Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Báo cáo " Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86 KB, 5 trang )



nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 25

mấy vấn đề về pháp luật kinh tế
Việt Nam hiện nay

PTS. Nguyễn Am Hiểu *
ông cuộc đổi mới ở nớc ta đợc bắt
đầu trong tình hình khủng hoảng kinh
tế - x hội trầm trọng ở các nớc x
hội chủ nghĩa với mô hình kinh tế tập
trung kế hoạch hóa. Vì vậy, muốn nhanh
chóng thoát khỏi tình trạng này, không
còn con đờng nào khác là phải bắt đầu
bằng việc đổi mới cơ chế quản lí kinh tế.
Về vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam
đ đánh giá: "Xét về tổng thể, Đảng ta đ
bắt đầu công cuộc đổi mới về t duy
chính trị trong việc hoạch định đờng lối
và các chính sách đối nội và đối ngoại;
không có sự đổi mới đó thì không có sự
đổi mới khác. Song Đảng ta đ đúng khi
tập trung trớc hết vào việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc
phục khủng hoảng kinh tế - x hội".
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc
đổi mới kinh tế, chúng ta đ đạt đợc
nhiều chỉ tiêu tăng trởng kinh tế rất đáng


chú ý, đặc biệt là sự thay đổi về cơ cấu
của nền kinh tế. Nền kinh tế nhiều thành
phần đ tạo ra sức cạnh tranh mới làm
động lực để phát triển kinh tế. Theo con
số của cơ quan quản lí đăng kí kinh
doanh, tính đến tháng 6/1999 thì số
doanh nghiệp nhà nớc đ đăng kí kinh
doanh là khoảng trên 6.000 doanh nghiệp
với số vốn điều lệ là 109.806 tỉ đồng,
doanh nghiệp đoàn thể là 384 doanh
nghiệp với số vốn đầu t ban đầu là
5.448,316 tỉ đồng, công ti trách nhiệm
hữu hạn là 11.375 doanh nghiệp với số
vốn điều lệ là 11.537,539 tỉ đồng, công ti
cổ phần là 364 doanh nghiệp với số vốn
điều lệ là 4.800,052 tỉ đồng. Ngoài ra,
còn phải kể đến 13.000 hợp tác x đ
đăng kí theo Luật hợp tác x và khoảng
2.000.000 ngời kinh doanh đ đăng kí
theo Nghị định số 66/HĐBT. Điều đó đ
làm thay đổi cơ bản cơ cấu các thành
phần kinh tế so với trớc khi tiến hành
đổi mới. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
mặc dù đợc tổ chức ở quy mô nhỏ hơn
doanh nghiệp quốc doanh nhng đ tạo ra
động lực cạnh tranh quan trọng trong nền
kinh tế.
Để đạt đợc những thành tựu đáng kể
đó, chúng ta đ phải cố gắng rất nhiều
trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực

pháp luật. Nhận thức đợc vấn đề này nên
trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật,
Nhà nớc đ dành những nỗ lực rất lớn
trong việc hoàn thiện pháp luật kinh tế.
Có thể nói, đây là lĩnh vực pháp luật đợc
quan tâm nhất trong hệ thống pháp luật
của nớc ta trong thời gian qua, nhất là
trên phơng diện hoạt động lập pháp.
Nhận xét về vấn đề này, cố Phó chủ
tịch Quốc hội Phùng Văn Tửu cho rằng:
"Có thể nói, hoạt động lập pháp từ sau
khi có đờng lối đổi mới đến nay đ đạt
đợc những kết quả đáng khích lệ. Trong
nhiệm kì 1987 - 1992, Quốc hội khóa VIII
đ ban hành 31 đạo luật và đ thông qua
Hiến pháp mới năm 1992. Từ sau Hiến
C

