Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học QUAN điểm DUY vật BIỆN CHỨNG về mối QUAN hệ GIỮA vật CHẤT với ý THỨC và vận DỤNG vào CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.61 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----------------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện

: Trâfn Thị Duyên

Mã sinh viên

: 2114310019

Số thứ tự

: 18

Lớp tín chỉ

: TRI114.12

Giảng viên hướng dẫn : TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, tháng 11 năm 2021

download by :



MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................. 1
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................... Error! Bookmark not defined.
NỘI DUNG ............................................................... Error! Bookmark not defined.

I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất ....................................................................

1.1.Định nghĩa vật ch

1.2.Các hình thức tồn

1.3.Tính thống nhất v
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức ...........
2.1.Nguồn gốc của ý

2.2.Bản chất của ý th

2.3.Kết cấu của ý thứ
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức .....................

3.1.Vai trò của vật ch

3.2.Vai trò của ý thức

3.3.Ý nghĩa của phươ
AI. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO CÔNG


CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Thực trạng nước ta trước giai đoạn đổi mới....Error! Bookmark not defined.
2. Công cuộc đổi mới đất nước..................................... Error! Bookmark not defined.
2.1. Đổi mới kinh tế................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Đổi mới chính trị................................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN............................................................................................................................................ 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................. 18

1

download by :


LỜI MỞ ĐẦU
Theo quan điểm Mac-Lênin: “Vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan
hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn;
trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trị quyết định đối với ý thức. Vật chất là
nguồn gốc của ý thức, ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.”
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, công cuộc đổi mới đất nước ta
đạt được những thành tựu vơ cùng to lớn. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phịng, đã có những chuyển biến tích cực. Kể từ Đại hội VI, Đảng ta đã
vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
vào công cuộc đổi mới. Thực tế đã chứng minh những đường lối, tư tưởng và
chính sách trên là đúng đắn. Chúng ta đã chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với những ý nghĩa và tác dụng của vấn đề này, em đã chọn đề tài tiểu
luận triết học số một: “Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ giữa vật
chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.”


2

download by :


NỘI DUNG
Lí luận chung về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

I.
1.

Vật chất

1.1. Định nghĩa vật chất
Các nhà triết học trước C.Mác tuy đã có những quan niệm về vật chất song vẫn
cịn hạn chế. Các nhà triết học duy tâm, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa
duy tâm chủ quan, từ thời cổ đại đến hiện đại buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự
vật, hiện tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật chất.
Các nhà duy vật thời Cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể của nó và xem
chúng là khởi nguyên của thế giới, tức quy vật chất về những vật thể hữu hình, cảm tính
đang tồn tại ở thế giới bên ngồi, chẳng hạn, nước, lửa, khơng khí…. Các nhà chủ
nghĩa duy vật thời cận đại đã chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử làm
cho quan niệm về vật chất được củng cố thêm. Tuy nhiên, do chưa thốt khỏi phương
pháp tư duy siêu hình nên họ thường đồng nhất vật chất với khối lượng, coi những định
luật cơ học như những chân lý không thể thêm bớt và giải thích mọi hiện tượng của thế
giới theo những chuẩn mực thuần túy cơ học; xem vật chất, vận động, không gian, thời
gian như những thực thể khác nhau, khơng có mối liên hệ nội tại với nhau…. Các nhà
triết học thời kỳ này vẫn không thể làm thay đổi căn bản cái nhìn cơ học về thế giới,
khơng đủ đưa đến một định nghĩa hồn tồn mới về phạm trù vật chất. Cuối thế kỉ XIX,
đầu thế kỉ XX, khơng ít nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát,

siêu hình đã hoang mang, dao động, hồi nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật; chủ
nghĩa duy tâm trong một số khoa học đã tấn công và phủ nhận quan niệm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật; một số nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy
móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ nghĩa
duy vật siêu hình, máy móc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những tư tưởng hết sức

3

download by :


quan trọng về vật chất. Theo Ph.Ăngghen, để có một quan niệm đúng đắn về
vật chất, cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một
phạm trù triết học, một sáng tạo, một công trình trí óc của tư duy con người
trong q trình phản ánh hiện thực chứ không phải là sản phẩm chủ quan của
tư duy. Đồng thời, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng, các sự vật, hiện tượng của
thế giới dù rất phong phú, mn vẻ nhưng chúng vẫn có một đặc tính chung,
thống nhất, đó là tính vật chất – tính tồn tại, độc lập không lệ thuộc vào ý thức.
Kế thừa những tư tưởng thiên tài đó, V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện
những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa
hồi nghi, duy tâm. Đồng thời, Lênin đã tìm kiếm phương pháp định nghĩa mới cho phạm
trù vật chất thông qua khái niệm đối lập với nó trên phương diện nhận thức luận cơ bản,
nghĩa là phải định nghĩa vật chất thông qua ý thức. Với phương pháp nêu trên, V.I.Lênin
đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy,
định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngồi

ý thức và khơng lệ thuộc vào ý thức.

Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật
chất là tồn tại khách quan.
Thứ ba, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi nó trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức là sự phản
ánh đối với vật chất, vật chất là cái quyết định ý thức.
Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết
một cách đúng đắn và triệt để cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học; triệt để khắc

4

download by :


phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ, bác bỏ chủ nghĩa duy tâm bất khả tri;
khắc phục được khủng hoảng, đem lại niềm tin trong khoa học tự nhiên; tạo
tiền đề xây dựng quan điểm duy vật về xã hội và lịch sử loài người. Định nghĩa
vật chất của V.I.Lênin là cơ sở để xây dựng nền tảng vững chắc cho sự liên
minh ngày càng chặt chẽ giữa triết học duy vật biện chứng với khoa học.
1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất
Vận động
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất. Vật chất chỉ có thể tồn
tại bằng cách vận động và thơng qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của nó với
các hình dạng phong phú mn vẻ, vơ tận. Do đó, con người chỉ nhận thức được

sâu sắc sự vật hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong quá trình vận động.
Vận động là một thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất; do
đó, nó tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Quan niệm về tính
khơng thể tạo ra và không bị tiêu diệt của vận động đã được các nhà khoa học tự
nhiên chứng minh bằng quy luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng. Một hình thức
vận động cụ thể thì có thể mất đi để chuyển hóa thành hình thứ vận động khác, cịn
vận động nói chung thì tồn tại vĩnh viễn gắn liền với bản thân vật chất.

Những hình thức vận động cơ bản của vật chất
Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã chia vận
động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã
hội. Cơ sở của sự phân chia đó dựa trên các ngun tắc: các hình thức vận động phải
tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình thức vận động có mối

5

download by :


liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của những
hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động thấp; hình thức vận động
cao khác về chất so với hình thức vận động thấp và khơng thể quy về hình thức vận
động thấp. Các hình thức vận động này tuy khác nhau về chất nhưng chúng không
tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong sự tồn tại của mình, mỗi
một sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau; tuy nhiên, bản
thân sự tồn tại của sự vật bao giờ cũng đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất.

Vận động và đứng im
Sự vận động không ngừng của vật chất khơng những khơng loại trừ mà trái lại
cịn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật

biện chứng, đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những
mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự
vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất. Vận động
và đứng im tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự phát sinh,
tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, nhưng vận động là tuyệt đối, còn
đứng im là tương đối bởi: vật chất chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định, một hệ
quy chiếu nhất định; đứng im chỉ xảy ra trong một hình thức vận động và chỉ xảy ra
trong một khoảng thời gian xác định, ngay trong thời gian đó cũng nảy sinh những
nhân tố dẫn đến phá vỡ sự đứng im đó.

Khơng gian và thời gian
Dựa trên những thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian và
thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Trong đó, khơng gian là hình thức
tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động
lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn
biến, sự kế tiếp của các q trình. Khơng gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình
thức tồn tại khác nhau của vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Không
6

download by :


có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong khơng gian mà lại khơng có một q trình
diễn biến của nó. Khơng gian và thời gian về thực chất là một thể thống nhất
khơng – thời gian. Vật chất có ba chiều khơng gian và một chiều thời gian.
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học và khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:

-

Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới

vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý
thức con người phản ánh.
-

Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau, biểu

hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật chất, cùng
chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
-

Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó

tồn tại vĩnh viễn, vơ hạn và vơ tận.
2.

Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức

2.1. Nguồn gốc của ý thức
Quan điểm của các nhà khoa học
Khi lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, các nhà triết học duy tâm cho
rằng, ý thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh
thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật siêu
hình phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần. Họ cho rằng: ý
thức xuất phát từ thế giới hiện thực để lí giải nguồn gốc của ý thức; coi ý thức
cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra.

