và chỉ khi chứa đựng và thể hiện rõ bản sắc dân tộc vốn đã được sáng tạo và tích

lũy trong lịch sử dân tộc. Mỗi thành phần dân tộc (tộc người) trong quá trình hình
thành phương thức hoạt động sinh sống nhằmứng phó trước hồn cảnh, nên vừa tiếp
thu, tiếp biến các giá trị để nâng cao tinh thần tự chủ, tự lực tự cường… mà tạo nên
các tố chất đặc trưng riêng có của từng thành phần dân tộc hay cịn gọi là bản sắc văn
hóa tộc người. Chính văn hóa các dân tộc thể hiện ở thế giới quan và nhân sinh quan,
ở lối sống, tư duy, lý tưởng thẩm mỹ… Chúng được biểu hiện cụ thể bằng các giá trị
văn hóa vật thể (đặc trưng cơng cụ lao động - sản xuất; truyền thống về kiến trúc nhà
ở, trang phục, ẩm thực…) và các giá trị văn hóa phi vật thể (ngôn ngữ và tri thức bản
địa, phong tục tập quán, nghệ thuật dân gian, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo). Dưới sự tác
động của sự biến đổi kinh tế - xã hội và môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể ln được bồi đắp để thích ứng tồn tại và phát triển. Đó cũng chính
là sự phản ánh về tính kế thừa tiếp nối của lịch sử dân tộc và cũng là sự biểu hiện một
cách cụ thể về tính đa dạng, phong phú của văn hóa dân tộc trong thực tiễn đời sống
hội đang diễn ra.
1.1.2.

Khái niệm “Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu

số”
Về khái niệm bảo tồn văn hóa: người ta thường gắn khái niệm này với các đối
tượng cụ thể, đó là: bảo tồn văn hóa vật thể và bảo tồn văn hóa phi vật thể; bảo tồn di
sản văn hóa; bảo tồn văn hóa truyền thống, bảo tồn văn hóa nông thôn… Theo quan
niệm của các nhà bảo tồn, bảo tàng trong lĩnh vực di sản văn hóa, bảo tồn văn hóa là
các nỗ lực để bảo vệ, gìn giữ sản phẩm văn hóa và khơng gian tồn tại của nó theo dạng
thức vốn có. Nghĩa là, những sản phẩm của quá khứ nên được bảo vệ một cách nguyên


vẹn như nó vốn có, cố gắng phục hồi nguyên gốc các di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể cũng như cố gắng cách ly di sản khỏi môi trường xã hội đương đại. Tuy nhiên, vấn
đề đặt ra là văn hóa, đặc biệt là văn hóa phi vật thể ln gắn bó với đời sống con