* Vụ pháp luật dân sự - kinh tế
Bộ t pháp


nghiên cứu - trao đổi
26 - tạp chí luật học

pháp năm 1992 đến nay, hoạt động lập
pháp diễn ra rất khẩn trơng, sôi nổi.
Quốc hội khóa IX đ thông qua 2 Bộ luật
lớn (Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động), 35
luật, 38 pháp lệnh, 4 quy chế. Các văn

bản đợc ban hành bao gồm nhiều lĩnh
vực trên diện rộng, có u tiên lĩnh vực
trọng tâm là kinh tế (17 luật, 7 pháp
lệnh), tập trung vào các vấn đề: Loại
hình doanh nghiệp, các nguồn tài nguyên,
chính sách khuyến khích đầu t, thuế, tài
chính tiền tệ, ngân sách "
(1)
. Nhìn vào
chơng trình làm luật của Quốc hội trong
những năm tới, chúng ta thấy xu hớng
này vẫn còn tiếp tục phát triển.
Cho đến nay, ở nớc ta cha có tài
liệu nào đánh giá một cách tổng quát về
thực trạng pháp luật kinh tế Việt Nam.
Điều này xuất phát từ khó khăn là cha
có nhận thức thống nhất về pháp luật kinh
tế. Mặt khác, Việt Nam mới qua 10 năm
đổi mới cơ chế quản lí, pháp luật kinh tế
theo cơ chế thị trờng chỉ mới đợc hình
thành. Hơn nữa, lí luận về pháp luật kinh
tế nớc ta cha phát triển, vì vậy cha tạo
ra đợc cơ sở lí luận riêng làm cơ sở để
đánh giá pháp luật nói chung và pháp luật
kinh tế nói riêng.
Thực tế pháp lí cũng nh hoạt động
kinh tế cho thấy đ có nhiều cách đánh
giá của các chuyên gia, các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nớc về thực trạng
pháp luật kinh tế nói chung và từng lĩnh

vực của pháp luật kinh tế nói riêng. Tuy
vậy, có thể phân chia các đánh giá này
thành hai xu hớng cơ bản sau:
Xu hớng thứ nhất nhìn nhận pháp
luật kinh tế chủ yếu dới góc độ coi pháp
luật kinh tế là phơng tiện, công cụ quản
lí của Nhà nớc đối với kinh tế. Xu hớng
nghiên cứu này cho rằng đ có những
thay đổi cơ bản trong việc xây dựng pháp
luật kinh tế cho phù hợp với cơ chế quản
lí kinh tế theo cơ chế thị trờng nhng
nói chung pháp luật cha đi vào cuộc
sống, ít tính khả thi và còn nhiều kẽ hở
nên không hạn chế đợc các hiện tợng
tiêu cực đang có xu hớng gia tăng, phát
triển.
Xu hớng thứ hai nhìn nhận pháp luật
kinh tế chủ yếu là những bảo đảm pháp lí
cho quá trình đổi mới để khuyến khích
các nhà đầu t đầu t vốn vào phát triển
kinh tế. Xu hớng này cũng cho rằng,
nhìn tổng quát đ tạo ra đợc hành lang
pháp lí cho sự vận hành của nền kinh tế
thị trờng. Tuy vậy, về mặt kĩ thuật còn
thiếu nhiều cơ chế bảo đảm quyền lợi của
nhà đầu t và đặc biệt là sự không ổn
định của pháp luật làm cho các nhà đầu t
lo ngại. Đó là:
Thứ nhất, ở Việt Nam, sau hơn 10
năm đổi mới, pháp luật kinh tế hay luật

kinh tế không mất đi nh một số đánh giá
trong thời kì bắt đầu tiến hành công cuộc
đổi mới mà đ bắt đầu hình thành và ngày
càng phát triển theo cơ chế quản lí kinh tế
mới. Đó là cơ sở pháp lí ban đầu bảo đảm
cho sự hình thành của cơ chế quản lí kinh
tế mới - cơ chế kinh tế thị trờng có sự
quản lí của Nhà nớc theo định hớng x
hội chủ nghĩa. Nhng cơ sở pháp lí này
mang nặng tính hỗn hợp các nguyên tắc
của nền kinh tế đợc quản lí theo cơ chế
kế hoạch hóa tập trung và kinh tế thị
trờng mà nhiều chuyên gia phơng tây
gọi là tính thỏa hiệp (compromise) của
pháp luật Việt Nam hiện nay. Ví dụ:
Công dân có quyền tự do kinh doanh
nhng khi muốn thành lập doanh nghiệp
lại phải xin phép Nhà nớc; quyền tự do
định đoạt của doanh nghiệp cũng đợc
thể hiện bằng quyền khởi kiện trong giải


nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 27

quyết tranh chấp kinh tế nhng việc phúc
thẩm và giám đốc thẩm lại có thể phụ
thuộc hoàn toàn vào quyền kháng nghị
của tòa án và viện kiểm sát; các bên tranh
chấp chỉ khởi kiện về phần nội dung cụ

