Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề trong giảng dạy môn gdcd lớp 10 nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy tại trường thpt quảng xương 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.25 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A/ Lí do chọn đề tài 2
B / N ội dung nghiên cứu.
I/Cơ sở lí luận của đề tài. 3
1)Tầm quan trọng của vấn đề đổi mới phương pháp dạy học 3
2) Ý nghĩa của vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD 3
3) Tìm hiểu chung về phương pháp giải quyết vấn đề. 4
II/ Thực trạng của vấn đề 7
III/ Giải pháp và tổ chức thực hiện 8
IV/ Kiểm nghiệm 13
C/ Kết luận và đề xuất 15

A/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1
Môn GDCD là một môn học đặc thù đòi hỏi một phương pháp và cách thức
giảng dạy linh hoạt và sáng tạo,đặc biệt là chương trình lớp 10 vì thế việc
nghiên cứu và áp dụng một cách khoa học và đúng đắn các phương pháp mới
trong gảng dạy là một trong những yêu cầu thiết yếu và bí quyết thành công của
công tác giảng dạy môn GDCD.
Việc nghiên cứu và áp dụng các phương pháp mới trong giảng dạy môn giáo
dục công dân rất đa dạng và phong phú, mỗi phương pháp có một ưu thế và
nhược điểm riêng, mỗi bài học cần được nghiên cứu để áp dụng linh hoạt các
phương pháp khác nhau, hỗ trợ cho nhau, đặc biệt là trong chương trình GDCD
lớp 10, một chương trình học có rất nhiều kiến thức mới mẻ và trừu tượng nhiều
vấn đề đa dạng và phong phú trong đời sông hằng ngày thì càng cần có sự gia
công tỉ mỉ, hoạt động linh hoạt của giáo viên và học sinh trong đổi mới phương
pháp giảng dạy. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi nhận thấy một trong các
phương pháp hữu hiệu để có thể áp dụng trong giảng dạy môn giáo dục công
dân ở lớp 10 là phương pháp “Đặt vấn đề”.việc áp dụng phương pháp này cung
với viẹc kết hợp các phương pháp khác có thể đem lại một kết quả khả quan cho
viẹc dạy và học.


Để góp phần đóng góp cho cuộc vận động nghiên cứu ứng dụng các phương
pháp mới cho việc giảng dạy nói chung và môn giáo dục công dân nói riêng tôi
mạnh dạn viết lại vấn đề này với đề tài “Sử dụng phương pháp đặt vấn đề
trong việc giảng dạy môn GDCD lớp 10. Với suy nghĩ và kinh nghiệm hiểu
biết của mình, mong rằng nó sẽ đóng góp phần nào vào phong trào đổi mới
phương pháp giảng dạy, hỗ trợ cùng đồng nghiệp nhằm đem lại một kết quả tốt
nhất cho công tác giảng dạy của nhà trường nói riêng và bạn bè đồng nghiệp gần
xa nói chung.
2
B /NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
I/Cơ sở lí luận của đề tài.
1)Tầm quan trọng của vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học đang là một cuộc vận động lớn và là một yêu
cầu cấp thiết trong ngành giáo dục nối chung, để đáp ứng với yêu cầu của sư
nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Chỉ có đổi mới phương pháp
và xây dựng nội dung giáo dục phù hợp mới có thể đào tạo được đội ngũ nhân
lực có trí tuệ, có đạo đức và đặc biệt là một kĩ năng sống tích cực với sự năng
động sáng tạo và một tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, đó là cơ sở để xây
dựng và hun đúc nên tình yêu quê hương đất nước của thế hệ trẻ hiện nay.
Đặc biệt, đổi mới phương pháp dạy học cũng là một yêu cầu cấp thiết để phù
hợp với tiến trình hội nhập về giáo dục, đưa nền giáo dục nước ta tiến kịp với
trình độ giáo dục trên thể giới nói chung.
2) Ý nghĩa của vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD
Môn giáo dục công dân là một môn học cơ bản để xây dựng thế giới quan,
phương pháp luận, định hình ý thức, trách nhiệm công dân,và giáo dục ý thức
đạo đức cho học sinh trong nhà trường, đây là một nhiệm vụ vô cùng to lớn mà
môn học phải thực hiện, hơn thế nữa, thế giới quan, tư tưởng và ý thức đạo đức
của học sinh không phải được hình thành một cách giáo điều, gượng ép, mà
phải được hình thành tự nhiên do chính ý thức tự giác, quá trình tự nhận thức
và tự giáo dục, tự trải nghiệm của học sinh và điều đó được thực hiện thông

