Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học QUAN điểm DUY vật BIỆN CHỨNG về mối QUAN hệ GIỮA vật CHẤT với ý THỨC và vận DỤNG vào CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.72 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
_____oOo_____

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện:

Phạm Hữu Tường Vân

Mã sinh viên:

2113280031

Lớp:

TRI114E.1

Giảng viên hướng dẫn:

TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, tháng 11 năm 2021

download by :


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
NỘI DUNG............................................................................................................................................ 2
I. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức................2
1. Vật chất...................................................................................................................................... 2
2. Ý thức........................................................................................................................................ 5
3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức....................................................... 7
II. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về vật chất và ý thức vào công cuộc
đổi mới ở nước ta............................................................................................................................. 9
1. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị..................................................... 9
2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng trong việc xây dựng nền kinh tế trong
công cuộc đổi mới.................................................................................................................... 11
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................. 15

download by :


LỜI MỞ ĐẦU
Triết học được định nghĩa là bộ môn khoa học nghiên cứu về những vấn đề chung
và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan,
những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và
ngôn ngữ, và cũng như các mơn khoa học khác, nó ra đời và phát triển cùng với ra
đời và phát triển của xã hội. Triết học cũng chính là bước nhảy vĩ đại của tư duy loài
người, biểu hiện khả năng đánh giá của con người về cách thế giới xoay vần và cách
con người vận hành trong thế giới đó, chính vì vậy triết học có mối quan hệ mật
thiết với lịch sử nhân loại. Trong suốt bề dày của lịch sử đã có rất nhiều trường phái
triết học ra đời song song với sự phát triển trong tư duy và nhận thức của con người
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, và các trường phái này có xu hướng mâu
thuẫn với nhau.
Dựa vào hoàn cảnh lịch sử, tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao

nhất và quan trọng nhất của Đảng và nhân dân ta, với chủ nghĩa Marx – Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh như một nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của
Đảng. Như vậy, ta phải sử dụng những quan điểm và phương pháp đề ra trong chủ
nghĩa Marx – Lenin, cốt để phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước
ta, từ đó tìm hiểu được quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam, định ra được
đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với tình hình nước ta, đặc biệt là với xu thế phát triển của thời đại, trong thời kì hội
nhập với các nước trên thế giới.
Với ý nghĩa đó, em xin chọn đề tài "Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay".

1

download by :


NỘI DUNG
I. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1. Vật chất
1.1. Quan niệm về vật chất trước chủ nghĩa duy vật biện chứng
Trước sự ra đời của triết học Marx – Engels, nhiều trường phái triết học đã đưa ra
những quan niệm khác nhau về vật chất. Trong triết học cổ đại, vật chất đơn giản
xuất phát từ những quan sát về thế giới tự nhiên. Những quan niệm bước đầu này về
khái niệm vật chất đã làm rõ tính khách quan của phạm trù này, đặt nền móng cho
các nhà triết học duy vật về sau phát triển thêm quan điểm về vật chất; tuy vậy,
những quan niệm này bó hẹp vật chất trong các dạng cụ thể, được suy luận bằng các
giả định khoa học mang tính trực quan và chưa được khoa học kiểm chứng. Tiến
đến triết học cận đại, khi tư duy con người phát triển và mở rộng hơn nhiều, khái
niệm vật chất cũng có nhiều thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, dưới cái nhìn siêu hình,
các nhà triết học cận đại đã khơng đưa ra được sự khái quát trong khái niệm vật

chất; không chỉ vậy, nhiều mâu thuẫn cũng đã nảy sinh trong việc định nghĩa vật
chất trong thời kì này.

