Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Báo cáo " Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.22 KB, 5 trang )



nghiên cứu - trao đổi
50 - Tạp chí luật học



TS. Lê Thị Sơn *
1. Chuẩn bị phạm tội, phạm tội cha đạt
và tội phạm hoàn thành của tội phạm cố ý là
ba mức độ thực hiện tội phạm khác nhau có
ba mức độ nguy hiểm cho x hội khác nhau
theo hớng từ thấp đến cao. Chuẩn bị phạm
tội bao gồm các hành vi tìm kiếm công cụ,
phơng tiện hoặc hành vi khác tạo điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện tội phạm. Tuy
nhiên, những hành vi đó cha xâm hại trực
tiếp đến quan hệ x hội là khách thể trực tiếp
của tội định phạm nên so với phạm tội cha
đạt và tội phạm hoàn thành thì chuẩn bị
phạm tội có mức độ nguy hiểm cho x hội
thấp nhất. Trờng hợp có mức độ nguy hiểm
cho x hội cao hơn chuẩn bị phạm tội nhng
lại thấp hơn tội phạm hoàn thành là phạm tội
cha đạt. Đó là hành vi bắt đầu thực hiện tội
phạm, tuy cha phải là hành vi thực hiện tội
phạm hoàn thành nhng đ xâm hại trực tiếp
đến khách thể hoặc trực tiếp đe doạ gây ra
hậu quả nguy hiểm cho x hội. Đối với các
hành vi thực hiện tội phạm ở các mức độ
khác nhau có các mức độ nguy hiểm cho x


hội khác nhau thì cũng cần phải xác định cho
các hành vi đó các mức độ TNHS khác nhau.
Đó là cơ sở căn bản để quy định cũng nh
phân hoá TNHS trong luật hình sự đối với
chuẩn bị phạm tội, phạm tội cha đạt và tội
phạm hoàn thành của một tội phạm cố ý.
Ngoài ra, các hành vi chuẩn bị phạm tội
hoặc phạm tội cha đạt của các loại tội cố ý
khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm
cho x hội cũng có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho x hội khác nhau. Đây cũng là cơ
sở để phân hoá TNHS đối với chuẩn bị phạm
tội, phạm tội cha đạt không chỉ của một loại
tội cố ý mà của các loại tội cố ý khác nhau.
Luật hình sự Việt Nam qua các thời kì và
luật hình sự của các nớc đ có những quy
định khác nhau về TNHS của chuẩn bị phạm
tội và về phân hoá TNHS đối với chuẩn bị
phạm tội, phạm tội cha đạt và tội phạm
hoàn thành của các tội phạm cố ý.
2. Về TNHS của ngời có hành vi phạm
tội cha hoàn thành, BLHS năm 1985 đ quy
định: Ngời chuẩn bị phạm tội tội nghiêm
trọng (tội có mức cao nhất của khung hình
phạt là trên 5 năm tù) và ngời có hành vi
phạm tội cha đạt trong mọi trờng hợp phải
chịu TNHS. Quy định này đ thể hiện sự
phân hoá trong việc quy định có TNHS hay
không có TNHS đối với chuẩn bị phạm tội và
phạm tội cha đạt của các tội phạm cố ý. Chỉ

những ngời có những hành vi chuẩn bị
phạm tội tội gây nguy hại lớn cho x hội mà
đợc luật hình sự quy định là tội nghiêm
trọng mới phải chịu TNHS. Quy định trên
cũng chính thức thừa nhận rằng so với phạm
tội cha đạt và tội phạm hoàn thành thì
* Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 51

chuẩn bị phạm tội có mức độ nguy hiểm cho
x hội thấp nhất và chuẩn bị phạm tội tội ít
nghiêm trọng ít nguy hiểm hơn chuẩn bị
phạm tội tội nghiêm trọng.
Tuy thừa nhận mức độ TNHS đặt ra cho
chuẩn bị phạm tội, phạm tội cha đạt và tội
phạm hoàn thành của một loại tội cố ý không
ngang bằng nhau mà phải khác nhau song
BLHS năm 1985 đ không thể hiện rõ tinh
thần này. Theo Điều 15 BLHS năm 1985 thì
ngời chuẩn bị phạm tội và ngời phạm tội
cha đạt chịu TNHS về cùng một tội danh,
theo cùng một điều luật và trong cùng một
phạm vi chế tài nh trờng hợp tội phạm
hoàn thành. Điều đó cũng có nghĩa mức tối
đa và mức tối thiểu của khung hình phạt và
loại hình phạt có thể áp dụng cho các hành vi
đó (các hành vi thực hiện tội phạm ở các mức