qua tiến trình học sinh tự thực hiện và tham gia vào quá trình giáo dục như một
chủ thể thực sự. Hơn bao giờ hết, việc giảng dạy môn giáo dục công dân cần
đổi mới phương pháp giảng dạy một cách sáng tạo, đa dạng và triệt để, mới có
thể đáp ứng được những yêu cầu và nhiệm vụ trên.
3
Như vậy đổi mới phương pháp giảng dạy là một yêu cầu cấp thiết và quan
trọng, trong đó việc nghiên cứu và sử dụng đúng phương pháp cho từng phần
học và bài dạy là một nhân tố có tính quyết định cho việc giảng dạy có hiệu quả.
Chương trình GDCD lớp 10 là một chương trình tương đối khó đối với sự tiếp
cận của học sinh và việc giảng dạy của giáo viên, đặc biệt là sự lựa chọn phương
pháp phù hợp, cùng với cách thức tổ chức cho học sinh học tập, trong đó
phương pháp đặt vấn đề là phương pháp áp dụng tương đối hiệu quả, nhưng cần
có sự nghiên cứu và áp dụng khoa học.Chính vì lí do đó, qua thực tế giảng dạy,
đúc rút kinh nghiệm, tôi viết đề tài này với mong muốn cùng đồng nghiệp
nghiên cứu và áp dụng phương pháp đặt vấn đề trong giảng dạy môn GDCD lớp
10.Nếu chúng ta nghiên cứu và sử dụng thành thạo phương pháp đặt vấn đề thì
chắc chắn giờ dạy của chúng ta sẽ có hiệu quả hơn.
3) Tìm hiểu chung về phương pháp giải quyết vấn đề.
a) Khái niệm và tác dụng của phương pháp giải quyết vấn đề
Phương pháp giải quyết vấn đề là cách đưa ra một luận điểm, một vấn đề, một
câu hỏi, để học sinh cùng giải quyết,bằng việc phân tích những vấn đề đang tồn
tại, xác định các bước nhằm cải thiện tình hình thông qua đó hình thành tri thức
cho học sinh, giúp các em vạch ra những cách thức giải quyết vấn đề, những tình
huống gặp phải trong đời sống hàng ngày.
Là một trong những phương pháp hữu hiệu trong sử dụng dạy học, có thể kích
thích sự say mê và khả năng sáng tạo, tính tích cực của học sinh, đưa học sinh
vào những tình huống thực tế, thông qua việc giải quyết vấn đề đặt ra mà giúp
học sinh hình thành kiến thức cho mình, cũng thông qua việc giải quyết vấn đề
mà học sinh thể hiện được quan điểm cá nhân của mình, qua đó giáo viên có thể
dễ dàng uốn nắn, định hình nhân cách sống và quan điểm sống cho các em.

Thông qua việc tiếp cận và giải quyết vấn đề có thể rèn luyện được tổng hợp các
kĩ năng và cách tiếp cận trong môn học như cách tiếp cận hoạt động, cách tiếp
cận cùng tham gia, cách tiếp cận kĩ năng sống vv đồng thời cũng có thể nâng
4
cao ý thức công dân đối với các vấn đề xã hội, cộng đồng,rèn luyện nên những
con người có lương tâm và trách nhiệm.
Chương trình GDCD lớp 10 là một chương trình tương đối khó với học sinh
lớp 10, lần đầu tiên được tiếp cận với các kiến thức triết học vô cùng trừu tượng,
những khái niệm mới mẻ rất khó có hình ảnh trực quan, việc dẫn dắt học sinh
vào các vấn đề để các em hiểu một cách cụ thể tự nhiên mà không bị căng thẳng
gò ép là một việc làm rất khó nhưng rất cần thiết của người dạy học, vì thế việc
nghiên cứu và áp dụng phương pháp nêu vấn đề có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng và thiết thực, nếu làm được thành công điều này thì có thể nâng cao chất
lượng việc giảng dạy một cách rõ nét, với những giờ dạy bổ ích và đạt chất
lượng cao.
Bằng việc giảng dạy nhiều năm trong nghành, qua nghiên cứu thực tế tôi thấy
cần nghiên cứu và áp dụng linh hoạt có hiệu quả phương pháp Giải quyết vấn đề
trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
giảng dạy, song phương pháp giải quyết vấn đề có những ưu điểm và nhược
điểm nhất định
b)Một số ưu và nhược điểm của phương pháp giải quyết vấn đề
- Về ưu điểm:
+ Đưa học sinh vào những tình huống, những vấn đề cụ thể qua đó kích thich
tính tích cực của học sinh, giúp các em nhập cuộc vào giờ học một cách hiệu
quả.
+ Bài giảng sử dụng phương pháp sẽ có thể pháp huy tổng hợp được các
phương pháp khác một cách linh hoạt như phương pháp vấn đáp, phương pháp
thảo luận nhóm, phương pháp động não vvv
+ Phương pháp giải quyết vấn đề dễ gắn vào thực tế, tránh tình trạng nhàm
chán lí thuyết rập khuôn, mang tính rao giảng, thuyết trình