1.2. Quan điểm về vật chất trong triết học Marx – Lenin
a) Định nghĩa vật chất
F. Engels cho rằng để có được quan điểm đúng đắn và đầy đủ nhất về vật chất, trước
hết ta phải xem nó như một phạm trù triết học độc lập chứ không chỉ là một sản
phẩm chủ quan của tư duy; ông cũng đưa ra quan điểm về tính vật chất: đó chính là
đặc tính chung, thống nhất của các sự vật, hiện tượng, và tính tồn tại độc lập, thống
nhất mà không phụ thuộc vào ý thức.
Kế thừa quan điểm này, V. Lenin đã tổng hợp và định nghĩa vật chất đầy đủ như
sau:

2

download by :


Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Thứ nhất, Lenin đã khẳng định rằng vật chất là một phạm trù triết học, từ đó khẳng
định rằng vật chất là khái niệm rộng nhất, nên không thể được định nghĩa bằng cách
thông thường là quy về một khái niệm rộng hơn mà chỉ có thể được giải thích như
đối lập của một phạm trù triết học khác là ý thức. Định nghĩa này về vật chất khắc
phục được các quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật
trước Marx. Thứ hai, Lenin khẳng định rằng vật chất tồn tại độc lập, khơng lệ thuộc
vào ý thức, cảm giác, cịn ý thức, cảm giác chỉ là sự sao chép, phản ánh lại các sự
vật, hiện tượng khách quan. Như vậy, ta có thể khẳng định trong nhận thức luận, vật
chất luôn mang tính thứ nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự hình thành ý

thức, quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức và nó cịn là
điều kiện để hiện thực hố ý thức.
Định nghĩa về vật chất của Lenin đã giải quyết triệt để hai vấn đề của triết học, đó
chính là bản thể luận (vật chất quyết định ý thức) và nhận thức luận (con người có
thể nhận thức được thể giới khách quan), cùng với việc triệt để khắc phục hạn chế
của chủ nghĩa duy vật siêu hình và bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, góp phần khắc phục
khủng hoảng và củng cố niềm tin cho khoa học tự nhiên. Hơn nữa, với định nghĩa
này, Lenin đã đặt ra tiền đề cho quan điểm duy vật về xã hội và loài người, cũng
như cơ sở để tạo nền tảng cho liên minh chặt chẽ giữa triết học duy vật biện chứng
và khoa học.

b) Các đặc tính của vật chất
Theo Engels, vận động là phương thức tồn tại và đặc tính cố hữu của vật chất, và chỉ
qua vận động, vật chất mới biểu hiện được sự tồn tại của mình. Vận động có năm
hình thức cơ bản, được chia thành năm cấp bậc: cơ giới – vật lí – hố học – sinh học
– xã hội. Các hình thức vận động này khác nhau về chất; hình thức vận 3

download by :


động cao xuất hiện trên cơ sở của hình thức vận động thấp và bao hàm các hình thức
vận động thấp – tuy nhiên mối quan hệ này chỉ xảy ra một chiều, nghĩa là các hình
thức vận động thấp khơng bao hàm các hình thức vận động cao hơn. Mỗi sự vật tồn
tại đều được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất. Về mặt bản chất, vật chất
có tính vơ tận, tồn tại vĩnh viễn nên vận động của vật chất cũng có tính vơ tận và tồn
tại vĩnh viễn, chỉ có các hình thức vận động mới sinh ra dựa trên sự chuyển hố của
một hình thức vận động khác. Điều này đã được khoa học tự nhiên chứng minh
bằng các định luật bảo toàn.
Vận động được khẳng định là phương thức tồn tại và đặc tính cố hữu của vật chất,
và chính vì vật chất là vĩnh cửu nên vận động cũng có tính vĩnh cửu và tuyệt đối.