độ khác nhau và có mức độ nguy hiểm cho
x hội khác nhau) là giống nhau. Nếu áp
dụng một cách máy móc quy định trên thì
vẫn có thể quyết định hình phạt cho chuẩn bị
phạm tội một tội nghiêm trọng hoặc phạm tội
cha đạt ở mức cao nhất hoặc ở mức thấp
nhất của khung hình phạt quy định cho tội
phạm đó ở giai đoạn hoàn thành.
Quy định nêu trên về TNHS cho ngời có
hành vi phạm tội cha hoàn thành của BLHS
năm 1985 là cha hợp lí, cha tạo cơ sở pháp
lí đầy đủ để phân hoá TNHS đối với các
hành vi thực hiện tội phạm ở các mức độ
khác nhau cho tơng xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho x hội của các hành
vi đó.
(1)
Sự phân hoá TNHS đối với chuẩn bị
phạm tội, phạm tội cha đạt và tội phạm
hoàn thành của một loại tội cố ý chỉ có thể
thực hiện đợc một cách triệt để nếu đảm
bảo đợc nguyên tắc về sự tơng xứng giữa
mức độ TNHS cần xác định với mức độ nguy
hiểm của các hành vi đó. Nh vậy, để tơng
xứng với mức độ nguy hiểm của các hành vi
thực hiện một phạm cố ý ở các mức độ khác
nhau thì rõ ràng thông qua các quy định của
mình luật hình sự phải thể hiện đợc nguyên
tắc xử lí là chuẩn bị phạm tội bị xử nhẹ hơn
phạm tội cha đạt và phạm tội cha đạt phải

bị xử nhẹ hơn tội phạm hoàn thành (nếu có
các tình tiết khác tơng đơng).
(2)

Từ những phân tích trên có thể khẳng
định rằng đối với chuẩn bị phạm tội và phạm
tội cha đạt của các tội phạm cố ý, BLHS
năm 1985, tuy đ thể hiện đợc sự phân hoá
hợp lí trong quy định về xác lập TNHS
nhng vẫn cha thể hiện đợc sự phân hoá
hợp lí trong quy định về xác định TNHS.
3. Với mục đích khắc phục những hạn
chế của BLHS năm 1985 và phân hoá cao
hơn TNHS đối với các hành vi thực hiện tội
phạm cố ý ở các mức độ khác nhau, BLHS
năm 1999 đ có hàng loạt các quy định mới
liên quan đến TNHS của hành vi chuẩn bị
phạm tội và phạm tội cha đạt.
Theo quy định của BLHS năm 1999 thì
TNHS đối với chuẩn bị phạm tội chỉ đặt ra
khi đó là hành vi chuẩn bị phạm tội tội rất
nghiêm trọng (tội có mức cao nhất của
khung hình phạt là từ trên 7 năm đến 15
năm tù) và tội đặc biệt nghiêm trọng (tội có
mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15
năm tù). Với quy định này, BLHS năm 1999
đ thu hẹp hơn so với BLHS năm 1985 diện
các hành vi chuẩn bị phạm tội phát sinh
TNHS. Đó là các hành vi chuẩn bị phạm các
tội có mức cao nhất của khung hình phạt từ

trên 5 năm đến 7 năm tù. Cũng theo quy định
của BLHS năm 1999 ngời chuẩn bị phạm
tội, ngời phạm tội cha đạt chịu TNHS về
cùng một tội danh, theo cùng một điều luật


nghiên cứu - trao đổi
52 - Tạp chí luật học

nh trờng hợp phạm tội hoàn thành nhng
không trong cùng một phạm vi chế tài quy
định cho tội phạm hoàn thành nh đ đợc
quy định trong BLHS năm 1985. Chế tài
đợc áp dụng để xác định TNHS cho chuẩn
bị phạm tội và phạm tội cha đạt tuy vẫn là
chế tài quy định cho tội phạm cố ý (ở giai
đoạn hoàn thành) nhng bị giới hạn thấp hơn
về hình phạt nặng nhất hoặc về mức cao nhất
của khung hình phạt nặng nhất
(3)
(mà vẫn giữ
nguyên mức thấp nhất của khung hình phạt).
Quy định trên đ xuất phát từ cơ sở lí
luận là chế tài quy định trong các điều luật
trong phần các tội phạm của BLHS là chế tài
dành cho các tội phạm hoàn thành. Vì vậy,
loại hình phạt nghiêm khắc nhất nh tù
chung thân hoặc tử hình trong trờng hợp
đợc quy định trong điều luật về tội phạm cụ
thể không thể áp dụng cho chuẩn bị phạm tội

