Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

SKKN Sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề trong giảng dạy một số bài GDCD lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.72 KB, 14 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG CĨ VẤN ĐỀ
TRONG GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI GDCD LỚP 12
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mơn Giáo dục cơng dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong
việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con người toàn
diện. Tuy nhiên thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại học môn GDCD vì coi đây
là mơn phụ, khơng phục vụ cho việc thi Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên
các em chỉ học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến
và trở thành thực trạng chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
Thứ nhất: Nội dung, chương trình mơn GDCD khô khan, nhiều kiến thức
trừu tượng dẫn đến học sinh khó hiểu, khó tiếp thu vì vậy khơng gây được sự hứng
thú đối với người học.
Thứ hai: Cơ chế thị trường đã len lỏi vào trong nhận thức của các em học
sinh và gia đình chỉ tập trung đầu tư vào các môn thi Đại học. Các em xem nhẹ
môn GDCD, đến lớp chỉ học qua loa, học một cách đối phó. Bên cạnh đấy bản thân
một số giáo viên dạy mơn GDCD cịn xem nhẹ mơn của mình, coi là mơn phụ,
khơng có hứng thú trong giảng dạy, ít đầu tư vào chuyên môn. Đến lớp chỉ truyền
thụ những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, nặng về phương pháp dạy học
truyền thống, ít đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến tiết học khô khan, học sinh
dễ nhàm chán và ngại học. Vì vậy, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, để
học sinh đóng vai trò trung tâm trong các tiết học đòi hỏi mối giáo viên dạy môn
GDCD cần phải đổi mới phương pháp dạy học.
Với yêu cầu dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo
dục phổ thơng hiện nay, học sinh không chỉ đạt được những yêu cầu cơ bản về kiến
thức mà còn phải đạt được những yêu cầu tối thiểu về kĩ năng của môn học, bài
học. Do đó, học sinh khơng chỉ nắm, hiểu về nội dung mà còn phải biết vận dụng
kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề cụ thể trong thực tiễn. Việc đánh giá học
sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ năng cũng không dừng lại ở mức độ nhận biết, thơng
hiểu mà cịn đánh giá ở mức độ vận dụng.


Q trình dạy học mơn GDCD là q trình học sinh được cuốn hút vào các
hoạt động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo, để thơng qua đó, học sinh có
thể tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải huy
động, khai thác tối đa năng lực tư duy cho học sinh, tạo cơ hội và động viên,
khuyến khích học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về vấn đề đang học. Để
làm được điều đó, ngồi các phương pháp như: Đàm thoại, vấn đáp, nêu vấn đề,
thảo luận nhóm….thì phương pháp tình huống có vấn đề là một phương pháp có
1
SangKienKinhNghiem.net


thể phát huy được tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên, khơng phải bất kì bài nào
cũng có thể sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề và chỉ rập khuôn theo
một cách. Chọn phương pháp cho một tiết học là khơng khó nhưng làm sao để sử
dụng phương pháp đó một cách có hiệu quả thì là cả một vấn đề cần bàn luận,
nghiên cứu.
Qua 14 năm tham gia giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân ở trường THPT
Quan Hóa, bản thân tơi nhận thấy được những vấn đề trên. Do đó với sáng kiến
kinh nghiệm này, tôi muốn giúp học sinh không chỉ làm quen với kiến thức pháp
luật cụ thể mà còn hiểu vấn đề một cách sâu sắc hơn, hình thành cho học sinh thói
quen, kĩ năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề cụ thể trong thực tiễn;
tạo điều kiện cho học sinh có thêm hiểu biết về pháp luật Việt Nam; góp phần khắc
phục tính triết lí, khơ khan của môn học, để tiết dạy-học môn Giáo dục công dân
trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Những suy nghĩ ấy đã thôi thúc tôi chọn đề tài:
phương pháp tình huống có vấn đề khi giảng dạy một số bài trong chương trình
GDCD lớp 12. Tơi xin mạnh dạn trình bày ở đây với hi vọng cung cấp cho các bạn
đồng nghiệp một số kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề tơi nhằm hướng đến
các mục đích sau:

+ Nâng cao phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động của người học,
hình thành và phát triển năng lực tự học, trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh
hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy, nâng cao hứng thú cho người học.
+ Việc sử dụng các phương pháp dạy học tiến bộ trên sẽ nâng cao tính chủ
động, sáng tạo, bồi đắp niềm tin, hứng thú, tình yêu, sự say mê đối với môn học...
Đồng thời, giúp các em củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học
một cách hiệu quả; nâng cao năng lực phân tích, giải quyết vấn đề, năng lực sử
dụng ngôn ngữ và giao tiếp.
+ Qua nội dung môn học giúp học sinh phát triển năng lực thích ứng được với
cuộc sống bên ngồi, có được lối sống đẹp, đúng pháp luật, có cách ứng xử hay với
những trường hợp cụ thể xảy ra trong cuộc sống.
+ Đánh giá được thực trạng việc dạy và học tập môn Giáo dục công dân 12
của học sinh ở trường Trung học phổ thông. Thông qua đó, nâng cao ý thức và
hứng thú học tập mơn Giáo dục công dân cho các em.
+ Vận dụng nội dung nghiên cứu vào thực tiễn giảng dạy môn GDCD lớp 12
nói riêng và cả chương trình GDCD THPT nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm tịi và vận dụng một cách linh hoạt một số phương pháp dạy
học môn Giáo dục công dân theo định hướng phát triển năng lực vào giảng dạy
phần “Công dân với pháp luật - mơn GDCD lớp 12’’, trong đó tập trung vào việc
sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề để kích thích hứng thú học tập của
học sinh.
2
SangKienKinhNghiem.net


Đồng thời nghiên cứu nội dung chương trình Giáo dục công dân lớp 12, việc
dạy của giáo viên và học tập của học sinh đối với mơn học. Từ đó vận dụng một
cách linh hoạt phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân theo định hướng phát
triển năng lực vào giảng dạy trong từng tiết học để phát huy tính tích cực, chủ

động, sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của bộ mơn
ở trường THPT.
Học sinh khối 12 trường THPT Quan Hóa trong các năm học 2016-2017;
2017- 2018; 2018- 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng kết hợp phương pháp tình huống có vấn đề với các phương pháp
nghiên cứu của phép biện chứng duy vật: Lơgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so
sánh… để giải quyết nội dung đề tài.
- Đặc biệt là phương pháp thực nghiệm (thông qua thực tế dạy học trên lớp,
giao bài tập, củng cố bài học, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài kết hợp với kiểm
tra, đánh giá).
- Gắn lý luận với thực tiễn.
2.NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp tình huống có vấn đề là một phương pháp dạy học, trong đó
học sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của
tình huống đặt ra.
Tình huống là một hồn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án
giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hồn cảnh gắn với câu chuyện
có cốt chuyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để
chứng minh một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống trong
dạy học là những tình huống thực hoặc mơ phỏng theo tình huống thực, được cấu
trúc hóa nhằm mục đích dạy học.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng. Nó là cơng cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật khơng chỉ là một cơng cụ quản lý
nhà nước hữu hiệu, mà cịn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức
đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị

mới.
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp
luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó khơng chỉ nhằm mục đích
xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và
phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Pháp luật càng chặt
chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao,
3
SangKienKinhNghiem.net


đồng thời khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh
hưởng một cách tồn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội
* Thuận lợi
+ Chương trình GDCD lớp 12, phần "Cơng dân với pháp luật” có nhiều nội
dung phù hợp với việc sử dụng các phương pháp dạy học nhóm, phương pháp
động não, phương pháp dạy học qua trải nghiệm và khám phá, phương pháp đóng
vai và Phương pháp tình huống có vấn đề.
+ Cơ sở vật chất nhà trường đã được trang bị tương đối đầy đủ tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động nhóm, hoạt động trải nghiệm và khám phá như: phòng học
đạt chuẩn cho học sinh hoạt động, có trang bị máy vi tính, máy chiếu, bảng phụ ...
+ Giáo viên và học sinh có điều kiện thuận lợi khi tiếp cận với nguồn thông
tin về cuộc sống xã hội từ nhiều phương tiện khác nhau làm tư liệu cho quá trình
học tập.
+ Phương pháp dạy học này đã khắc phục được tình trạng học tập nhàm chán,
thụ động, ỉ lại trong học tập. Vì vậy mà đã gây được hứng thú cho người học, kích
thích, phát huy tư duy tích cực của học sinh.
+ Việc sử dụng các phương pháp dạy học tiến bộ trên sẽ nâng cao tính chủ
động, sáng tạo, bồi đắp niềm tin, hứng thú, tình yêu, sự say mê đối với môn học...
Đồng thời, giúp các em củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học