Tuy vậy, ta không thể loại trừ một trạng thái đặc biệt của vận động – trạng thái đứng
im. Đứng im cũng là một trạng thái của sự vận động, tuy vật, trạng thái này chỉ
mang tính chất tạm thời và tương đối. Nếu vận động là biến đổi của các sự vật, hiện
tượng thì đứng im là sự ổn định, bảo tồn tính quy định sự vật hiện tượng. Tính
tương đối của trạng thái đứng im biểu hiện ở việc nó chỉ xảy ra với một hình thức
vận động, một mối quan hệ nhất định chứ khơng phải với mọi hình thức vận động
và mọi mối quan hệ cùng một lúc. Tính tạm thời của trạng thái này biểu hiện bởi
việc nó chỉ xảy ra khi sự vật chưa biến đổi, bởi sự vật hình thành nhờ các vận động
cá biệt. Nói cách khác, vận động nói chung, bao gồm cả vận động cá biệt và đứng
im, làm sự vật không ngừng biến đổi.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Khơng gian phản ánh
thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn,
cao thấp, biểu hiện sự tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau qua tính chất và
trật tự của chúng. Thời gian biểu hiện trình độ, tốc độ và quá trình của vật chất,
cũng như tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau trong quá trình, trình tự xuất
hiện và mất đi của các sự vật, hiện tượng khách quan. Cả không gian và thời gian
đều mang tính khách quan, bởi đây chính là hình thức cơ bản của vật chất, sự biến
đổi của không gian và thời gian phụ thuộc vào sự vận động của vật chất.
4

download by :


Thế giới khách quan quanh ta là một thể thống nhất, và tính thống nhất đó được biểu
hiện bằng tính vật chất của nó. Trong một thế giới thống nhất, vật chất tồn tại vĩnh
viễn, không sinh ra hay mất đi, và có tính chất quyết định ý thức con người. Như
vậy, mọi tồn tại chính là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất thống
nhất với nhau, chẳng hạn như liên hệ về cơ cấu tổ chức, lịch sử phát triển, và đều
phải tuân thủ theo quy luật khách quan của thế giới vật chất.


2. Ý thức
2.1. Quan niệm về ý thức trước chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức mới là bản thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là
nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của thế giới vật chất. Chủ
nghĩa này nhìn chung phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của thế giới khách quan, hoặc ít
nhất, cho là thế giới tự nhiên tồn tại phụ thuộc vào khả năng cảm nhận chủ quan của
con người. Một số nhà triết học tiêu biểu cho chủ nghĩa này như Berkeley, Edwards
và Kant đã tuyệt đối hóa vai trị của ý thức trong việc cấu thành sự tồn tại của thế
giới. Tiến đến chủ nghĩa duy vật siêu hình trước Marx, ý thức được quan niệm là
một dạng đặc biệt, phát triển cao hơn của vật chất, có sự khác biệt về trình độ giữa
từng giống lồi. Tuy nhiên, tư tưởng này cũng có những hạn chế của nó, đã bỏ qua
tính chất phức tạp và đa chiều của thực tiễn xã hội, biểu diễn quá trình thu nhận và
phản ánh của nhận thức dưới một lăng kính thụ động và giản đơn.

2.2. Quan điểm về ý thức trong triết học Marx – Lenin
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là kết quả của q trình tiến hố
lâu dài của giới tự nhiên, lịch sử, cũng như là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội
– lịch sử. Karl Marx nhấn mạnh quan điểm biện chứng về ý thức như sau:
Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải

biến trong đó.
5

download by :


Quan điểm này đã làm rõ các khía cạnh của ý thức nhìn dưới góc độ duy vật biện
chứng: nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức.
Trước hết ta nói về nguồn gốc của ý thức. Theo quan điểm trong chủ nghĩa duy vật
biện chứng, ý thức xuất hiện từ tự nhiên, qua bộ óc người và thế giới khách quan, và