thể nào đó của hợp đồng (nh về nghĩa vụ
thanh toán) nhng tòa án lại có quyền
phán quyết hợp đồng đó vô hiệu do nó có
một số sai sót về mặt thủ tục nh sai về
thẩm quyền kí kết, sai về hình thức hợp
đồng - những điều mà các bên hợp đồng
không hề có tranh chấp. Đặc điểm này
phản ánh tính khách quan là nền kinh tế
Việt Nam đang nằm trong quá trình
chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế.
Thứ hai, cơ sở pháp lí này mặc dù mới
hình thành nhng đ tạo thành hệ thống
tơng đối hoàn chỉnh bao gồm hầu hết
các chế định rất cơ bản, cần thiết cho sự
hình thành và hoạt động của cơ chế quản
lí kinh tế mới. Tuy nhiên, hệ thống này
còn thiếu một số lĩnh vực quan trọng và
đặc trng cho pháp luật của nền kinh tế
thị trờng nh pháp luật về cạnh tranh,
pháp luật về giấy tờ có giá và thậm chí
thiếu cả những chế định có thể chỉ mang
tính kĩ thuật nhng rất quan trọng trong
nền kinh tế nhiều thành phần nh luật về
chuyển đổi hình thức doanh nghiệp. Do
không có luật chuyển đổi hình thức
doanh nghiệp nên công ti trách nhiệm
hữu hạn muốn chuyển thành công ti cổ
phần phải làm hai thủ tục là giải thể công
ti trách nhiệm hữu hạn và thành lập mới
công ti cổ phần dù công ti đó vẫn hoạt

động và chỉ thay đổi hình thức pháp lí mà
thôi. Khiếm khuyết này đ hạn chế quyền
lựa chọn hình thức doanh nghiệp và gây
tốn kém không cần thiết cho nhà kinh
doanh cũng nh cho x hội. Luật doanh
nghiệp vừa đợc Quốc hội thông qua
tháng 6/1999 đ khắc phục một phần hạn
chế này.
Thứ ba, pháp luật kinh tế bị chia cắt
theo nhiều cách khác nhau nên nhiều lĩnh
vực thể hiện tính thiếu hệ thống, vô hiệu
hóa lẫn nhau; nhiều văn bản pháp luật
mới ban hành điều chỉnh cùng loại quan
hệ kinh tế - x hội cũng mâu thuẫn,
chồng chéo, cản trở hoặc triệt tiêu hiệu
lực của nhau. Ví dụ, pháp luật giải quyết
tranh chấp kinh tế đ cho ra đời hai tổ
chức giải quyết tranh chấp kinh tế thích
hợp với cơ chế thị trờng là tòa kinh tế và
trọng tài kinh tế nhng lại không đặt
chúng trong mối quan hệ có tính hệ
thống, do đó không bảo đảm tính khả thi
của pháp luật. Trong lĩnh vực hợp đồng,
sự tồn tại của Bộ luật dân sự, Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế, Luật thơng mại dẫn
tới nhiều cách giải thích khác nhau về áp
dụng luật và điều đó đ gây ra không ít
rủi ro cho các nhà kinh doanh. Sự tồn tại
chức năng của các cơ quan chủ quản và
cơ chế làm luật hiện nay cũng làm giảm

tính hệ thống của pháp luật kinh tế. Cơ
quan chủ quản khi xây dựng văn bản
pháp luật liên quan đến chức năng quản lí
của mình thờng nhìn nhận từ yêu cầu
quản lí nhà nớc của bộ máy hiện tại hơn
là nhìn nhận từ việc bảo vệ quyền, lợi ích
của các bên khi họ tham gia vào hoạt
động kinh tế.
Thứ t, pháp luật kinh tế tuy là bà đỡ
quan trọng cho sự ra đời của cơ chế quản
lí kinh tế mới nhng nhiều lĩnh vực lại
đang nằm trong tình trạng bất cập giữa
pháp luật và kinh tế, nhiều quy định đ
quá lạc hậu so với sự phát triển của kinh
tế. Ví dụ: Quy định hợp đồng kinh tế phải
dới hình thức văn bản là quá lạc hậu so
với tình hình phát triển của công nghệ
thông tin hiện nay và không phù hợp với
thực tiễn thơng mại. Sự lạc hậu của pháp