một cách hiệu quả; nâng cao năng lực phân tích, giải quyết vấn đề, năng lực sử
dụng ngôn ngữ và giao tiếp.
* Khó khăn
+ Lâu nay, mơn GDCD thường được nhiều học sinh, phụ huynh và đôi khi
kể cả người dạy cũng mang tâm lý coi đây là môn phụ. Môn GDCD lớp 12, phần
thứ nhất: “Công dân với pháp luật” mang đậm tri thức pháp luật với những khái
niệm có phần khơ khan , khó nhớ.
+ Học sinh thuộc địa bàn miền núi nên khả năng nắm bắt thơng tin cịn nhiều
hạn chế.
+ Học sinh còn quen với phương pháp truyền thống: thụ động, ỷ lại, chỉ nắm
những vấn đề khi được giáo viên cung cấp.
+ Với học sinh lớp 12, khả năng tư duy, lý luận, phân tích, đánh giá … một
vấn đề mang tri thức pháp luật là cực kỳ khó.
+ Khả năng nắm, hiểu và giải thích được một số khái niệm pháp luật là rất
khó đối với các em.
+ Đa số học sinh chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhớ kiến thức.
+ Hệ thống câu hỏi bài tập vận dụng trong sách giáo khoa cịn ít.
+ Đa số học sinh khơng có thói quen tự trả lời các câu hỏi hay tự giải các bài
tập trong sách giáo khoa.
+ Sự hiểu biết về pháp luật ở học sinh còn hạn chế.
+ Khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết một vấn đề cụ thể là khơng có.
4
SangKienKinhNghiem.net


Vì vậy, sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề trong giảng giạy pháp
luật gdcd 12” để giúp học sinh hiểu, khắc sâu hơn kiến thức; giúp học sinh hình
thành khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn là rất cần
thiết. Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn giảng dạy thơi thúc tơi hồn thành
sáng kiến kinh nghiệm này.

2.3. Giải pháp giải quyết vấn đề
* Cách tiến hành
Các bước nghiên cứu tình huống có thể là:
- Học sinh đọc (xem hoặc nghe) tình huống thực tế và suy nghĩ về nó.
- Giáo viên đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống.
-Thảo luận tình huống thực tế.
- Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
* Yêu cầu sư phạm
- Tình huống có thể dài hay ngắn, tùy từng nội dung vấn đề.
- Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như:
Bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật A? Nhân
vật B?....Vấn đề này có thể đã được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm
gì để hạn chế tính trầm trọng của vấn đề?
- Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống
rộng hơn, khái quát hơn.
- Tình huống cần liên hệ với kinh nghiệm hiện tại cũng như tình huống cuộc
sống, nghề nghiệp trong tương lai của người học.
- Tình huống có thể diễn giải theo cách nhìn của người học và để mở nhiều
hướng giải quyết.
- Tình huống cần chứa đựng mâu thuẫn, vấn đề và có thể có liên quan đến
nhiều phương diện.
- Tình huống cần vừa sức với học sinh và có thể giải quyết trong điều kiện cụ
thể.
- Tình huống cần có nhiều cách giải quyết khác nhau. Trong việc giải quyết
các tình huống thực tiễn, khơng phải bao giờ cũng có những giải pháp duy nhất
đúng.
- Đơi khi, nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một
băng đĩa mà không phải dựa trên dạng chữ viết.
* Áp dụng “phương pháp tình huống có vấn đề” trong dạy học mơn GDCD ở
trường THPT Quan Hóa.

Trong khn khổ của sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ nêu lên thực tiễn áp
dụng ở Bài 2 và Bài 6 của chương trình GDCD lớp 12 - THPT.
Trong q trình giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng rất nhiều phương pháp
khác nhau. Tuy nhiên vấn đề là dùng phương pháp nào đem lại hiệu quả giảng dạy
tối ưu, học sinh chiếm lĩnh tri thức nhanh nhất và khắc sâu kiến thức nhất. Thông
thường khi giảng bài này giáo viên thường đưa ra các tình huống liên quan đến bài
học, giáo viên phân tích tình huống và giảng giải sau đó yêu cầu học sinh rút ra
5
SangKienKinhNghiem.net