xã hội, qua lao động và ngôn ngữ. Về mặt tự nhiên, những phát kiến về sinh lý học
chứng minh rằng cái mà ta gọi là ý thức cũng bắt nguồn từ sự vận động hóa sinh
trong cơ thể. Khoa học chứng minh và biểu diễn các xung điện trao đổi giữa các tế
bào não để tiếp thu thế giới khách quan và tác động ngược lại vào nó. Chính vì vậy,
xét theo tự nhiên quan điểm duy vật biện chứng đã cho rằng ý thức là một thuộc tính
của vật chất, nhưng khơng phải mọi dạng của nó. Sự xuất hiện của ý thức gắn liền
đặc tính phản ánh của nó. Đối với xã hội lồi người, sự phản ánh đạt đến hình thức
cao nhất, đó chính là sự phản ánh ý thức, gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích
nghi với nhu cầu phát triển của xã hội. Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với
sự phát triển của bộ óc con người dưới ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, biểu hiện
qua lao động và ngôn ngữ giao tiếp. Lao động ra đời nhằm cải tạo tự nhiên, thoả
mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con người, và chính nhờ có lao
động nên con người và xã hội mới được hình thành và phát triển về cả thể chất lẫn
tinh thần. Lao động hình thành nên ngơn ngữ, chính vì vậy ngơn ngữ đóng vai trò
như một phương tiện truyền tải tư duy, ý thức, làm tư duy, ý thức phát triển theo sự
phát triển của nó. Chính nhờ sự ra đời của ngơn ngữ mà con người đỡ đi việc lệ
thuộc các đối tượng vật chất cụ thể.
Xét về bản chất của ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng đây chỉ là hình
ánh chủ quan của thế giới khách quan, nghĩa là mỗi cá nhân luôn đặt sự vật, hiện
tượng khách quan dưới lăng kính chủ quan của mình. Nói cách khác, ta có thể hiểu
rằng nội dung phản ánh là khách quan, cịn hình thức phản ánh là chủ quan. Khơng
chỉ vậy, ý thức cịn là sự phản ánh tích cực, sáng tạo gắn với thực tiễn xã hội, bởi
nhờ ý thức con người có thể trao đổi thơng tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh,

6

download by :


xây dựng các học thuyết, lí thuyết khoa học, và từ đó cải tạo các hoạt động thực

tiễn. Ngồi ra ý thức còn mang bản chất lịch sử – xã hội.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, thức được kết cấu dựa trên các yếu tố hợp
thành và các cấp độ nội tâm. Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm ý thức gồm
bốn lớp cấu trúc hợp thành, đó là tri thức – phương thức tồn tại của ý thức. bao gồm
cảm tính và lí tính, tình cảm –các trạng thái khác nhau của tâm lí, niềm tin và
ý chí. Về mặt cấp độ, ta có thể phân loại ý thức thành ba cấp độ như sau: tự ý thức,

hay tri giác, là thành tố quan trọng của ý thức, nhưng ở đây tri giác được hiểu là ý
thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài; tiềm
thức, được định nghĩa là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã
gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là
ý thức dưới dạng tiềm tàng; vô thức, là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều
chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận
của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính tốn của lý
trí. Triết học Marx – Lenin lí luận rằng ý thức thuộc về vật chất sống có tổ chức cao
như con người, cịn động vật chỉ dừng lại ở việc hành động và ứng xử bản năng,
chúng khơng có năng lực suy nghĩ và tác động ở mức độ như con người, vì vậy
chúng khơng có ý thức.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
3.1. Vật chất quyết định ý thức
Khoa học chứng minh được rằng thế giới vật chất nói chung và trái đất nói riêng đã
tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người và bộ óc người, khẳng định rằng sự ra
đời của ý thức chính là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Bộ não
của con người chính là cơ quan quan trọng nhất trong cơ thể vật lí, bởi nó phản ánh
và xử lý thông tin từ thực tại khách quan. Điều này chứng minh vai trò quyết định
nguồn gốc ý thức của vật chất.
7

download by :