+ Phưong pháp này giúp chúng ta có thể sử dụng công nghệ thông tin trong quá
trình dạy học một cách hiệu quả.
+ Rèn luyên được tư duy và cách tiếp cận vấn đề của học sinh
5
+ Rèn luyện được những kĩ năng và kĩ xảo trong quá trình tranh tranh luận giải
quyết vấn đề như biết trình bày quan điểm của mình biết lắng nghe ý kiến người
khác và chắt lọc tính chính xác của thông tin
- Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này cũng có một số lưu ý về
hạn chờ:
+ Việc xác định vấn đề đưa ra là vô cùng quan trọng: vấn đề phải có tính khái
quát, phù hợp với đối tượng học sinh với nội dung bài học
+ Hướng dẫn giải quyết vấn đề phải khoa học và toát lên được nội dung chính
của bài học hoặc vấn đề cần nói đến.
+ Tổ chức giải quyết vấn đề rất dễ làm mất nhiều thời gian vì thế giáo viên có
thể không chủ động được trong việc giảng dạy, dễ bị sa đà , cuốn theo học sinh
khó định hướng vào bài học
+ Tổ chức giải quyết vấn đề cần khoa học tạo được một không khí tích cực
trong giờ học,
c)Những lưu ý khi sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề
Để sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề một cách hiệu quả chúng ta cần
chú ý các điểm sau:
Quá trình giải quyết vấn đề bao gồm các bước:
- Xác định (hay phát hiện) vấn đề là gì?
- Nêu những chi tiết có liên quan đến vấn đề.
- Nêu những câu hỏi có liên quan đến vấn đề và giúp cho giải quyết vấn đề:
ví dụ:
+ Vấn đề cơ bản là gì?
+Vấn đề xảy ra khi nào ?
+ Vấnđề xảy ra ở đâu?vv
- Kiểm tra xem xét tất cả các thông tin đã tập hợp được về vấn đề.

- Liệt kê các giiải pháp giải quyết vấn đề.
- Đánh giá kết quả các giải pháp.
- So sánh kết quả các giải pháp.
6
- Quyết định chọn các giải pháp tốt nhất.
d)Những yêu cầu đặt ra đối với giáo viên và học sinh khi sử dụng
phương pháp giải quyết vấn đề
Vậy để sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề có hiệu quả, yêu cầu những gì ở
giáo viên và học sinh:
Đối với giáo viên,
- Phương pháp giải quyết vấn đề đòi hỏi người giáo viên phải có sụ đầu tư tìm
tòi nghiên cứu bài giảng một cách tỉ mỉ để lựa chọn vấn đề cần đưa ra là gì, đưa
ra như thế nào, sẽ có những cách giải quyết nào mà học sinh có thể đề cập đến
và cách tiếp cận phân tích các giải pháp đó là gì?tức là đòi hỏi người giáo viên
phải hoàn toàn làm chủ thông tin, làm chủ tình huống và có thể giải quyết được
vấn đè trong bất cứ tình huống nào.
- Cách đặt vấn đề của giáo viên phải đảm bảo trong sáng dễ hiểu, toát lên được
vấn đề cần giải quyết
- Chỉ đạo điều hành học sinh trong quá trình giải quyết vấn đề cần khéo léo
linh hoạt kích thích được sự tham gia của tất cả học sinh bằng thu hút, khuyến
khích các em tranh luận bìng đẳng, thoải mái trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau.
- Giáo viên cần giả định nhiều tình huống học sinh có thể trả lời khác nhau để
có thể xử lí phù hợp và linh hoạt.
- Các tình huống đưa ra phải được chọn lựa kĩ càng ưu tiên tính thực tế phù
hợp với lứa tuổi học sinh và nhất là không nên sao chép các tình huông trong
sách giáo khoa đã cho sẵn.
Đối với học sinh
- Học tập theo phương pháp giải quyết vấn đề cần có thái độ học tập chủ động
nghiêm túc, biết vận dụng những kiến thức và kinh nghiệnm thực tế, kiến thức
các môn học khác,mạnh dạn suy nghĩ và tranh luận, tranh luận bình đẳng trên cơ

sở tôn trong jlẫn nhau, biết lắng nghe ý kiến của người khác vvv
II/ Th ực trạng của vấn đề
7
Vn ny thc t trng tụi cho thy nhiu vn rt ỏng quan tõm
Trc ht, l thc t ca cuc vn ụng i mi phng phỏp m nghnh giỏo
dc ó v ang tin hnh mt cỏch rng rói v ó thu c nhng kt qu thit
thc, trong ú phng phỏp gii quyt vn l mt phng phỏp tớch cc
rraats c chỳ ý. c bit l qua t tp hun v i mi phng phỏp ti
trng do chớnh ng chớ hiu trng nh trng truyn t, trong quỏ trỡnh ch
o chuyờn mụn, ban giỏm hiu nh trng luụn coi trng v cao vn i
mi phng phỏp, s dng cỏc k thut mi trong dy hc, ớch thõn ban giỏm
hiu ó gng mu i u trong vic s dng cỏc phng phỏp v k thut dy
hc tớch cc thụng qua cỏc tit thao ging mu v quỏ trỡnh ging dy trờn lp.
Cng xut phỏt t thc t ging dy ca tụi v d gi ng nghip núi chung
v trong mụn GDCD núi riờng, mc dự c trng ca mụn hc cho thy rt cn
i mi phng phỏp nõng cao hiu qu giỏo dc nhng vic ỏp dng i
mi phng phỏp, s dng nhng k thut mi trong dy hc c bit l phơng
pháp nêu và giải quyết vấn đề cũn nhiu mi m v b ng,lỳng tỳng,cn cú s
phi hp nghiờn cu v b tr thờm, ng thi cn c tin hnh mt cỏch ph
bin thng xuyờn hn. c bit hn, mt s ng nghip cũn coi nh vn
i mi phng phỏp dy hc, coi ú nh l mt vn mang tớnh phong tro,
ch dựng khi thao ging hoc trong mt vi hot ng chuyờn mụn cú tớnh ch
im hoc cú ỏp dng cng khụng em li hiu qu cao, hoc cng cú th do k
nng v thao tỏc cũn hn ch, s dng cụng ngh thụng tin cha thnh tho.
Thụng qua ti ny, tụi mun khng nh rng, vic s dng phơng pháp nêu
và giải quyết vấn đề l hon ton mang tớnh kh thi cao v cú th c ỏp dng
rng rói ph bin.
Qua trc tip ging dy trờn lp v trao i vi cỏc em mt thc t cho thy,
lõu nay, cỏc em rt ngi hc lớ thuyt, ngi chi chộp di dũng v c bit rt khú
khn trong vic tip thu kin thc mt cỏch th ng mt phớa bng s thuyt