kiến thức cơ bản của bài học. Nhưng nếu các đơn vị kiến thức trong bài đều sử
dụng một phương pháp thì tiết học sẽ trở nên nhàm chán, khơng kích thích được sự
hứng thú của học sinh.Tuy nhiên cũng bằng phương pháp tình huống được sử dụng
một cách sáng tạo hơn, kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm để phát huy
tính chủ động, tự giác, sáng tạo từ phía học trị bằng cách u cầu học sinh chuẩn bị
bài trước khi đến lớp.
Mặt khác, khi sử dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy nếu giáo
viên chỉ cho học sinh thảo luận các tình huống trong sách giáo khoa thơi thì bài học
sẽ mang tính kinh viện và chỉ đạt được một mục đích của bài là về kiến thức còn về
thái độ, kỹ năng là chưa có. Xuất phát từ thực tiễn trên khi sử dụng phương pháp
này giáo viên cần xây dựng các tình huống phải sát với thực tiễn cuộc sống và gần
gũi với nhận thức, tâm lý lứa tuổi học sinh.
Ví dụ: Khi giảng bài 2: Thực hiện pháp luật. Mục: “các hình thức thực hiện pháp
luật” giáo viên yêu cầu học sinh giải quyết tình huống sau: theo nhóm
Nhóm 1: Bạn Yến Nhi là học sinh lớp 12 a1 ngoài giờ học bạn còn kinh doanh
online quần áo trên fb, bạn minh cho rằng bạn Nhi khơng đc làm thế vì cịn nhỏ
chưa đủ 18 tuổi nên khơng có quyền kinh doanh.
Hỏi :Ý kiến của em như thế nào?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo

luận, đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận : đó là quyền sử dụng
pháp luật của cơng dân. Là hình thức thực hiện các quy phạm PL mà các cá nhân,
tổ chức, sử dụng đúng đắn các quyền của mình làm những gì mà PL cho phép,
khơng phụ thuộc ý chí của người khác.
Nhóm 2 : Mọi người khi ngồi trên mô tô, xe máy,xe đạp điện tự giác đội mũ bảo
hiểm khi tham gia giao thông đường bộ. bạn Mạnh cho rằng việc đội mũ bảo
hiểm thì bảo vệ người đó nếu bạn khơng đội thì cảnh sát cũng khơng có quyền
bắt bạn ấy. theo em bạn ấy đúng hay sai ? Vì sao?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo
luận, đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận : đó là hình thức thi
hành PL là các cá nhân, tổ chức trong XH. Các chủ thể bắt buộc phải thực hiện các
quy định của PL, phải làm những gì mà PL quy định phải làm nếu không thực hiện
xẽ bị xử lí theo quy định của PL.
Nhóm 3 : Một nhóm bạn học sinh đi học về dàn xe đạp hàng ngang trên đường
vừa đi vừa cười nói sử dụng điện thoại và che ô .. hành động của các bạn bị
cảnh sát giao thông bắt , khi về đồn cơng an các bạn cho rằng mình khơng gây
tai nạn nên không vi phạm pháp luật. Theo em các bạn có đúng ko vì sao?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo
luận, đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận : các bạn học sinh đã
sai vì khơng tuân thủ pháp luật .Tuân thủ PL là các cá nhân, tổ chức trong XH. Các
chủ thể không làm những gì mà PL cấm. Ở hình thức này chủ thể phải thực hiện
quy định của PL, khơng làm những gì mà PL cấm. Nếu không thực hiện đúng quy
6
SangKienKinhNghiem.net


định của PL thì sẽ bị xử lí thao quy định của PL.
Ví dụ: Khi giảng bài 2: Thực hiện pháp luật. Mục: “Vi phạm pháp luật và trách
nhiệm pháp lý” giáo viên yêu cầu học sinh giải quyết tình huống sau:
“ Nam (19 tuổi) đi xe mô tô đến một ngã tư, mặc dù có báo hiệu đèn đỏ nhưng

vẫn không dừng lại. Do không tuân theo chỉ dẫn của tín hiệu đèn nên đã bị cảnh
sát giao thơng bắt dừng lại và yêu cầu xuất trình giấy tờ. Nam đã xuất trình đầy
đủ giáy tờ cần thiết nhưng cảnh sát giao thông vẫn lập biên bản và yêu cầu nộp
phạt. Nam cho rằng cảnh sát giao thông xử phạt khơng có tình, có lý. Vì thực tế
đường vắng, Nam khơng gây tai nạn cho ai và xuất trình đầy đủ giấy tờ hợp
pháp.
Hỏi: a. Hành vi của Nam có vi phạm pháp luật khơng? Vì sao?
b. Nếu là hành vi vi phạm pháp luật thì đó là vi phạm pháp luật gì?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo luận,
đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận. Như vậy việc tạo ra tình
huống để học sinh tự giải quyết, học sinh sẽ hứng thứ hơn, không lệ thuộc vào sách
vở sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh. Tiết học sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, cũng bằng phương pháp tình huống được sử dụng một cách sáng
tạo hơn, kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm tơi phát huy tính chủ động,
tự giác, sáng tạo từ phía học sinh bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi
đến lớp.
Ví dụ: Khi dạy Bài 6: Cơng dân với các quyền tự do cơ bản. Giáo viên phân
công cho mỗi nhóm 1 tình huống được chuẩn bị sẵn ở nhà. Giáo viên chia lớp
thành 5 nhóm ứng với mỗi đơn vị kiến thức trong bài học
Nhóm 1: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của cơng dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 2: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của cơng dân. Giải thích vì
sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 3: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở của cơng dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 4: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được bảo đảm an
tồn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cơng dân. Giải thích vì sao em cho là
vi phạm ?
Nhóm 5: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền tự do ngôn luận