Trong định nghĩa của mình, Lenin khẳng định ý thức và cảm chẳng qua là sự phản
ánh, chép lại, chụp lại của thế giới khách quan, và điều này đã chứng minh vai trò
quyết định nội dung ý thức của vật chất. Thực tại khách quan tồn tại độc lập, không
phụ thuộc vào cảm giác, không thể bị thay đổi bởi ý thức đơn thuần, tuy nhiên nếu
khơng có sự tồn tại của thực tại khách quan ấy, ý thức cũng khơng tồn tại vì khơng
thể tiếp nhận và phản ánh sự vật, hiện tượng. Nói cách khác, nội dung phản ánh của
ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề và bị cái khách quan quy định.
Vật chất cũng quyết định bản chất của ý thức. Phát triển so với tư duy duy vật siêu
hình chỉ dựa vào cảm tính đơn thuần, duy vật biện chứng xem xét cả tính thực tiễn
của vật chất, từ đó khẳng định ảnh hưởng của nó lên bản chất của ý thức. Kết hợp
với tính phản ánh và sáng tạo – hai thuộc tính cố hữu của ý thức – ý thức được phát
triển đến trình độ cao hơn, để hai thuộc tính nói trên xuất hiện đồng thời và lồng
ghép với nhau.
Từ những khẳng định trên về vai trò của vật chất đối với ý thức, ta có thể rút ra kết
luận cuối cùng là vật chất có vai trị quyết định sự vận động và phát triển của ý thức.
Theo thời gian, thế giới vật chất ngày một phát triển, kéo theo sự phát triển tất yếu
của xã hội loài người. Ý thức, về mặt định nghĩa, là sự phản ánh của vật chất, nên
nó cũng có xu hướng phát triển song hành với vật chất, ngày một sâu sắc và đa
chiều.

3.2. Ý thức tác động ngược lại vật chất
Nếu chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng vật chất và ý thức tồn tại như hai khái
niệm tách biệt, khơng có mối liên hệ với nhau, thì chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
chứng minh rằng tuy vật chất quyết định ý thức, song ý thức cũng có tính độc lập
tương đối và có khả năng tác động trở lại vật chất.
Ý thức thường thay đổi chậm hơn so với thế giới vật chất, song cũng có tính vượt

trước so với vật chất. Đời sống khách quan của con người mỗi ngày một phát triển

nhanh, kéo theo đó là sự gia tăng trong những nhu cầu cả về vật chất lẫn tinh thần.
8

download by :


Điều này đã trở thành động lực phát triển của khoa học kĩ thuật. Chính vì tính vượt
trước, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua các hoạt động thực
tiễn của con người, đồng thời ý thức cũng đóng vai trị chỉ đạo các hoạt động thực
tiễn đó.
Tóm lại, triết học Marx – Lenin đã khẳng định rằng trong hoạt động của con người,
những nhân tố vật chất và ý thức có sự tác động qua lại, song sự tác động đó diễn ra
trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của ý thức.

AI. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về vật chất và ý thức vào công

cuộc đổi mới ở nước ta
1. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
Mặc dù Lenin khơng đưa ra một định nghĩa hồn chỉnh và chính thức, song ta có thể
suy ra từ tư tưởng của ông một ý niệm chung về kinh tế và chính trị. Có thể hiểu
kinh tế là tổng thể các hoạt động sản xuất liên quan đến các quá trình sản xuất, trao
đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội, cịn chính trị bao gồm hệ tư tưởng,
các thiết chế chính trị, các mối quan hệ giai cấp và dân tộc.
Lenin khẳng định rằng cơ cấu kinh tế của xã hội quyết định chính trị. Quan điểm
của ông là trong sản xuất vật chất, con người ở trong những mối quan hệ nhất định
với nhau, gọi là các quan hệ sản xuất. Đây chính là những quan hệ cơ bản, ban đầu
và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác, bởi chúng luôn phù hợp với trình độ
phát triển của năng suất mà những lực lượng kinh tế của các quan hệ ấy có được
trong mỗi thời kì. Các quan hệ sản xuất là những viên gạch nền móng tạo nên cơ cấu
kinh tế của xã hội, tạo nên một cơ sở thực tiễn phù hợp để xây dựng kiến trúc

thượng tầng. Nói cách khác, dù đã nắm trong tay chính quyền nhà nước, giai cấp vô
sản vẫn phải căn cứ vào nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế để xác định
phương hướng hoạt động của bộ máy chính trị, của cả hệ thống chính trị và lúc này
kinh tế cũng quyết định tính chất, quy mơ, mức độ và khả năng ảnh hưởng của bộ 9

download by :