tội phạm đó và chỉ có thể áp dụng cho phạm
tội cha đạt tội phạm đó trong trờng hợp
đặc biệt nghiêm trọng; mức cao nhất của
khung hình phạt tù quy định trong điều luật
cũng không thể áp dụng cho chuẩn bị phạm
tội và phạm tội cha đạt của tội phạm đợc
quy định trong điều luật.
(4)

Tuy nhiên, quy định trên cũng cha giải
quyết đợc triệt để vấn đề phân hoá giữa
TNHS của chuẩn bị phạm tội, phạm tội cha
đạt và tội phạm hoàn thành của một loại tội
hoặc của các tội phạm cố ý khác nhau.
(5)

Dựa vào quy định của Điều 52 BLHS
năm 1999 thì có thể hình thành ba khung
hình phạt khác nhau cho ba mức độ thực hiện
tội phạm khác nhau của một loại tội. Ba
khung hình phạt đó giống nhau về mức thấp
nhất và chỉ khác nhau về mức cao nhất. Cụ
thể, mức cao nhất của khung hình phạt tù quy
định cho chuẩn bị phạm tội không quá 1/2
mức cao nhất của khung hình phạt quy định
cho tội phạm hoàn thành, còn mức cao nhất
của khung hình phạt tù quy định cho phạm tội
cha đạt là không quá 3/4 mức cao nhất quy
định cho tội phạm hoàn thành.
(6)


Liên hệ với các quy định của BLHS năm
1999 cho thấy có nhiều bất hợp lí từ các
khung hình phạt đợc hình thành cho chuẩn
bị phạm tội và phạm tội cha đạt do áp dụng
quy định của Điều 52 nêu trên. Sau đây xin
nêu một số ví dụ điển hình.
Khoản 1 Điều 93 BLHS quy định chế tài
áp dụng cho hành vi giết ngời theo khoản 1
là hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù
chung thân hoặc tử hình; và theo quy định
của khoản 2 Điều 53 BLHS thì khung hình
phạt đợc hình thành để áp dụng cho chuẩn
bị giết ngời theo khoản 1 Điều 93 BLHS là
hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Đây
cũng là khung hình phạt thờng đợc áp
dụng để quyết định hình phạt cho các trờng
hợp giết ngời hoàn thành đợc quy định tại
khoản 1 Điều 93 BLHS. Đối với chuẩn bị
phạm tội tội phạm này áp dụng cùng khung
hình phạt trên với mức thấp nhất 12 năm tù
là quá nghiêm khắc vì so với hành vi phạm
tội hoàn thành tội phạm này thì chuẩn bị
phạm tội tội phạm này có mức độ nguy hiểm
cho x hội thấp hơn rất nhiều (nếu có các
tình tiết khác tơng đơng).
Một bất hợp lí khác liên quan đến quy
định về TNHS đối với chuẩn bị phạm tội rất
nghiêm trọng trong mối liên hệ với quy định
về các khung hình phạt kế tiếp nhau đợc thể

hiện phổ biến trong BLHS năm 1999. Tội
phạm rất nghiêm trọng theo quy định của
BLHS năm 1999 là tội phạm có mức cao
nhất của khung hình phạt tù là từ trên 7 năm
đến 15 năm. Do BLHS năm 1999 quy định