của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Như vậy với yêu cầu trên học sinh sẽ phải dành thời gian chuẩn bị trước ở
nhà. Tư liệu tham khảo có thể là sách báo, Iternet, hay có thể lấy những tình huống
mà các em đã bắt gặp trong cuộc sống. Học sinh sẽ chủ động làm việc theo nhóm.
Kết quả chuẩn bị bài của mỗi nhóm sẽ được giáo viên phân tích, đánh giá và cộng
vào điểm miệng nhằm động viên khích lệ tinh thần học tập của các em. Khi giảng
tới mỗi phần kiến thức đó, học sinh đại diện cho nhóm mình trình bày trước lớp kết
quả chuẩn bị bài của nhóm mình. Sau đó giáo viên sẽ phân tích, giảng giải và yêu
7
SangKienKinhNghiem.net


cầu học sinh rút ra nội dung chính của bài học.
Bản thân tôi đã áp dụng phương pháp này khi giảng dạy ở một số lớp và kết quả là
các nhóm đều đưa ra được các tình huống phù hợp với nội dung, ví dụ khi giảng dạy ở
lớp 12 .
* Tình huống của nhóm 1: “Do nghi ngờ An lấy cắp xe máy của mình nên Minh
đã trình báo với công an xã yêu cầu giải quyết. Dựa vào lời khai của Minh nên
công an xã đã ngay lập tức bắt An”.
Trong tình huống trên cơng an xã đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân. Cụ thể: Công an xã bắt người khi khơng có căn cứ chứng tỏ
An là người lấy cắp điện thoại.
Tình huống của nhóm 2: Quan sát các hình ảnh sau và cho biết nội dung
của những bức ảnh muốn nói đến điều gì, các bạn học sinh trong ảnh có vi
phạm pháp luật khơng ? vì sao?

8
SangKienKinhNghiem.net



Đây là những hành vi trái với quy định của pháp luật về quyền được pháp luật
bảo hộ và tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Điều 71 Hiến
pháp năm 1992 đã ghi rõ và quy định thành nguyên tắc trong bộ luật hình sự nước
ta.Quyền này có nghĩa là: Cơng dân có quyền được pháp luật bảo đảm an tồn về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm mà không ai được xâm phạm tới.
+ Không ai được đánh người, đặc biệt nghiêm cấm những hành vi hung hãn,
côn đồ, đánh người gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe của người khác…
+ Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác như giết
người, đe dọa giết người, làm chết người.
+ Không ai ,dù ở bất cứ cương vị nào có quyền xâm phạm tới danh dự và nhân
phẩm của người khác.Trong xã hội ta, danh dự và nhân phẩm của cá nhân được
tôn trọng và bảo vệ.
Mọi hành vi xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng, danh dự, và nhân phẩm của công
dân đều vừa trái với đạo đức xã hội,vừa vi phạm pháp luật, phải bị xử lí theo pháp
luật.
Lồng ghép giáo dục phịng chống bạo lực học đường cho học sinh thông qua
nội dung bài học để các em thấy đánh người, làm nhục người khác là vi phạm pháp
luật ln.
Tình huống của nhóm 3: “Bị một tên trộm ăn cắp điện thoại, hai người đàn
ông đuổi theo, được một lúc rồi bỗng mất hút, khơng biết tên trơm chạy đi đâu.
Một người nói: Chắc nó chạy vào nhà ơng Tài rồi, ta vào đó xem đi. Đến trước
nhà ông Tài, hai người yêu cầu ông Tài cho vào khám nhà để tìm tên trộm. Ông
Tài không thấy đứa nào chạy vào đây nên không đồng ý cho hai người vào nhà.
Nhưng hai người cứ xông vào nhà ông Tài khám xét khắp nơi trong nhà.
Trong tình huống trên, hai người đàn ơng đã vi phạm pháp luật. Vì pháp luật
quy định khơng ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu như khơng được người
đó đồng ý. Chỉ trong những trường hợp được pháp luật cho phép và phải có quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được khám xét chỗ ở của một
người.
Tình huống của nhóm 4: “Trên đường đi học về, H nhặt được chiếc điện