trỡnh n thun ca giỏo viờn, nhng li rỏt hng thỳ, thớch tỡm tũi khỏm phỏ khi
cỏc em c t vo mt tỡnh hung, mt vn c th no ú, ũi hi s suy
8
ngh, s tri nghim v phỏn oỏn, nht l ụi vi chng trỡnh lp 10. Vic ỏp
dng v s dng phơng pháp nêu và giải quyết vấn đề trong ging dy v hc tp
mt phn rt cú ớch cho cỏc em trong hot ng hc tp, mt khỏc kớch thớch
hng thỳ hc tp v kh nng sỏng to, phỏt huy nng lc v s trng ca cỏc
em, giỳp cỏc em cú nhng s tri nghim khỏc nhau trong nhng tỡnh hung
khỏc nhau ca cuc sng, to cho cỏc em tinh thn tp th, on kt v hp tỏc
trong hc tp, t ú vic ging dy v giỏo dc cú hiu qu rừ rt. Song vic
giỏo viờn cho cỏc em tip cn v s dng trong hc tp cũn khỏ mi m v ớt
c s dng nờn bn thõn cỏc em cũn l lm v th ng nh : Cha quen vi
cỏch tip cn tri thc, cha bit cỏch c vấn đề đợc đa ra, cha bit cỏch
trình bày ý kiến và quan điểm của mình một các dễ hiểu, khoa hc, chớnh xỏc,
cha bit cỏch tri nghim v phõn tớch tỡnh hung v vn a ra cú nhng
quan im cỏ nhõn cho riờng mỡnhvv
Nhng vn trờn tụi thit ngh cng l thc trng chung ca hu ht cỏc
trng hin nay, vỡ th, thụng qua ti ny tụi khụng nhng mun em n
nhng thay i trong suy ngh v hnh ng ca cỏc ng nghip trong nh
trng m cũn mun chia s kinh nghim vi bn bố ng nghip gn xa.
III/ Giải pháp và tổ chức thực hiện
Chng trỡnh GDCD lp 10 bao gm hai phn ú l phn trit hc v o c,
hai phn ny cú nhng c im hon ton khỏc nhau, nờn vic la chn ti
lm vn a ra cng rt khỏc nhau, c bit l phn trit hc, chỳng ta cú th
xem xột mt s bi c bn:
Phn I : Cụng dõn vi vic hỡnh thnh th quan phng phỏp lun khoa hc:
Phn ny chỳng ta cú th nghiờn cu mt s bi vi nhng cỏch s dng phng
phỏp gii quyt vn nh sau:
Bi 1:Th gii quan duy vt v phng phỏp lun bin chng: chỳng ta cú th
s dng phng phỏp ny hỡnh thnh khỏi nim v trit hc vớ d cho hc

sinh xỏc nh :
- Cỏc b mụn khoa hc m em bit ( hoc ang hc)
9
- Đối tượng nghiên cứu của từng bộ môn đó là gì?
- Mối liên quan giữa các bộ môn đó
Học sinh sẽ dần hình thành được các mối liên hệ giữa các môn học thuộc về
khoa học tự nhiên,khoa học xã hộivvv và đi đến một vấn đề chung đó là
liệugiữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có những đối tương nghiên cứu
nào là chung và môn khoa học nghiên cứu cái chung đó là gì?Trên cơ sở đó
chúng ta xây dựng về khái niệm về môn triết học và đối tượng nghiên cứu của
nó một cách khái quát.
Cũng trong bài này khi hình thành cho các em khái niệm về phương pháp luận
biện chứng và phương pháp luận siêu hình chúng ta có thể đặt vấn đề bằng chính
tư liệu tham khảo trong bài như câu chuyện thầy bói xem voi: Sau khi cho học
sinh đọc xong câu chuyện giáo viên có thể đặt vấn đề để học sinh thảo luận:
- Năm ông thầy bói đã xem voi theo cách nào?
- Những cách đó sai lầm ở chỗ nào?
- Nếu cần một cách xem đúng đắn ở đây thì đó là cách nào?
- Sự sai lầm của các ông thầy bói có những căn nguyên nào?
Giáo viên có thể định hướng cho học sinh giải quyết từng vấn đề một :
- Năm ông thầy bói xem voi theo cảm nhận chủ quan, thiếu sự phán đpán và
tổng hợp của các giác quan, thể hiện sự máy móc và cứng nhắc, phiến diện,
không có cái nhìn tổng quát.
- Sai lầm cơ bản của năm ông thầy bói là sự cứng nhắc, phiến diện, đánh đồng
một mặt, một tính chất của sự vật là toàn bộ sự vật đó, là sự bảo thủ quan điểm
chủ quan, không có sự tổng quát và phân tích
- Nếu cần một cách xem đúng đắn thì đó là cách quan sát con voi một cách tổng
thể, khái quát, nhìn thấy được mối quan hệ giữa các sự vật đó và mối quan hệ
của sự vật mình quan sát được với tổng thể sự vật là con voi, hoặc đó là sự xem
xét tiếp thu ý kiến của người khác để bổ sung tri thức cho mình, để có một kiến