nghiên cứu - trao đổi
28 - tạp chí luật học

luật so với kinh tế là thực tế khách quan
vì pháp luật chỉ là biểu hiện của kinh tế
nhng sự lạc hậu đó chỉ đợc ở mức độ
nhất định nếu không nó sẽ hạn chế tính
khả thi của pháp luật.
Thứ năm, pháp luật kinh tế đ có nhiều

cố gắng cụ thể hóa các quan hệ x hội
nhng nói chung vẫn thiếu tính cụ thể, phần
nhiều đợc coi nh các quy định khung,
các nguyên tắc cơ bản. Vì vậy, việc áp dụng
trực tiếp gặp nhiều khó khăn và phải chờ
đợi hớng dẫn của Nhà nớc. Vì là luật
khung nên có luật cần rất nhiều văn bản
hớng dẫn thi hành nh Luật đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam có tới trên 110 văn bản
hớng dẫn thi hành. Trong nhiều trờng
hợp, văn bản hớng dẫn đợc ban hành
chậm, hớng dẫn trái với quy định của luật
hoặc mở rộng phạm vi so với luật khung;
ủy ban nhân dân cũng hớng dẫn thi hành
luật nên dẫn tới sự áp dụng không thống
nhất giữa các địa phơng. Nhiều lĩnh vực
kinh doanh quan trọng nhng chỉ đợc quy
định trong các văn bản do Chính phủ và bộ
ban hành nh vấn đề quản lí giá, kinh
doanh bảo hiểm, phát hành séc, thanh toán
qua ngân hàng
Thứ sáu, trong quá trình hội nhập vào
các quan hệ kinh tế quốc tế, Việt Nam
cha tham gia một số công ớc quan
trọng trong hoạt động kinh tế. Ví dụ: Việt
Nam cha tham gia Công ớc Viên năm
1980 về mua bán hàng hóa quốc tế. Mặt
khác, Việt Nam cha có hệ thống kế toán
và kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế
cũng nh một số thiết chế cần thiết khác

(nh trung tâm đăng kí kinh doanh thống
nhất), cha có cơ sở để đăng kí giao dịch
có bảo đảm.
Thứ bảy, pháp luật kinh tế đ góp
phần quan trọng vào việc thay đổi cơ chế
quản lí kinh tế nhng chức năng quản lí
nhà nớc đối với hoạt động kinh doanh
vẫn chủ yếu thực hiện thông qua các biện
pháp hành chính. Vì vậy, pháp luật kinh
tế nói chung ít mang tính chất của "luật
t" theo quan niệm của các nớc châu Âu
lục địa. Ví dụ: Luật công ti năm 1990 chủ
yếu bao gồm các quy định về thủ tục
thành lập và giải thể công ti, các quan hệ
phát sinh trong quá trình hoạt động của
công ti ít đợc quy định. Luật doanh
nghiệp vừa đợc Quốc hội thông qua
tháng 6/1999 cũng đ khắc phục một
phần hạn chế này. Pháp luật kinh tế thiếu
nhiều cơ chế tự kiểm soát thông qua thị
trờng hoặc nếu có thì hoạt động cha
hiệu quả. Ví dụ: Cơ chế bảo đảm tính
công khai của thị trờng, hoạt động của
kiểm toán độc lập Chức năng thanh tra
của Nhà nớc với hoạt động kinh tế vẫn
đợc coi trọng hơn là cơ chế tự kiểm soát
do những ngời trực tiếp tham gia vào
hoạt động kinh tế thực hiện. Điều đó
đợc thể hiện là hầu hết các văn bản pháp
luật đều có chơng về thanh tra và xử lí vi

phạm.
Các nhà nghiên cứu kinh tế thị trờng
đều cho rằng có sự khác nhau giữa kinh
tế thị trờng "tự do" và kinh tế thị trờng
"x hội" song nền kinh tế thị trờng có sự
quản lí của Nhà nớc về cơ bản bao giờ
cũng mang tính x hội. Trong thực thế,
không thể có nền kinh tế thị trờng hoàn
toàn tự do, bởi nền kinh tế thị trờng
hoàn toàn tự do sẽ dẫn tới tình trạng độc
quyền và thủ tiêu cạnh tranh. Vì vậy, nhà
nớc nào cũng can thiệp vào thị trờng
mà trong đó luật cạnh tranh là phơng
tiện quan trọng nhất của nhà nớc để can
thiệp vào thị trờng, làm cho thị trờng
hoạt động và phát triển lành mạnh.
Chức năng quản lí nhà nớc đối với
nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam đ


nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 29

đợc thể chế trong Hiến pháp 1992 và
trong hầu hết các văn bản pháp luật hiện
hành. Tuy vậy, cho đến nay vẫn không
định ra đợc các nguyên tắc chuẩn có
tính khoa học để nhà lập pháp xác định
chức năng quản lí của nhà nớc. ở nhiều
nớc phơng Tây, ngời ta xác định chức

năng quản lí của nhà nớc là cần thiết
nếu cơ chế thị trờng không tự đảm bảo
cho sự lành mạnh của thị trờng và quyền
lợi chung của x hội không đợc giải
quyết. Ví dụ, bản thân hoạt động kinh tế
không bảo vệ quyền lợi của ngời tiêu
dùng nên nhà nớc cần can thiệp để bảo
vệ quyền lợi của ngời tiêu dùng; việc
cho phép công khai huy động vốn trong
công chúng có thể dẫn đến rủi ro cho
công chúng cũng nh sự ổn định của x
hội vì vậy nhà nớc cần quản lí, kiểm
soát chặt chẽ
Thứ tám, tự do kinh doanh và tự do
cạnh tranh là các nguyên tắc cơ bản của
nền kinh tế thị trờng. Tự do kinh doanh
là quyền đợc hiểu theo nghĩa rộng trong
đó quan trọng nhất ở nớc ta hiện nay là
việc mở rộng sự tham gia của các thành
phần kinh tế, tạo ra khả năng cạnh tranh
làm động lực phát triển kinh tế. Quyền tự
do kinh doanh đợc quy định lần đầu tại
Luật công ti (đợc Quốc hội thông qua
ngày 21/12/1990), Luật doanh nghiệp t
nhân (đợc Quốc hội thông qua ngày
21/12/1990) và là quyền hiến định đợc
quy định tại Điều 57 Hiến pháp 1992.
Tự do cạnh tranh là một trong các
động lực của thị trờng nhng tự do kinh
doanh sẽ tạo ra độc quyền, thủ tiêu cạnh

tranh và tình trạng cá lớn nuốt cá bé. Vấn
đề quan trọng đối với Nhà nớc và pháp
luật là làm sao cho cạnh tranh không đơn
thuần là nhằm mục đích kinh tế mà thông
qua cạnh tranh còn tạo cho x hội những
sản phẩm tốt, đáp ứng yêu cầu cao về
thẩm mĩ, đa vào khai thác công nghệ
thích hợp nhất đối với môi trờng sống
hoặc mang tính nhân đạo sâu sắc nhất. Vì
lợi ích của toàn x hội, vấn đề này phải
đợc giải quyết bằng cách vợt qua
những tiêu chuẩn về đồng tiền và lợi
nhuận, điều mà hầu hết các nhà kinh
doanh khó có thể tự vợt qua.
Kinh nghiệm của các nớc có nền
kinh tế thị trờng cho thấy, để phù hợp
với điều kiện của thị trờng, vấn đề này
thờng đợc giải quyết theo hai cách:
Cách thứ nhất là nhà nớc điều chỉnh lại
những tổn thất trong quá trình cạnh tranh,
nhà nớc xây dựng chính sách x hội
trong quá trình phát triển kinh tế để giải
quyết các hậu quả xấu của tự do cạnh
tranh. Cách thứ hai là nhà nớc tạo ra các
tiền đề để thực hiện hoạt động kinh tế,
nghĩa là nhà nớc tạo ra các điều kiện
khung cho cạnh tranh kinh tế thông qua
chính sách tiền tệ, chính sách tài chính và
thông qua pháp luật
Hiện tại, Việt Nam cha có luật

chống hạn chế cạnh tranh hay đạo luật
riêng liên quan đến tự do cạnh tranh.
Quyền tự do cạnh tranh hiện nay chỉ đợc
bảo đảm thông qua việc bảo vệ quyền tự
do kinh doanh, tự do hợp đồng và tự do
định đoạt. Về vấn đề này, trong giới
nghiên cứu đang hình thành (dù cha rõ
ràng) hai quan điểm về luật cạnh tranh:
Một là, cho rằng nền kinh tế thị trờng
mới bắt đầu hình thành, các điều kiện
cạnh tranh cha thực sự tồn tại. Vì
(Xem tiếp trang 34)


×