thoại samsung , về đến nhà H mở ra xem thấy nhiều thơng tin nhảy cảm. Sau đó
H gửi cho A,B,C cùng xem. B đã gửi thơng tin đó lên mạng xã hội? Những
9
SangKienKinhNghiem.net


trường hợp này có vi phạm quyền được đảm bảo an tồn và bí mật đời tư của
cơng dân?
Hành vi này xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân vì thư tín, điện
thoại, điện tín của cá nhân được đảm bảo an tồn và bí mật. Việc kiểm sốt thư tín,
điện thoại, điện tín của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy
định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tình huống của nhóm 5: “trong cuộc họp lớp khi cô giáo hỏi các bạn ý kiến
về việc xây dựng kế hoạch tổ chức ngày 26.3. bạn minh bí thư lớp cho rằng chỉ
có những bạn trong ban các sự lớp mới có quyền tham gia đóng góp ý kiến cịn
các bạn khác thì khơng . em có đồng ý với ý kiến này ko ? vì sao”
Đây là một ý kiến sai vì :Cơng dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, bày tỏ
quan điểm của mình về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
- Có nhiều hình thức và phạm vi để thực hiện quyền nay:
+ Sử dụng quyền này tại các cuộc họp ở các cơ quan, trường học, tổ dân
phố,… bằng cách trực tiếp phát biểu ý kiến nhằm xây dựng cơ quan, trường học,
địa phương mình.
+ Viết bài gửi đăng báo, trong đó bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về chủ
trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
+ Đóng góp ý kiến, kiến nghị với các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân.
Như vậy, qua việc tự tạo ra các tình huống ta thấy rõ sự hứng thú của học sinh
trong việc vận dụng kiến thức vào việc giải quyết vấn đề thực tiễn. Đây là một
phương pháp rất hiệu quả trong vấn đề giảng dạy. Qua đó, học sinh khơng những
tìm ra được mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn mà cịn tăng thêm tính chủ động,

sự tìm tịi, khám phá nhằm lĩnh hội tri thức một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh việc tự tạo ra tình huống và giải quyết tình huống của nhóm mình
thì mỗi nhóm có thể tham gia giải quyết tình huống với các nhóm cịn lai bằng việc
bổ sung những vấn đề cịn thiếu. Như vậy tất cả các nhóm có thể tham gia được
cơng việc một cách hiệu quả nhất.
Tóm lại sự thành công của một tiết học phần lớn phụ thuộc vào phương pháp
giảng dạy của giáo viên và việc tích cực tiếp thu bài của học sinh, tuy nhiên không
thể không kể đến cách thức tổ chức lớp học của giáo viên.Vậy khi sử dụng phương
pháp tình huống ta phải tổ chức lớp học như thế nào để đem lại hiệu quả.
Quy định về các nguyên tắc thực hiện cho học sinh . Một lớp học không phải
tất cả học sinh đều có ý thức tự giác trong học tập nên nếu không quy định nguyên
tắc thực hiện thì những học sinh khơng tự giác sẽ khơng làm việc. Chính vì vậy
trong các giờ áp dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy tơi ln phải đề ra
10
SangKienKinhNghiem.net


các quy định cho các nhóm cụ thể là: Tất cả học sinh phải tham gia cùng với nhóm.
Nếu là tình huống được giao chuẩn bị tại nhà thì một bạn đọc tình huống, bạn khác
chỉ ra lý do chọn tình huống trên, các bạn khác giải quyết tình huống. Giáo viên sẽ
hỏi bất cứ lúc nào và hỏi bất kì học sinh nào, nếu học sinh trong nhóm đó khơng trả
lời được thì cho nhóm khác bổ sung và như vậy nhóm đó sẽ mất điểm. Quy định
như vậy để học sinh thấy được trách nhiệm của mình đối với nhóm. Ngồi ra giáo
viên phải quy định rõ về thời gian làm việc cho từng nhóm để tránh tình trạng học
sinh trình bày lan man, khơng đảm bảo thời gian cho tiết học.
Ngồi ra đối với những tình huống giáo viên đưa ra, giáo viên nên để học
sinh nghiên cứu tình huống và giải quyết tình huống bằng hàng loạt các câu hỏi do
giáo viên đưa ra. Một tình huống có thể sử dụng xuyên suốt nội dung bài học hoặc
được triển khai ở các bước khác nhau tuỳ thuộc vào cách đặt câu hỏi của giáo viên.
Làm được điều đó chính là cách để giáo viên cung cấp tính liên kết nội dung bài