máy chính trị đối với sự phát triển tiếp theo của kinh tế (TS. Lê Thị Chiên, 2019).
Trong thực tế, dù cách mạng chính trị diễn ra trước các cải cách kinh tế – thể hiện
qua cả một quá trình lịch sử dân tộc, chỉ khi nắm chắc được chính quyền, giai cấp
vô sản mới tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và thực thi các cải biến cách mạng
trong lĩnh vực kinh tế – song kinh tế vẫn ln nắm vai trị quyết định chính trị chứ
khơng phải ngược lại. Quan điểm này đã lần nữa khẳng định lập trường duy vật của
chủ nghĩa Marx về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và tinh thần được đặt
trong vấn đề lịch sử – xã hội.
Mặt khác, Lenin cũng đã nêu rõ quan điểm của mình về sự tác động trở lại của
chính trị đối với kinh tế. Ơng từng khẳng định: “Khơng có một lập trường chính trị
đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, khơng thể nào giữ vững được sự thống trị
của mình, và do đó, cũng khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh
vực sản xuất”. Luận điểm này đã làm rõ vai trị của chính trị đối với kinh tế, đó
chính là lãnh đạo, dẫn dắt các hoạt động kinh tế để hồn thành nhiệm vụ của mình.
Hơn nãm, đặc biệt khi đặt trong lịch sử dân tộc, vai trị của chính trị trở nên tất yếu
khi giai cấp cách mạng chưa giành được chính quyền, và lúc này vai trò của kinh tế
trở thành thứ yếu. Khi này, để giải phóng về mặt kinh tế, giai cấp cách mạng phải ưu
tiên giành được độc lập về mặt chính trị. Tuy vậy, một khi độc lập chính quyền đã
về tay giai cấp vơ sản, chính trị lại trở thành yếu tố phụ thuộc và được quyết định
bởi kinh tế.
Nói tóm lại, mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chủ nghĩa Marx
đã phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của chủ nghĩa duy vật

biện chứng.

2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng trong việc xây dựng nền kinh tế trong

công cuộc đổi mới
Tuân theo quy luật khách quan của lịch sử, chủ nghĩa xã hội sẽ là hình thái kinh tế
– xã hội tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản. Ở nước ta, xuất phát từ bối cảnh lịch sử,
10

download by :


ta đã chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản, và lấy chủ
nghĩa Marx – Lenin làm kim chỉ nam cho định hướng này.
Trước công cuộc đổi mới tháng 12, năm 1986, nước ta đang dần hồi phục sau kháng
chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ta đã mắc phải sai lầm
nghiêm trọng trong việc định hướng tình hình kinh tế – chính trị. Hậu quả là một
nền kinh tế bao cấp, lạc hậu với nhiều tiêu cực trong tư tưởng chính trị, nhìn chung,
các mục tiêu được đề ra ở Đại hội Đảng lần V chưa thể đạt được. Đây có thể coi như
một sự vận dụng khơng hợp lí chủ nghĩa Marx – Lenin vào cơng cuộc đổi mới, và
sai lầm chủ yếu nằm trong việc quản lí bộ máy nhà nước. Trước tình hình này, Đại
hội Đảng lần thứ VI đã rút kinh nghiệm từ những sai lầm trước đây, và đổi mới toàn
bộ tư duy về mặt kinh tế – chính trị – ln phải xuất phát từ thực tế và hoạt động
theo quy luật khách quan.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển.
Theo định nghĩa, khái niệm “đổi mới kinh tế” có thể được hiểu là quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo nền kinh tế thị trường tồn tại và phát triển, ta phải thừa nhận các quy
luật khách quan trong nền kinh tế, như quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, v.v.