người, với mơi trường xã hội trong sự vận động của nó. Do đó, quanniệm này
thiên về bảo tồn nguyên vẹn, dễ làm khơ cứng các sản phẩm văn hóa.
Một cách tiếp cận khác về bảo tồn văn hóa theo quan niệm của các đại biểu
Alfrey, Putnam, Ashworth và P.J. Larkham, xem di sản văn hóa như một ngành cơng
nghiệp và cần quản lý di sản tương tự với cách thức quản lý của một ngành cơng
nghiệp văn hóa với những logic quản lý đặc biệt, phù hợp với tính đặc thù của các di
sản. Hoặc các nhà nghiên cứu Anh, Mỹ: Boniface, Fowler, Prentice…, quan tâm di sản
văn hóa là để phát triển du lịch, để khẳng định tính đa dạng trong sáng tạo của con
người... Về cơ bản, quan niệm theo trường phái này dựa trên cơ sở mỗi di sản cần phải
được thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời gian và khơng gian cụ thể. Khi
di sản ấy tồn tại ở thời gian và không gian hiện tại, thì cần phát huy giá trị văn hóa - xã
hội phù hợp với xã hội hiện nay và phải loại bỏ đi những gì khơng phù hợp với xã hội
ấy. Tuy nhiên, với lập luận của quan niệm này dễ rơi vào khuynh hướng thả nổi. Vì
nếu ta sử dụng hệ giá trị hôm nay làm thước đo cho sự thay đổi các sản phẩm văn hóa
truyền thống thì sẽ đẩy nhanh quá trình làm biến dạng các tiêu chí và chuẩn mực vốn
đã được định hình từ lâu. Các sản phẩm văn hóa truyền thống tuy mang đậm nét đặc
thù nhưng khi đặt trong hệ quy chiếu mới nếu khơng được điều chỉnh thì sẽ khó có cơ
hội tồn tại lâu dài.
Với cả hai nhóm quan niệm nêu trên đều xuất phát từ cách hiểu máy móc, siêu
hình, thiếu cái nhìn biện chứng về khái niệm bảo tồn văn hóa. Do vậy, cần có cách
hiểu đầy đủ và đúng nghĩa: đặt hoạt động bảo tồn văn hóa là gìn giữ, lưu lại những giá
trị văn hóa trong mối quan hệ với phát huy – phát triển, mà không trở thành lực cản
đối với sự phát triển xã hội; thay vào đó là trong một chừng mực nhất định, bảo tồn là
cơ sở cho sự phát triển văn hóa theo đúng hướng. Từ ý nghĩa này, có thể xem: Bảo tồn
văn hóa là khái niệm dùng để chỉ những nỗ lực hoạt động của con người nhằm lưu
giữ, kế thừanhững gì được xem là giá trị văn hóa truyền thống đã, đang và cịn tiếp


tục tạo nên năng lực nội sinh, là động lực cho sự phát triển văn hóa – xã hội hiện tại
và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc.

Về khái niệm phát triển văn hóa: Trong nhận thức chung, phát triển là bao gồm
sự giàu có về vật chất được đo bằng sự tăng trưởng GDP/người hay thu nhập thực, và
nó cũng bao gồm sự biến đổi trong các chỉ số xã hội phản ánh chất lượng sống của con
người, cũng như các chỉ số phản ánh chất lượng môi trường... Tuy nhiên, văn hóa lại
là trung tâm của sự phát triển.
Nên thuật ngữ phát triển văn hóa cần được quan niệm dưới góc nhìn của sự phát
triển bền vững. Phát triển văn hóa là cần đặt văn hóa trong trạng thái động, lấy đời
sống văn hoá cùng với sự vận hành của giá trị văn hóa làm đối tượng, hướng đến mục
tiêu cao nhất là phát triển con người. Vì thế, phát triển văn hóa cần được hiểu đó là
những hoạt động nội tại giải quyết các cặp đối xứng: kế thừa và giao lưu, truyền
thống và hiện đại, bảo tồn và phát huy, giữ gìn bản sắc và hội nhập quốc tế v.v… Nói
cách khác, phát triển văn hóa theo hướng bền vững là sự phát triển cân đối giữa kế
thừa và giao lưu, truyền thống và hiện đại, bảo tồn và phát huy, giữ gìn bản sắc và hội
nhập quốc tế.
Q trình phát triển văn hóa trong mối quan hệ với bảo tồn văn hóa thì cũng
đồng nghĩa với quá trình kép hoạt động, bao gồm: vừa có mặt hoạt động kế thừa các
giá trị văn hóa truyền thống phù hợp với hiện thực khách quan; vừa có mặt hoạt động
đào thải đối với yếu tố văn hóa lỗi thời, lạc hậu, khơng phù hợp với hiện thực khách
quan nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội. Phát triển văn hóa là sự vận động
tất yếu khách quan của lĩnh vực văn hóa, nó có khả năng làm biến đổi văn hóa truyền
thống, chuyển hóa sang một hệ thống khác theo quy luật của tiếp xúc và tiếp biến văn
hóa để thích ứng các điều kiện, môi trường lịch sử - xã hội nhất định nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển xã hội đương đại. Tuy nhiên, sẽ là cái giá rất đắt một khi quan niệm
sai lầm xem phát triển văn hóa là sự triệt tiêu bảo tồn văn hóa; và ngược lại.
Như vậy, trong mối quan hệ bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc, thì bảo tồn
văn hóa dân tộc giữ vai trò của yếu tố ổn định, là cơ sở kế thừa các giá trị bản sắc để
thúc đẩy phát triển văn hóa dân tộc bền vững; cịn phát triển văn hóa dân tộc là ở trạng