thức toàn diện tổng quát về con voi (hay bất cứ một sự vật nào đó)
10
Qua cách giải quyết vấn đề chúng ta sẽ giúp học sinh hiểu được cơ bản về
phương pháp luận biện chứng, phương pháp luận siêu hình, ưu điểm và tồn tại
cũng như cơ sở hình thành và nảy sinh các phương pháp đó là gì? Từ đó không
những giúp học sinh nắm được bài học về bản chất, khắc sâu, nhớ lâu mà cũn
hỡnh thành cho cỏc em những kiến thức ban đầu nhưng rất cơ bản về kĩ năng
sống, về phương pháp và nguyên tắc tư duy trong khoa học và đời sống, điều
này có ý nghĩa và hiệu quả hơn mọi bài học lí thuyết nặng nề
Trong bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng, chúng ta có thể
kết hợp phương pháp giải quyết vấn đề với việc sử dụng đồ dùng trực quan:
Giáo viên có thể đưa ra một cái cây, một hạt thóc, một quả trứng gà vv với câu
hỏi: Sẽ có những cách phủ định nào (sự xúa bỏ nào) đối với sự vật đó?
Học sinh có thể đưa ra hàng loạt những cách khác nhau:
- Cái cây : sẽ có những sự phủ định như đốn làm củi, bão làm đổ, chết ,và cây ra
hoa kết trái rồi chết
- Hạt thóc: sự phủ định thường có như xay làm gạo, làm bánh, bị mục, và nảy
mầm để lên cây mạ non.
- Quả trứng gà: thường bị phủ định như đem rán làm thức ăn, bị ung, bị vỡ hoặc
đem ấp nở thành gà con
giáo viên có thể hướng dẫn gợi ý để các em sắp xếp thành hai loại phủ định cơ
bản với những đặc trưng khác nhau, tỡm ra những phủ định có đặc điểm chung
của phủ định biện chứng ở cả ba sự vật trờn (Cõy ra hoa kết trỏi rồi chết, hạt lỳa
nảy mầm lờn cõy mạ non và quả trứng đem ấp nở thành gà con) qua đó giúp các
em hình thành về khái niệm phủ định biện chứng và phủ định siêu hình và làm
toát lên được những đặc điểm của hai loại phủ định, ưu thế của loại phủ định
biện chứng vvv Như vậy qua cách giúp học sinh khai thác vấn đề một cách chủ
động tích cực, không những giúp các em hình thành kiến thức một cách tự
nhiên, nhớ lâu mà còn giúp các em nhận ra những sự phủ định biện chứng trong
các hoạt động sống, hình thành ý thức và kĩ năng sống biết lựa chọn hành vi

sống phù hợp cho sự phát triển, xây dựng được những quan điểm sống sâu sắc
11
để các em dần nhận thức được rằng trong hàng loạt hành động sống chỉ có thể
có rất ít những hành động đem lại sự phát triển cho sự vật hiện tượng hay nói
khácđi là cho xã hội phát triển đó cũng là sự giáo dục ý thức cho học sinh một
cách cần thiết trước mỗi hành động của các em để đem đến sự phát triển cho
cuộc sống và xã hội
Trong bài :Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: Khi hình
thành khái niệm về nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính chúng ta có thể đưa
ra một sự vật hiện tượng cụ thể nào đó ví dụ như nhúm muối ăn, một ít đường
hoặc một quả chanh, hay về một người bạn với vấn đề được đặt ra là: một học
sinh lớp 2 và một học sinh lớp10 sẽ có những nhận thức và phản ánh về sự vật
này như thế nào? bằng cách chia nhóm cho học sinh thảo luận và rút ra kết luận
chung:
- Ví dụ: với đối tượng là muối ăn ta sẽ gợi ý cho học sinh xây dựng thành hai
nhóm nhận thức ở hai đối tượng học sinh:
+ Học sinh lớp hai: muối là một loại chất có vị mặn, có hình hạt, màu trắng,
dùng để nấu thức ăn, muối dưa, cà vv những đặc điểm này được hình thành từ
quan sát, cảm nhận bằng giác quan như nhìn,nếm, qua hoạt động của mẹ, của bà
ở nhà ; Những tri thức này là sự phản ánh những thuộc tính, tính chất bên ngoài
bản thân sự vật hiện tượng,
+ Học sinh lớp 10: muối ăn là một hợp chất là sự kết hợp giữa hai nguyên tố hóa
học là Natri và Clo, có tính chất lí học là tinh thể rắn, hòa tan trong nước , tính
chất hóa học là có thể kết hợp với các hợp chất khác như AgNO3,điện phân
không màng ngăn tạo thành nước javen những tri thức này được hình thành từ
quá trình tư duy như thí nghiệm, phân tích so sánh, phán đoán ; Nó phản ánh
bản chất bên trong của sự vật hiện tượng
Tương tự như vậy, với đường hay những sự vật khác ta cũng có thể cho học
sinh tìm ra được sự khác nhau giữa nhận thức của học sinh lớp 2 và học sinh lớp
10