Trong khi đó, các nhà chủ nghĩa duy vật biện chứng lại cho rằng: ý thức xuất hiện
là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng

7

download by :


thời là kết quả trực tiếp của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết
quả trực tiếp của thực tiễn xã hội – lịch sử con người.
Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc con người và hoạt động của nó cùng
mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Ý thức là thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Ý thức khơng thể tách rời khỏi hoạt động
của bộ óc. Để bộ óc con người sản sinh ra được ý thức cần phải có sự tác động
của thế giới khách quan. Thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt
động giác quan đã tác động đến bộ óc của con người, hình thành nên ý thức.
Nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ là hai nhân tố cơ bản của
nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức.

Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động
vào các đối tượng của thế giới tự nhiên nhằm thay đổi chúng cho phù hợp với
nhu cầu sử dụng của con người. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và
hồn thiện chính mình. Theo Ph.Ăngghen thì “Lao động là điều kiện cơ bản đầu
tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức đọ và trên một ý
nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang
nội dung ý thức. Khơng có ngơn ngữ, ý thức khơng thể tồn tại và phát triển. Nhờ có
ngơn ngữ mà con người khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm,

truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ph.Ăngghen đã nói: “Sau lao động
và đồng thời với lao động là ngơn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu cải biên bộ óc
của vượn thành bộ óc của con người, cải biến tâm lý động vật thành ý thức.

Như vậy, điều kiện cần để có ý thức là nguồn gốc tự nhiên và điều kiện
đủ là nguồn gốc xã hội.
2.2. Bản chất của ý thức
8

download by :


Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là hình
ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về
nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó khơng cịn y ngun như thế giới
khách quan mà nó đã cải biến thơng qua lăng kính chủ quan của con người.
Ý thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo, gắn với thực tiễn xã hội:
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin,
chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cở sở những thông tin
đã có nó có thể tạo ra những thơng tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin
được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức cịn được
thể hiện ở q tình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,…
trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan,
xây dựng các mơ hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.

Ý thức mang bản chất lịch sử - xã hội: Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã
hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng

động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
2.3. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với

nhau; tỏng đó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí. Trong đó tri thức là yếu tố
quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố quyết định
hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
3.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức.
9

download by :


-

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc

người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con
người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài
của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất.
-

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc


người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao
động, ngơn ngữ), hoặc chính là bản thân thế giới vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản
ánh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
-

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế

giới vật chất nên vật chất quyết định nội dung của ý thức. Sự vận động và phát
triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các
quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố
này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn
quyết định cả sự vận động và phát triển của ý thức.
3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại vật chất.
-

Thứ nhất, ý thức tác động trở lại thế giới vật chất thường thay đổi

chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
-

Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt

động thực tiễn của con người.
-

Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động thực

tiễn của con người.

-

Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng to lớn,

nhất là trong thời đại ngày nay.
Ý thứ có tính năng động, sáng tạo nên thông qua hoạt động thức tiễn của con

người có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định những điều kiện vật chất,
10

download by :


góp phần cải biến thế giới khách quan. Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách
quan thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo
thế giới. Ngược lại, ý thức sẽ kìm hãm hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của
con người nếu không phản ánh đúng thế giới khách quan.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất, thông qua hoạt động
thực tiễn của ncon người dù đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa trên
cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất và các điều kiện vật chất liên quan.
3.3. Ý nghĩa của phương pháp luận
Vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải đảm
bảo tính khách quan khi xem xét sự vật hiện tượng: phải xem xét sự vật hiện tượng
như chính nó đang tồn tại bên trong thực tế; trong hoạt động thực tiễn phải lấy nhân
tố vật chất làm cơ sở; phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động, tính cức,

sáng tạo của ý thức: phải nâng cao tri thức; phải bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và
ý chí; đồng thời phải tạo môi trường xã hội thuận lợi để con người phát huy tối đa
năng lực của bản thân; phải giải quyết đúng đắn các vấn đề lợi ích.

AI.

Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới
đất nước ở nước ta hiện nay
Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản có mối quan hệ biện chứng với nhau.

Vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại vật chất. Trong nhiều trường hợp,
ý thức lý luận lại quyết định sự thành bại của con người. Điều đó được thể hiện rõ trong

đường lối chủ trương đổi mới, phát triển đất nước đặc biệt là kinh tế của Đảng ta trong
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Nếu đường lối chính sách của Đảng phù hợp với
quy luật phát triển thì sẽ làm cho đất nước phát triển, ngược lại nếu đường lối chính
sách của Đảng phù hợp với quy luật phát triển thì sẽ làm cho đất nước phát triển, ngược
lại nếu đường lối chính sách của Đảng đi ngược lại với quy luật phát triển thì sẽ kìm hãm
sự phát triển của kinh tế. Như vậy, kinh tế - vật chất là tính thứ nhất, chính trị - ý
11

download by :


thức là tính thứ hai. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị càng được thể hiện
rõ trong quá trình xây dựng, đổi mới đất nước.
1.

Thực trạng nước ta trước giai đoạn đổi mới

Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, sau khi giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, nước ta đứng trước nhiều khó khăn và thử thách mới. Nền
kinh tế miền Bắc lúc này còn nhiều nhược điểm: cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế
nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời

sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu
công nghiệp cho hàng hóa xuất khẩu. Mặt khác, nền kinh tế miền Bắc cịn bị chiến tranh
phá hoại bằng khơng quân của đế quốc Mỹ tàn phá nặng nề. Ở miền Nam, sau 20 năm
chiến tranh, nền kinh tế bị đảo lộn và suy sụp, nông nghiệp nhiều vùng hoang hóa, lạm
phát trầm trọng. Ngồi ra, về mặt chính trị, chúng ta chưa tìm được đầy đủ những
ngun nhân đích thực của sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra
các chủ trương chính sách toàn diện về đổi mới. Nhất là về kinh tế, chúng ta chưa kiên
quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lý nền kinh tế và những sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông.
2.

Công cuộc đổi mới đất nước

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng triết
học Mác – Lênin, đề ra những mục tiêu và phương hướng chỉ đạo đúng đắn để
xây dựng và phát triển xã hội. Nhờ vào nhận thức thực tiễn, Đảng và Nhà nước
đã quyết định loại bỏ nền kinh tế bao cấp và cho phép Đất nước phát triển theo
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Bên
cạnh đó, Đảng cịn đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những
mặt tiêu cực trong kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng.
Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy
ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định phương hướng về xây dựng cơ

sở vật chất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lí kinh tế. Biểu hiện của nó là ta đã quá
12

download by :


chủ quan trong việc đánh giá sai lệch về tốc độ cải thiện kinh tế mà hệ quả của nó là việc

đề ra những chỉ tiêu quá cao so với khả năng thực tại. Như vậy Đảng ta đã vi phạm
nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.

Trước sự suy sụp của nền kinh tế, Đại hội lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu cho
kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng như: năm
2975, phấn đấu đạt 21 triệu tần lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu héc ta khai
hoang, 1 triệu 200 héc ta rừng mới trồng…, 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi
măng… Đặc biệt là đã đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp
nặng, đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm vụ hồn thành về cơ bản vải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Nam, Những chủ trương sai lầm do cùng với cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp đã tác động xấu đến kinh tế, ảnh hưởng không tốt tới đời sống của
nhân dân… Đến năm 2980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề ra,
nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình qn 1,5%,
cơng nghiệp tăng 2,6% nơng nghiệp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần thứ V cũng chỉ tìm ra được đầy đủ những ngun nhân đích thực
sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chỉ ra các chủ trương chính sách và
tồn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế. Trong 5 năm 1981 – 1985, chúng ta chỉ kiên
quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và quản lý kinh tế, lại phạm sai lầm mới nghiêm trọng trong lĩnh vực phối lưu thơng,
Nhìn chung, chúng ta chỉ thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề
ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
nhận định: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên
cứu, tìm tịi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan:
Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần: thúc
đẩy mạnh q mức q trình xây dựng cơng việc nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản

13


download by :


lý tập trung quan liên, bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả,
tiền tệ, tiền lương”. Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian
ngắn, khơng thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: “Nay phải sửa
lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên,
liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước
đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”.
2.1.

Đổi mới kinh tế

Trong cơ cấu sản xuất và đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều chình lại theo hướng
“khơng bố trí xây dựng cơng nghiệp nặng vượt q điều kiện và khả năng thực tế”, tập
trung sức người sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương
thực – thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những
chính sách vừa đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ, vừa là điều kiện thúc
đẩy sản xuất lưu thơng hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa. Bên cạnh đó,
Đảng thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ
thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động
theo chế độ hoạch toán kinh tế, Đảng đã đề ra mục tiêu đổi mới kinh tế, đó là:
-

Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

-


Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kế hoạch hóa theo phương
thức hoạch tốn kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

-

Đổi mới về nội dung, cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương
kinh tế: Sản xuất lương thực, thực phẩm.
Sản xuất hàng tiêu dùng.
Sản xuất hàng xuất khẩu.