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 53

trong phần chế tài của các điều luật về tội
phạm cụ thể thờng là các khung hình phạt
kế nhau về mức hình phạt nên mức khởi
điểm của các khung hình phạt tù đối với tội
rất nghiêm trọng (có mức cao nhất của
khung hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm)
thờng là 7 năm tù hoặc 5 năm tù hoặc trong
một số ít trờng hợp là 3 năm tù. Nh vậy,
theo quy định của BLHS năm 1999 thì các
hành vi chuẩn bị phạm tội những tội phạm cố
ý sẽ rơi vào các tình trạng bị xử lí quá khác
nhau, nh hoặc không có TNHS hoặc có
TNHS và bị xử lí quá nghiêm khắc (thờng
là với mức thấp nhất của khung hình phạt tù
là 5 năm tù hoặc 7 năm tù). Hơn nữa, các
khung hình phạt tù đợc quy định có mức
thấp nhất là 7 năm thì thờng có mức cao
nhất là 15 năm tù mà theo quy định của
khoản 3 Điều 52 BLHS thì khung hình phạt
đợc hình thành áp dụng cho chuẩn bị phạm

tội là từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù. Ví dụ,
khung hình phạt tù áp dụng cho chuẩn bị
phạm tội giết ngời theo khoản 2 Điều 93 và
tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 1 Điều 112 là
từ 7 năm tù đến 7 năm 6 tháng tù. Đó không
thể đợc gọi là một khung hình phạt và quy
định này đ buộc toà án phải xử các trờng
hợp chuẩn bị phạm tội của các tội phạm này
gần nh giống nhau về mức độ TNHS cũng
nh không thể thực hiện đợc việc cá thể hoá
hình phạt.
4. Từ các phân tích trên cho thấy, để tạo
cơ sở pháp lí đầy đủ và triệt để cho sự phân
hoá TNHS đối với chuẩn bị phạm tội, phạm
tội cha đạt và tội phạm hoàn thành của loại
tội cố ý thì luật hình sự phải quy định cho
các loại hành vi này các khung hình phạt
khác nhau tơng ứng với sự khác nhau về
mức độ nguy hiểm của các hành vi đó. Cụ
thể, đối với một loại tội cố ý thì khung hình
phạt áp dụng cho phạm tội cha đạt phải nhẹ
hơn khung hình phạt áp dụng cho tội phạm
hoàn thành, khung hình phạt áp dụng cho
chuẩn bị phạm tội phải nhẹ hơn khung hình
phạt áp dụng cho phạm tội cha đạt. Các
khung hình phạt giảm nhẹ theo đúng nghĩa
phải đợc quy định áp dụng cho các trờng
hợp phạm tội cha hoàn thành. Khung hình
phạt giảm nhẹ phải là khung hình phạt đợc
giảm cả ở mức thấp nhất và ở mức cao nhất

của khung hình phạt chứ không phải chỉ
giảm ở mức cao nhất nh quy định hiện nay
của Điều 52 BLHS năm 1999. Điều 52 BLHS
năm 1999 cần phải đợc sửa đổi theo hớng
quy định bổ sung giảm mức thấp nhất của
khung hình phạt tù tơng ứng với tỉ lệ giảm
mức cao nhất của khung hình phạt tù đ đợc
quy định. Hơn nữa, Điều 52 cũng không nên
chỉ quy định giảm nhẹ khung hình phạt đối
với các hình phạt nặng nhất mà phải quy
định giảm nhẹ tất cả các khung hình phạt của
các loại hình phạt đợc quy định trong điều
luật về tội phạm cụ thể (cho trờng hợp hoàn
thành) để hình thành chế tài giảm nhẹ đối với
các trờng hợp phạm tội cha hoàn thành.
Tất nhiên, nếu quy định theo hớng này thì
mức thấp nhất của các khung hình phạt đợc
giảm không thể xuống dới mức thấp nhất
mà luật quy định cho loại hình phạt có
khung.
(7)

5. Kinh nghiệm quy định theo hớng này
có thể tìm thấy trong quy định của BLHS một
số nớc trên thế giới mà điển hình là BLHS
của CHLB Đức và của CHND Trung Hoa.
Theo quy định của Điều 23 BLHS của
CHLB Đức, trong các trờng hợp phạm tội
cha hoàn thành thì chỉ phạm tội cha đạt
của các trờng hợp sau mới phải chịu TNHS:



nghiên cứu - trao đổi
54 - Tạp chí luật học

Phạm tội cha đạt tội nghiêm trọng phải chịu
TNHS trong mọi trờng hợp, phạm tội cha
đạt tội ít nghiêm trọng phải chịu TNHS nếu
điều này đợc quy định tại điều luật về tội
phạm cụ thể.
(8)
Do phạm tội cha đạt đợc
coi nh tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nên mức
độ TNHS của phạm tội cha đạt đợc quy
định thấp hơn so với tội phạm hoàn thành.
Điều 49 BLHS quy định cụ thể mức độ giảm
nhẹ (cả mức cao nhất và mức thấp nhất) của
của khung hình phạt áp dụng cho phạm tội
cha đạt so với tội phạm hoàn thành. Theo
Điều 49 thì hình phạt đợc giảm nhẹ cho
phạm tội cha đạt cũng nh các trờng hợp
khác có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nh sau:
Hình phạt tù chung thân đợc thay thế bằng
hình phạt tù có thời hạn không dới 3 năm;
Đối với hình phạt tù có thời hạn thì mức cao
nhất chỉ bằng 3/4 mức cao nhất của của
khung hình phạt quy định. Số ngày lơng tối
đa ở hình phạt tiền cũng đợc tính tơng tự
nh vậy; Mức thấp nhất của khung hình phạt
tù là 10 năm hoặc 5 năm đợc giảm xuống còn

2 năm; Mức thấp nhất của khung hình phạt tù
là 1 năm đợc giảm xuống còn 3 tháng.
Khác với BLHS của CHLB Đức, BLHS
của CHND Trung Hoa không quy định cụ
thể về mức độ giảm nhẹ của hình phạt áp
dụng cho các trờng hợp phạm tội cha hoàn
thành nhng cũng đ có quy định thể hiện
chuẩn bị phạm tội bị xử lí nhẹ hơn phạm tội
cha đạt và phạm tội cha đạt bị xử lí nhẹ
hơn tội phạm hoàn thành, nh đ quy định
mức xử lí thấp nhất cho chuẩn bị phạm tội là
nhẹ nhất có thể tới miễn hình phạt và có thể
quyết định hình phạt cho chuẩn bị phạm tội
và phạm tội cha đạt dới mức thấp nhất của
khung hình phạt quy định cho tội phạm hoàn
thành. Cụ thể Điều 22 và Điều 23 BLHS quy
định: Đối với chuẩn bị phạm tội có thể quyết
định hình phạt nhẹ hơn so với tội phạm hoàn
thành hoặc quyết định một hình phạt nhẹ
hoặc miễn hình phạt; Đối với phạm tội cha
đạt có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn so
với tội phạm hoàn thành hoặc quyết định một
hình phạt nhẹ. Quyết định một hình phạt nhẹ
theo quy định của Điều 63 BLHS là quyết
định hình phạt nhẹ hơn mức tối thiểu của
khung hình phạt.
Nh vậy, BLHS của CHND Trung Hoa
cũng coi chuẩn bị phạm tội và phạm tội cha
đạt cũng là các trờng hợp phạm tội có tình
tiết giảm nhẹ nên cũng đợc xử lí giảm nhẹ

mức độ TNHS. ý nghĩa đích thực của mức
độ giảm nhẹ TNHS đối với chuẩn bị phạm
tội và phạm tội cha đạt thể hiện ở quy định
có thể xử nhẹ cho các trờng hợp này dới mức
thấp nhất của khung hình phạt quy định cho tội
phạm hoàn thành và riêng đối với chuẩn bị
phạm tội có thể đợc miễn hình phạt./.

(1), (2).Xem thêm: Luật hình sự Việt Nam Những
vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. CAND, Hà Nội
1997, tr. 47, 48.
(3), (4).Xem quy định của Điều 52 BLHS năm 1999.
(5).Xem thêm ý kiến bình luận về vấn đề này trong:
Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb. CAND, Hà
Nội 2001, tr. 97, 98.
(6). Cách quy định tơng tự cũng đợc thể hiện trong
một số quy định cụ thể về TNHS của ngời cha
thành niên phạm tội, nh trong Điều 72, 73 và 74
BLHS năm 1999.
(7). Hớng sửa đổi này, theo chúng tôi, cũng nên đặt
ra đối với các quy định về TNHS của ngời cha
thành niên phạm tội tại các Điều từ 72 đến 74 BLHS
năm 1999.
(8).Xem: Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb.
CAND, Hà Nội 2001, tr. 160.
Luật hình sự của CHLB Đức phân tội phạm thành
2 loại: Tội nghiêm trọng và tội ít nghiêm trọng. Tội
nghiêm trọng là tội có mức thấp nhất của khung hình
phạt là từ 1 năm tù trở lên, tội ít nghiêm trọng là tội có
mức thấp nhất của khung hình phạt là dới 1 năm tù

hoặc bị đe doạ phạt tiền.

×