12
Từ nhận thức trên các em có thể rút ra được hai loại nhận thức với những tính
chất và đạc điểm khác nhau, từ đó các em hiểu về nhận thức cảm tính và nhận
thức lí tính một cách đầy đủ và cụ thể, từ khái niệm, đặc điểm, tính chất đến con
đường hình thành
Qua cách phát biểu và tranh luận của học sinh giáo viên có thể dễ dàng giúp
các em định hình được nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính cùng với sự
giống và khác nhau cơ bản giữa chúng một cách tự nhiên, không nặng nề gượng
ép mà học sinh lại hiểu sâu và nhớ lâu
Tương tự như vậy trong phần đạo đức chúng ta có thể sử dụng nhiều vấn đề để
vừa giúp các em hình thành nên tri thức vừa định hình hoàn thiện kĩ năng và
nhân cách cho các em vớ dụ như bài 11: Một số phạm trù đạo đức cơ bản. Khi
dạy phần Lương tâm,giáo viên có thể đặt ra một tình huống có vấn đề để học
sinh giải quyết ví dụ: Bạn Nam đang rất cần tiền để mua một cuốn sách hay, trên
đường đi học về bạn thấy một túi tiền rơi trên đường vắng, đủ mua cuốn sách
đó, bạn cầm lên và cất vào túi, cũng vừa lúc đó,một bác nông dân hớt hải chạy
dọc đường để tìm túi tiền bị đánh rơi vừa chạy vừa khóc vì đó là toàn bộ số tiền
sáng nay bác đi chợ bán rau mà có được. Vậy theo em trong tình huống trên bạn
Nam sẽ có những cách xử lí nào và những tâm trạng thường có sẽ xảy ra tương
ứng trong từng cách xử lí đó ra sao?
Từ cách đặt vấn đề trên, học sinh có thể đưa ra nhiều cách xử lí khác nhau:
Hoặc bạn Nam sẽ đưa túi tiền vừa nhặt được cho bác nông dân, để khi nào
dành dụm được tiền thì sẽ mua sách sau. Dù không có tiền để mua sách nhưng
bạn Nam sẽ cảm thấy thoải mái, thanh thản vì mình đã không làm điều gì sai
trái, không để ảnh hưởng đến ai,quan trọng hơn, bạn Nam sẽ rất vui vì đã giúp
bác nông dân bớt đau khổ vì đã không mất túi tiền. Điều này chỉ có được nếu
như bạn nam biết thương bác nông dân phải khó nhọc, vất vả lắm mới có được
số tiền đó, bạn cũng biết trân trọng sự trung thực, biết cảm thông và đặt mình
vào hàn cảnh của bác nông dân để hiểu được nỗi khổ tâm của người đã đánh mất
toàn bộ công sức lao động khó nhọc của mình trong mấy ngày qua. Tức là bạn