thái động, lấy đời sống văn hoá cùng với sự vận hành của giá trị văn hóa làm đối

tượng, hướng đến mục tiêu cao nhất là phát triển con người.
Chính sách cơng: Ở góc nhìn khoa học chính trị, chính sách theo Michael
G.Roskin[34], đó là sự tập hợp của nhiều biện pháp, công cụ mà một chủ thể quyền
lực dùng để thực hiện nhằm định hướng xã hội theo mục tiêu chính trị của chủ thể
quyền lực.
Cịn theo cách tiếp cận khoa học chính sách, chính sách cơng theo Kraft và
Furlong[2], đó là một q trình mà chính quyền hành động hay không hành động
nhằm đáp lại một vấn đề cơng cộng. Cũng ở góc nhìn này, chính sách cơng theo cách
diễn đạt của Wiliam N. Dunn, đó là một tập hợp về sự lựa chọn liên quan với nhau
(bao hàm cả các quyết định không hành động) do các cơ quan nhà nước hoặc giới
chức nhà nước thơng qua.
Chính sách với những tác động có tính hướng đích bằng chương trình hành động
để đạt các mục tiêu đã xác định.
Như vậy, tiếp cận theo nghiên cứu của ngành chính sách cơng: chính sách được
hiểu là một tập hợp các quyết định do nhà nước ban hành theo thẩm quyền cùng với
việc lựa chọn các giải pháp, công cụ để giải quyết vấn đề thực tiễn xã hội theo mục
tiêu xác định. Hay nói cách khác, chính sách cơng là chương trình hành động được
nhà nước ban hành theo thẩm quyền để giải quyết vấn đề thực tiễn xã hội theo mục
tiêu đã xác định.
Về chính sách văn hóa, năm 1967 tại Hội nghị bàn tròn các chuyên gia văn hóa tổ
chức ở Monaco đã xác định: Chính sách văn hóa là một tổng thểnhững thực hành xã
hội hữu thức được suy tính kỹ về sự can thiệp hay khơng can thiệp của Nhà nước vào
các hoạt động văn hóa bằng cách sử dụng tối ưu tất cả nguồn vật chất và nhân lực để
đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân.
Ở góc nhìn nghiên cứu của ngành chính sách cơng, chính sách bảo tồn và phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số được hiểu là một tập hợp các quyết định do nhà
nước ban hành theo thẩm quyền cùng với việc lựa chọn các giải pháp, công cụ để giải
quyết những vấn đề văn hóa các dân tộc thiểu số đặt ra trong thực tiễn xã hội nhằm



quản lý và định hướng bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số bền vững
theo mục tiêu xác định.
1.1.3.

Khái niệm “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hoá các dân

tộc thiểu số”
Việc thực hiện chính sách là một tất yếu khách quan để đạt mục tiêu đề ra theo
yêu cầu quản lý của nhà nước. Thực hiện chính sách[13;tr.112] là bước chuyển các ý
đồ của chính sách thành hiện thực thơng qua các hoạt động có tổ chức của cơ quan nhà
nước để đạt mục tiêu đã xác định.
Do đó, thực hiện chính sách được hiểu là việc tổ chức hoạt động của các chủ thể
tham gia vào quá trình triển khai chương trình hành động bằng các cơng cụ, giải pháp
đã xác lập trong các quyết định pháp lý nhằm hiện thực hóa mục tiêu của nhà nước để
cải thiện và phát triển xã hội.
Như vậy, thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
số được hiểu là việc tổ chức hoạt động của các chủ thể tham gia vào quá trình triển
khai chương trình hành động về lĩnh vực văn hóa các dân tộc thiểu số bằng các công
cụ, giải pháp đã xác lập trong các quyết định pháp lý nhằm hiện thực hóa mục tiêu
xác định của nhà nước về bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số theo
hướng bền vững.
Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải được triển khai
trong thực tiễn đời sống xã hội. Một chính sách tốt/ xấu chỉ có thểxác định khi trải qua
thực tiễn khách quan xã hội; và chúng được phán xét tích cực khi nhận được ý chí,
nguyện vọng và sự đồng thuận xã hội của nhân dân.
1.2.