học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Từ năm học 2016 – 2017 tôi đã tiến hành thực nghiệm đề tài ở các lớp khối
12 trường PTTH Quan Hóa.
Bảng khảo sát kết quả học tập môn GDCD khối 12 trong 03 năm học như sau:
Năm học 2016-2017:
Học
Kết quả giảng dạy cuối năm
sinh
Kém
Yếu
Trung bình
Khá
Giỏi
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
208
0
0
12 5,77 141 67,79 42 20,19 13
6,25
Dưới trung bình
Trên trung bình
12
5,77
196
94,33
Năm học 2017-2018:
Học
Kết quả giảng dạy cuối năm
sinh Kém

Yếu
Trung bình Khá
Giỏi
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
188
0
0
8
4,26 86 45,74 75 39,89 19 10,11
Dưới trung bình
Trên trung bình
8
4,26
180
95,74
Năm học 2018-2019:
Học
Kết quả giảng dạy cuối năm
sinh
Kém
Yếu
Trung bình
Khá
Giỏi
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
193
0
0
2
1,04 63 32,64 98 50,78 30 15,54

Dưới trung bình
Trên trung bình
2
1,04
191
98,96
Bảng thống kê thể nghiệm cho thấy tỉ lệ % số học sinh dưới trung bình giảm,
khá, giỏi tăng nhanh qua các năm thể nghiệm cao hơn. Kết quả bước đầu thực nghiệm
11
SangKienKinhNghiem.net


cho thấy tính khả thi của việc ứng dụng đề tài
Tuy nhiên, để việc dạy học đem lại hiệu quả như mong muốn, đòi hỏi mỗi giáo
viên phải nỗ lực, tâm huyết với nghề, khơng chỉ có kiến thức mà cịn có tài năng sư
phạm để giúp học sinh có phương hướng đúng trong việc tiếp cận, học hỏi trong nhà
trường THPT.
- Ở lớp 12 các em học sinh đều tỏ ra hứng thú khi học môn GDCD, các em
hăng hái thảo luận những tình huống giáo viên đưa ra và nghiêm túc chuẩn bị
những tình huống giáo viên giao một cách có hiệu quả. Phần lớn các em nắm vững
nội dung cơ bản của bài học.
3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề khi giảng dạy một số bài trong
chương trình GDCD lớp 12 đã có kết quả. Cụ thể là:
- Chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh được nâng cao.
- Học sinh hứng thú say mê, tích cực, chủ động , sáng tạo trong học tập.
- Học sinh mạnh dạn, chủ động tranh luận cởi mở, sôi nổi, tự tin đưa ra ý kiến
của mình, lắng nghe ý kiến đóng góp, phê bình của các bạn; từ đó giúp học sinh
hoà đồng với cộng đồng, tạo cho học sinh tự tin hơn.

- Học sinh lĩnh hội và nắm được kiến thức bài học một cách nhanh, chắc chắn
và nhớ lâu kiến thức đã học.
- Đã chuyển trọng tâm từ hoạt động của thầy sang hoạt động của trò.
- Đã giúp học sinh từ chỗ học tập thụ động, chuyển sang hoạt động chủ động,
học sinh tích cực chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng thu thập, xử lý trình bày trao đổi
thông tin thông qua các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức hướng dẫn.
- Qua nội dung môn học giúp HS phát triển các năng lực phù hợp cho học sinh
giúp các em thích ứng được với cuộc sống bên ngồi, có lối sống đẹp, đúng pháp
luật.
Một vài kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề khi giảng
dạy một số bài trong chương trình GDCD lớp 12
Qua thực tiễn giảng dạy mơn GDCD tơi nhận thấy sử dụng phương pháp tình
huống là một trong những tích hợp nhiều phương pháp khác nhau trong quá trình
giảng dạy của người giáo viên. Tuy nhiên đây là phương pháp có nhiều ưu thế
trong q trình thực hiện đổi mới. Và bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, để có những tình huống hay, mang tính thời sự người giáo viên
phải thường xun thu thập các thơng tin trên báo chí, phương tiện thơng tin đại
chúng hay ở ngay địa phương mình sinh sống nhưng cần điều chỉnh để phù hợp với
nội dung bài học.
Thứ hai, nguồn cung cấp tình huống đa dạng phong phú phải kể đến học
sinh. Học sinh có thể đưa ra được những tình huống sát thực với thực tế và giáo
viên cần điều chỉnh cho phù hợp. Nếu là tình huống hay, giáo viên nên cộng điểm
12
SangKienKinhNghiem.net