Qua quá trình đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rõ rệt:

14

download by :


- Một là, tạo lập được sự ổn định kinh tế vĩ mô.
- Hai là, cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng tích cực, phát huy tiềm

năng của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế.
- Ba là, kinh tế đối ngoại phát triển khá, vị thế nước ta trên trường quốc tế đã được

nâng cao.
2.2. Đổi mới chính trị
Sự đổi mới và phát triển kinh tế phải gắn liền với sự đổi mới trong lĩnh vực chính
trị. Thực tiễn đổi mới kinh tế đang địi hỏi đổi mới chính trị phải nới lỏng hơn nữa,
phải tháo gỡ những trói buộc của các quan điểm chính trị, các chính sách, thiết chế,
cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy,… Nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị để mở
đường cho kinh tế và xã hội phát triển bền vững là một nhu cầu khách quan xuất

phát từ sự phát triển xã hội. Vấn đề cấp thiết nhất trong đổi mới chính trị là sự đổi
mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và những đặc điểm của thời đại ngày nay.
Tại Đại hội XIII, Đảng đã coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một
trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; khẳng định tiếp tục thực hiện “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng
Đảng là then chốt”; đề ra nhiệm vụ “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy
bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Đồng
thời “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và
của nền văn hóa, con người Việt Nam”. Quan điểm này tiếp tục chỉ đạo, siu sáng việc đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời gian tới của Đảng.
Có thể thấy, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị trong suốt quá trình đổi mới đất nước, đặc biệt là vấn đề đổi mới chính trị.
Điều này là hồn tồn đúng đắn, bởi kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực quan trọng bậc
nhất trong mọi xã hội, có tác động to lớn đến các lĩnh vực khác. Hơn nữa, giữa kinh

15

download by :


tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, mật thiết, không tách rời nhau. Để
xử lý tốt mối quan hệ này, trong đó có vấn đề đổi mới chính trị đồng bộ, phù
hợp với đổi mới kinh tế, trước hết cần dựa trên cơ sở lý luận khoa học đúng
đắn. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị là một trong những lý luận quan trọng để thực hiện nhiệm vụ nói trên.

16


download by :


KẾT LUẬN
Có thể nói, vật chất đóng một vai trị vơ cùng lớn và quyết định đối với ý
thức, nó là cái có trước ý thức, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý
thức, quyết định nội dung của ý thức; nhưng ý thức lại là sự phản ánh hiện thực
khách quan của thế giới vật chất. Mối quan hệ biện chứng này chỉ được thực hiện
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nâng cao vai trò của ý thức đối với
vật chất chính là nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận
dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Công cuộc đổi mới là một sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nó như cuộc
kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước. Với những biến động trước tình hình
kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi hỏi Đảng và nhà nước phải kiên trì, giữ vững
lịng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn, đồng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng
kịp thời với thực tế biến đổi từng ngày từng giờ. Chúng ta đã thành công khi chuyển
từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn luôn xác định phải xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Thực tế đã chứng minh việc vận
dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới của đất nước là vô
cùng đúng đắn và cần thiết. Ngày hôm nay, sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã có
những chuyển mình tích cực. Tuy nhiên trong q trình thực hiện vẫn cịn khơng ít
những sai sót, khuyết điểm. Vì vậy, để thực sự đưa cuộc đổi mới đi đến thành cơng
cần sự đồn kết, nỗ lực hết mình của tồn Đảng, tồn dân, toàn quân.

17

download by :



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB

Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội - 2017
2. Giáo trình Triết học Mác-Lênin (tập I - Chủ nghĩa duy vật biện chứng),

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2007
3. Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,

Nhà xuất bản sự thật, Hà nội
4. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
5. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục

và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
6. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung

ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác –
Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, năm 2005
7. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tái bản có sửa đổi, bổ

sung), Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các
bộ mơn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2003
8. ri- o-Viet-Nam-hien-nay

---tiep-can-tu - moi-quan-he-giua-kinh- te-va-chinh-tri.html
9. cua - dang-vao- cuoc-song/nhan-thuc-va-giaiquyet-dung-dan-moi-quan-he-giua-doi-moi-kinh- te- va-doi-moi-chinh- tri-135330


18

download by :



×