Quy trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân

tộc thiểu số

1.2.1.

Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa

các dân tộc thiểu số
Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số là căn cứ định hướng để các cơ quan nhà nước chủ động tiến hành các
hoạt động đưa chính sách này đi vào đời sống thực tiễn xã hội. Kế hoạch triển khai


thực hiện chính sách về lĩnh vực văn hóa u cầu phải cụ thể, chi tiết và rõ ràng.
Kế hoạch về chương trình tổ chức, điều hành đối với cơ quan, tổ chức tham gia,

-

đội ngũ cán bộ đối với chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các DTTS, thường là
gồm có: Bảng phân cơng nhiệm vụ của từng cơ quan: cơ quan chủ trì đầu mối, cơ
quan thực hiện, các bên phối hợp thực hiện chính sách này; Bảng phần hành nhiệm vụ,
công việc gắn với trách nhiệm của từng cơ quan, của cán bộ quản lý và công chức,
viên chức thực hiện; Cơ chế tác động giữa các cấp trong thực hiện chính sách này.
Yêu cầu của việc xây dựng kế hoạch về chương trình tổ chức, điều hành chính
sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số địi hỏi là phải tránh tình trạng
chồng chéo hay trùng lặp nhiệm vụ hoặc tình trạng bỏ sót nhiệm vụ.
Kế hoạch về các nguồn lực thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa

-

các DTTS: Dự kiến quy mơ, chất lượng và cơ cấu đội ngũ nhân sự theo yêu cầu thực
hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa; Dự kiến tài chính ngân sách, trang thiết
bị, cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật,... Yêucầu việc dự kiến kế hoạch bố trí phải đủ

nguồn lực để các chủ thể chính sách triển khai kế hoạch hành động có tính khả thi.

Xác định khung tiến độ phân kỳ thời gian hoàn thành các nhiệm vụ cụ thể để

-

đạt đến mục tiêu cuối cùng của chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa: thời gian của
bước tuyên truyền phổ biến; thời gian tổ chức triển khai thực hiện chính sách và duy
trì, điều chỉnh chính sách này; thời gian sơ kết và tổng kết đánh giá chính sách. Việc
dự kiến thời gian các nhóm nhiệm vụ phải thực hiện gắn với các mục tiêu cụ thể phải
hoàn thành; và phải phù hợp với đề án/ chương trình hành động của chính sách bảo
tồn và phát triển văn hóa.
Dự kiến kế hoạch kiểm tra giám sát tiến độ thực thi chính sách này ở từng

-

phần công việc theo thời gian đã xác định. Dự kiến cả về các phương pháp sử dụng và
hình thức kiểm tra giám sát thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa.
-

Xây dựng quy chế thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa: quy

chế về tổ chức hoạt động điều hành chính sách này; quy chế làm việc của các cơ quan
nhà nước quản lý điều hành chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa; quy chế về khen
thưởng, kỷ luật trong thực hiện chính sách...


Việc xét duyệt kế hoạch chương trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa do thẩm quyền của người lãnh đạo cùng cấp quyết định. Sau khi kế hoạch
thực hiện chính sách này được duyệt sẽ có giá trị pháp lý cùng hiệu lực thi hành.

1.2.2.