13
Nam có một tình cảm đạo đức trong sáng mạnh mẽ với những chuẩn mực đạo
đức tốt đẹp, phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội
Hoặc bạn Nam sẽ lặng lẽ ra về không trả lại bác nông dân túi tiền vì đó là tiền
bạn bắt được không liên quan gì tới bác nông dân, vả lại bạn cũng đang rất cần
tiền để mua sách học. Trong cách xử lí này cũng sẽ xảy ra hai khả năng khác
nhau:
Một là: Khi trở về nhà, bạn Nam rất ân hận, day dứt về việc làm của mình, sự
ân hận đó sẽ nhiều hay ít, mạnh hay yếu là phụ thuộc vào mức độ của tình cảm
đạo đức ( sự chân thiện của con người) trong bạn Nam, sự ân hận day dứt có thể
đến cao độ để khiến bạn Nam sẽ đem túi tiền tìm cách trả lại cho bác nông dân
nọ. Việc làm này tuy hơi muộn những sẽ khiến cho bạn Nam không còn day dứt
nữa, bạn sẽ có được sự thanh thản của lòng mình. Điều này cũng chỉ xảy ra nếu
tình cảm đạo đức, ý thức đạo đức trong con người bạn tuy có lúc hơi sai lạc song
vẫn còn đủ mạnh để đánh giá và điều khiển hành vi của bạn một cách phù hợp,
hướng tới những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp
Hai là: Bạn Nam chỉ phân vân thoáng qua hoặc thậm chí không cần suy nghĩ,
bạn dùng số tiền đó để mua cuốn sách mình đang cần, trong khả năng này, cũng
có thể có nhiều trạng thái khác nhau, có thể mua xong sách, bạn Nam vẫn còn
băn khoăn day dứt, ân hận, đó là lúc trong bạn Nam vẫn còn những tình cảm đạo
đức đủ mạnh để đánh giá được hành vi của mình thậm chí sự ân hận này sẽ đi
theo Nam suốt cả cuộc đời. Và khả năng cuối cùng bạn không còn băn khoăn
điều gì vì về cơ bản bạn đã có cuốn sách mà bạn thích đó cũng là lúc tình cảm
đạo đức của bạn Nam không còn đủ mạnh, đủ năng lực để xét đoán và đánh giá
hành vi đạo đức của chính bạn, nếu một người nào đó rơi vào khả năng này, họ
sẽ không còn đủ năng lực để phân định được hành vi đúng, sai, phù hợp hay
không phù hợp với chuẩn mực đạo đức, cũng không thể điều khiển hành vi của
mình phù hợp với chuẩn mực đạo đức và cũng không bao giờ biết day dứt trước
bất cứ một hành vi sai trái nào của bản thân, đó là sự báo động nghiêm trọng cho
đạo đức của một con người, hay nói khác đi đó là sự vô lương tâm - vô đạo đức.

14
Sau khi giúp học sinh phân tích vấn đề trên hãy cho các em lựa chọn cách giải
quyết vấn đề nếu mình là bạn Nam, và giải thích lí do vì sao em lựa chọn như
vậy, học sinh sẽ tạo được sự động thuận về quan điểm trong bài học.
Như vậy,qua sự hướng dẫn của giáo viên để học sinh có được phân tích các
khả năng như trên của tình huống, chính các em đã nhận ra, phân định được các
mức độ khác nhau của lương tâm con người và sự phụ thuộc của nó với tình cảm
đạo đức và hành vi đạo đức như thế nào. Qua cách phân tích trên chúng ta cũng
giúp các em nhận ra rằng có thể trong một lúc nào đó chúng ta cũng mắc sai
lầm, điều này rất dễ xảy ra với tuổi trẻ, điều quan trọng là ta biết ăn năn hối hận
và sửa chữa lỗi lầm đó như thế nào? Sự sửa chữa lỗi lầm giúp ta lớn lên trong
cuộc sống, và điều quan trọng hơn nữa là mỗi người cần rèn luyện và gìn giũ
cho mình một tình cảm đạo đức trong sáng, chân thiện, tôn trọng những chuẩn
mực đạo đức của xã hội, điều đó sẽ giúp cho chúng ta luôn có những hành động
đúng đắn, một lương tâm trong sáng và yên ổn, không phải ăn năn day dứt về
những việc mình đã sai lầm
Với mỗi bài học đạo đức khác về các vấn đề nhân phẩm và danh dự, h¹nh
phóc, c«ng d©n víi t×nh yªu h«n nh©n vµ gia ®×nh, c«ng d©n víi céng ®ång, c«ng
d©n víi sù nghiÖp x©y dùng vµ b¶o vÖ tæ quècvvv cã rất nhiều t×nh huèng chóng
ta cã thÓ ®a vµo bµi gi¶ng mét c¸ch sinh ®éng ®Ó häc sinh cã ®îc nh÷nh tiÕt häc
lÝ thó vµ sinh ®éng, cã ®îc nh÷ng tiÕt d¹y cã hiÖu qu¶ cao.
IV/ KIỂM NGHIỆM
Qua khảo cứu thực tế tôi thấy khi cùng một bài học nhưng áp dụng phương
pháp giải quyết vấn đề và không áp dụng phương pháp này có sự khác biệt đáng
kể
Ví dụ đối với bài “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức” khi tôi
áp dụng phuơng pháp giải quyết vấn đề để dạy học sinh lớp 10A thì có kết quả
là 100% học sinh hiểu bài, 80% học sinh thuộc bài ngay tại lớp 98% học sinh có
hứng thú với tiết học.
15