Trên cơ sở đó, nhà nước phải vừa phát huy được những điểm mạnh, đồng thời kế
thừa và chọn lọc những quan hệ sản xuất và hình thức kinh tế với những tác dụng
tích cực. Cụ thể hơn, Đảng và nhà nước cần có những biện pháp phân phối hợp lý –
vừa phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, vừa phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thơng qua phúc lợi
xã hội. Ngồi ra nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích làm giàu một cách
chính đáng.
Ngồi cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng cũng đóng vai trị quan trọng trong cơng
cuộc đổi mới đất nước. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng đổi mới là tư tưởng
cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Marx – Lenin, kết hợp với tinh 11

download by :


hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, phản ánh và giải quyết những nhu cầu khách quan
của thực tiễn đất nước. Để tiến hành đến mục tiêu xây dựng thành công xã hội chủ
nghĩa, ta cũng cần kế thừa và chọn lọc những tinh hoa trong tư tưởng, văn hoá. Có
thể thấy rõ tầm quan trọng của các chính sách xã hội như quan tâm chăm sóc đối với
những người có cơng với cách mạng, chính sách đền ơn đáp nghĩa, hay thực hiện
các chính sách dân số.
Thế kỉ XXI được mệnh danh là thời đại số hoá, cách mạng khoa học – công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin, đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, từ đó
chứng minh được tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Điều
này có thể giúp ta rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển, song cũng đặt ra
những to lớn về sự cách biệt trong trình độ và điều kiện, các yếu tố có thể khiến
nước ta có nguy cơ tụt hậu xa hơn. Khơng chỉ có vậy, tồn cầu hoá cũng là một xu
thế khách quan trên thế giới, và nước ta khơng thể nằm ngồi quy luật khách quan
ấy.
Chính vì vậy, trước tình hình đó, ta cần vận dụng khôn khéo chủ nghĩa Marx –
Lenin vào việc hội nhập quốc tế, đồng thời cũng giữ được nền kinh tế độc lập tự

chủ. Thứ nhất, ta phải đề cao vai trò của bộ máy nhà nước, đảm bảo một bộ máy nhà
nước vừa đủ mềm dẻo để ứng biến với những thay đổi của thời cuộc, lại vừa cứng
rắn trong cuộc chiến kinh tế giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, bởi áp dụng
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, bên nào nắm quyền thống trị về
kinh tế thì sớm muộn cũng nắm quyền thống trị về chính trị. Thứ hai, ta cần xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang bản sắc dân tộc, vì đặt trong xu thế tồn cầu hố ta vẫn
cần phải giữ gìn văn hố truyền thống trong việc giao lưu, hội nhập quốc tế. Thứ ba,
đứng trước các thế lực thù địch đang đe doạ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,
Đảng và nhà nước ta phải ra sức tăng cường an ninh quốc phòng, ra sức đổi mới hệ
thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, của thời đại. Hơn nữa,
ta phải nêu cao, bồi dưỡng ý chí cách mạng, đồng thời tích cực phát huy tính năng
động, sáng tạo và loại bỏ triệt để tư tưởng chủ quan duy ý chí.
12

download by :


KẾT LUẬN
Qua đề tài nghiên cứu, ta đã làm rõ và sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức trong triết học Marx – Lenin, đó chính là vật chất ln mang tính thứ nhất,
quyết định ý thức, cịn ý thức ln mang tính thứ hai, là nhân tố bị vật chất chi phối,
song cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Từ đây, ta có thể rút
ra bài học hết sức cần thiết cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân
ta, đó chính là để tiến lên chủ nghĩa xã hội, mọi đường lối, chính sách, phương
hướng mục tiêu đề ra, hoạch định ra phải được xuất phát từ thực tế điều kiện nước
nhà. Không chỉ vật, ta vẫn phải phát huy những vai trò tích cực của
ý thức con người. Điều này được biểu hiện qua việc xây dựng khối đại đoàn kết dân

tộc, khơi dậy lịng u nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam,
quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo làm lạc hậu. Nhưng đồng thời đó ta cũng

phải triệt để tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí, nóng vội trong con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội.

13

download by :


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lê-nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, năm 2006
2. PGS.TS Nguyễn Viết Thảo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Vận

dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước yêu
cầu, nhiệm vụ mới
3. TS. Lê Thị Chiên, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Về

mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quan điểm của V.I. Lê nin và ý nghĩa đối
với Việt Nam hiện nay (2019)
4. ThS. Vũ Tuấn - Vận dụng phép biện chứng duy vật trong quá trình xây dựng và

thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
5. />6. />
14

download by :




×