Tổ chức tuyên truyền phổ biến thực hiện chính sách bảo tồn và phát

triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Bước này phải được triển khai ngay sau khi kế hoạch chương trình thực hiện
chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa được duyệt, u cầu các chủ thể của chính
sách này là cơ quan truyền thơng báo chí, các cơ quan nhànước, và đội ngũ cán bộ
phải triển khai kịp thời nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến chính sách theo kế hoạch
chương trình được duyệt. Đối tượng của cơng tác tuyên truyền phổ biến chính sách
bảo tồn và phát triển văn hóa là tồn thể các cộng đồng dân cư và nhân dân để họ được
biết và ý thức tự giác chấp hành và tham gia thực hiện chính sách này.
1.2.3.

Phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn

hóa các dân tộc thiểu số
Bước phân cơng, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ chính sách này tiến hành theo
chương trình kế hoạch hành động được duyệt nhưng cần đảm bảo sự phân công –
phân nhiệm rõ ràng của các cơ quan và các hoạt động phải có sự tương tác đồng bộ để
đảm bảo các mục tiêu chính sách.
Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số khơng chỉ có các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị
và đội ngũ nhân sự là cán bộ, công chức, viên chức, mà cịn phải coi trọng chủ thể
trung tâm của chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa là mọi người dân của tất cả các
thành phần dân tộc. Theo đó, việc cần thiết trong thực hiện chính sách bảo tồn và phát
triển văn hóa là phải xác lập một cơ chế phối hợp giữa các chủ thể tham gia.
Việc tổ chức phân công và phối hợp để thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa phải theo kế hoạch chương trình thực hiện chính sách được duyệt, phải gắn
kết làm rõ vai trò trách nhiệm cơ quan, cá nhân chủ trì/ điều phối, vai trị trách nhiệm

cơ quan, cá nhân tham gia là thành viên chính; vai trò trách nhiệm cơ quan, cá nhân là
thành viên phối hợp thực hiện (tránh tình trạng chung chung, khơng cụ thể rõ ràng xảy


ra).
1.2.4.

Duy trì và điều chỉnh chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân

tộc thiểu số
Việc duy trì chính sách này cần đảm bảo các điều kiện cần: (1) Hệ thống các cơ
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo tồn và phát triển văn hóa có đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn tương ứng; có đủ khả năng tổ chức điều hành và triển khai
tính khả thi chương trình hành động ở lĩnh vực này;
(2) Các nguồn lực vốn ngân sách, cơ sở vật chất, phương tiện và kỹ thuật phải được
phân bổ đủ để đảm bảo phục vụ chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa, đặc biệt là
bên cạnh lực lượng cán bộ, cơng chức, viên chức thì cần hình thành mạng lưới cộng
tác viên rộng khắp để thực hiện chính sách này;
(3) Có cơ chế, quy chế cụ thể về phân cơng - phối hợp thực hiện chính sách này.
Sự duy trì ổn định, thuận lợi đối với chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số hay không là tùy thuộc vào mức độ đồng thuận trong phối hợp giữa
các chủ thể, đó là: (1) Các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong tổ chức
điều hành thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa cần tạo lập mơi trường
ổn định để thuận lợi cho quá trình thực hiện chính sách này; (2) Chủ thể là người dân
ở tất cả các thành phần dân tộc là người chấp hành chính sách này, họ cần tự giác, tích
cực tham gia vào q trình chính sách này. Nếu việc tiến hành những hoạt động này có
tính đồng bộ thì việc duy trì chính sách này là thuận lợi.
Việc điều chỉnh chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa trong quá trình thực
hiện là nhiệm vụ cần thiết và rất quan trọng khi diễn biến của tác động chính sách
khơng thuận chiều. Những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách này

cũng là cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh chính sách. Quyền điều chỉnh chính sách
cần tập trung đổi mới cơ chế, sáng kiến biện pháp phù hợp thực hiện để đáp ứng mục
tiêu kỳ vọng của chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa (chứ không nên/ không
được làm phá vỡ mục tiêu ban đầu chính sách này).
1.2.5.

Theo dõi, kiểm tra và đơn đốc thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển

văn hóa các dân tộc thiểu số


×