cho học sinh để khuyến khích, động viên kịp thời nhằm phát huy được tính tích cực
của học sinh.
Thứ ba, phải xây dựng được các tình huống gắn với thực tiễn để học sinh
thảo luận, từ đó học sinh nêu lên kiến thức một cách tự nhiên mà không lệ thuộc

vào sách giáo khoa
Thứ tư, cho học sinh thảo luận để tạo ra các tình huống liên quan đến nội
dung bài học nhằm rèn luyện kĩ năng vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết
các vấn đề thực tiễn.
Cuối cùng, sau khi học sinh đưa ra các tình huống, giáo viên yêu cầu học sinh
nghiêm túc thảo luận tình huống mình nêu, các nhóm khác theo dõi, bổ sung. Kết
quả trình bày tình huống phải được giáo viên nhận xét, đánh giá (có thể cho điểm
hoặc khơng). Đồng thời, phải rút kinh nghiệm về tinh thần, thái độ làm việc của
từng nhóm, từng thành viên.
3.2. Kiến nghị.
Trong những năm qua tơi đã khơng ngừng nỗ lực, tìm tịi, nghiên cứu tài liệu
và cố gắng học hỏi các thầy cô, các đồng nghiệp với mong mỏi mỗi tiết dạy mơn
GDCD thực sự ý nghĩa như tên gọi của chính nó. Học sinh được học tập chủ động,
phát huy khả năng sáng tạo và năng lực của bản thân. Thầy cơ giáo và học sinh
khơng cịn khoảng cách như xưa nữa. Thay vào đó là sự gần gũi, cởi mở để khuyến
khích các em bộc lộ điểm mạnh, điểm yếu. Từ đó giáo viên có thể nắm bắt và định
hướng cho các em phát triển được năng lực của mình.
Bằng việc tự nghiên cứu chuẩn bị bài trước, học sinh phải tự tìm hiểu , thâm
nhập thực tiễn đầy sinh động đang diễn ra hàng ngày, học sinh có thể tự rèn luyện
cho mình khả năng phân tích, đặc biệt là khả năng ứng dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống. Đây cũng là mục đích, yêu cầu sư phạm của môn học này.
Thực tế nếu người giáo viên không linh hoạt, nhạy bén khi sử dụng phương
pháp này phù hợp thì bài giảng sẽ trở nên khơ khan, khó hiểu như vốn dĩ người ta
vẫn nhận xét về môn học này, các kiến thức sẽ mang tính hàn lâm, kinh viện, tồn
tại trên cơ sở lí thuyết sng. Mặt khác, học trị sẽ khơng có những bước bứt phá ra
khỏi tính thụ động, tiếp thu bài một cách máy móc, kém hiệu quả. Xuất phát từ thực
tiễn trên, tơi ln ln tìm tịi các phương pháp dạy học phù hợp để giúp cho học
sinh hứng thú với bộ môn và tiếp thu bài một cách tốt nhất.
Tuy nhiên đây mới chỉ là những kinh nghiệm bước đầu nên không tránh khỏi
những thiếu sót, do đặc thù bộ mơn nên q trình nghiên cứu và giảng dạy của tơi

cịn gặp nhiều khó khăn. Tơi rất mong muốn được nhà trường, Sở Giáo dục và Đào
tạo quan tâm, giúp đỡ tạo điều kiện để tơi hồn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp
phần cùng nhà trường, ngành và tồn xã hội nâng cao chất lượng giáo dục.
Đề tài này được đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân trong thời gian
ngắn. Do đó khơng thể tránh khỏi những hạn chế. Tơi rất mong nhận được sự chỉ
bảo tận tình và những ý kiến đóng góp quý báu của đồng nghiệp, Hội đồng khoa
học trường, Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa để cho kinh nghiệm này được hồn
thiện hơn.
13
SangKienKinhNghiem.net


Tôi xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè đồng nghiệp, tổ chun mơn, Ban giám hiệu
trường THPT Quan Hóa, Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa đã quan tâm, tạo điều
kiện cho tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy để hoàn thành đề tài
này. Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2019
Tơi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.

Phạm Thị Khuyên

14
SangKienKinhNghiem.net




×