Cũng bài học này nhưng khi không áp dụng phương pháp này hình thành kiến
thức bằng phương pháp bình thường ở lớp 10B thì kết quả là 78% học sinh hiểu
bài, có 55% học sinh thuộc bài ngay tại lớp, và 61% học sinh có hứng thú với
tiết học .Dĩ nhiên hai lớp này đều có trình độ ngang nhau và đều là lớp khoa học
tự nhiên, sự khác biệt về đặc tính riêng là không đáng kể.
Kết quả áp dụng trong việc giảng dạy các bài học khác cũng cho kết quả tương
tự.
Kết quả trên cũng được thể hiện trong chất lượng giảng dạy các lớp học của tôi
trong các năm học
Tôi đã dạy chương trình lớp 10 rất nhiều năm, song trước đây tôi chưa được
tiếp cận và thực hiện thành thục với phương pháp giải quyết vấn đề trong giảng
dạy học sinh, năm học 2011-2012 tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng
phương pháp này trong giảng dạy bộ môn ở lớp. Bước đầu đã đạt những kết quả
nhất định. Học sinh hứng thú hơn trong quá trình học tập, những kiến thức trong
bài đã được các em đưa ra vận dụng vào việc giải các bài tập tình huống ngày
càng linh hoạt hơn, mền dẻo hơn. Bên cạnh đó đạo đức của các em đã có những
biến chuyển tích cực, hiện tượng gây gỗ đánh nhau, gian lận trong thi cử, vô lễ
với giáo viên giảm hẳn. Học sinh tích cực hơn trong các hoạt động tập thể,
hoạt động từ thiện nhân đạo.
Qua bảng tổng hợp số liệu so sánh của năm học 2009-2010 khi chưa vận dụng
phương pháp giải quyết vấn đề và năm học 2011-2012, 2012- 2013 khi đã vận
dụng phương pháp giải quyết vấn đề trong giảng dạy
Bảng tổng hợp kết quả ,số liệu so sánh
Bảng tổng hợp xếp loại học lực môn GDCD học sinh khối 10 trong 3 năm học.
STT Năm học
Xếp loại học lực
Tổng số
Học sinh
giỏi Khá Tb Yếu
TS % TS % TS % TS %

1 2009 – 2010 22 4,3 67 13 397 76,7 31 6 517
2 2011 – 2012 68 15 109 24 263 57,5 16 3,5 456
3 2012 – 2013 98 24 16 41,5 136 34 2 0,5 404
16
8
Trong chất lượng giảng dạy của môn học GDCD ở trường tôi trong đối
tượng do tôi phụ trách không có học sinh xếp loại kém vì tôi luôn có xu
hướng vận động khuyến khích và tạo điều kiện cho các em vươn lên nâng
cao chất lượng và kết quả học tập, tạo hứng thú và niềm tin cho các em đến
với môn học.
Qua kết quả trên tôi nhận thấy rằng tác dụng của việc đổi mới phương pháp
giảng dạy, đặc biệt là việc áp dụng phương pháp giải quyết vấn đề là rất hiệu
quả và thực tế. Không những chất lượng học sinh được nâng lên mà một phần
thưởng đáng quý đối với tôi là học sinh luôn hào hứng, nhiệt tình và háo hức khi
đến tiết học của tôi, tất cả các em đều có thái độ tích cực và nghiêm túc trong
học tập đó là một niềm hạnh phúc mà mọi giáo viên đều mơ ước nhất là đối với
những giáo viên dạy các môn học ít tiết và có tiếng là nhàm chán như môn
GDCD.
C/Kết luận và đề xuất
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy rằng việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp
giải quyết vấn đề kết hợp với các phương pháp khác luôn là giải pháp tốt nhất để
nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy nói chung, đặc biệt là môn GDCD
nói riêng. Để làm được điều này, dĩ nhiên với mỗi giáo viên chúng ta là rất khó
khăn, cần có lòng nhiệt tình và sự nghiêm túc say mê trong công việc, sự gia
công đầu tư trong mỗi bài giảng, sự tìm tòi tích lũy qua những năm tháng dạy
học, tuy nhiên, dù khó khăn thế nào chúng ta cũng sẽ làm được với quyết tâm và
lòng yêu nghề thực sự và hơn hết, cao hơn cả những bảng thống kê về chất
lượng học sinh, hơn cả những sự đánh giá giờ dạy giỏi của động nghiệp, chúng
ta có được điều quí giá nhất đó là chúng ta tìm thấy được mình trong ánh mắt và
tình cảm của học sinh trong mỗi bài giảng, mỗi tiết học và nó sẽ trở thành bài

học đi cùng các em khi trưởng thành, đó chính là giá trị chân chính mà mỗi
người giáo viên chúng ta luôn tạo dựng và cũng là niềm hạnh phúc của mỗi
chúng ta
17
Trong thời gian qua, chúng tôi đã được Ban giám hiệu nhà trường nhà trường
động viên giúp đỡ tạo điều kieenh khuyến khích chúng tội học tập áp dụng
phương pháp mới trong giảng day, chúng tôi đã thực hiện rất có hiệu quả vấn đề
này và mong rằng trong thời gian tới chúng tôi sẽ tiếp tục được động viên hỗ trợ
nhiều hơn ví dụ như::
- Cung cấp nhiều tài liệu, hình ảnh để làm tư liệu giảng dạy.
- Tạo điều kiện để có thể ứng dụng các công nghệ thông tin trong quá trình
giảng dạy
- Tổ chức nhiều cuộc hội thảo để trao đổi rút kinh nghiệm trong đồng
nghiệp
Tôi xin chân thành cảm ơn

X¸c nhËn cña thñ trưởng ®¬n vÞ Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác
Thanh hóa ngày 13/ 5 / 2013
Người viết
Ph¹m ThÞ Lan


18

19
Xác nhận của thủ treởng đơn vị Thanh hoá ngày 13 tháng 5 nam 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung

của ngời khác
Phạm Thị Lan
20

21

×