Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận về quyền con người ở việt nam hiện nay thực trạng và giải pháp đảm bảo cho sự phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.87 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả
các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện
chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi
con người.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, nhiều nước trên thế giới và khu vực Đông
Nam Á đã phải chịu nhiều sức ép về vấn đề quyền con người, như Trung Quốc,
Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Mi-an-ma,... Nhưng bằng nhiều biện pháp,
những nước này đã dần vượt được qua các sức ép, khiến các nước thường chỉ trích
họ như Mỹ và EU cũng phải nhượng bộ, giảm bớt sức ép đối với họ. Kinh nghiệm
của họ là: từng bước tham gia các công ước quốc tế và khu vực cũng như những
diễn đàn quốc tế về quyền con người; sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, cam kết bảo vệ
và thúc đẩy quyền con người, đồng thời cải thiện trên thực tế tình trạng quyền con
người trong nước; vừa đối thoại, vừa đấu tranh với những sức ép từ bên ngồi;… là
điểm đến có lợi cho các đối tác khắp nơi trên thế giới.
Từ khi thực hiện đổi mới, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu trong phát
triển mọi mặt, từ chính trị tới kinh tế, xã hội, văn hóa. Đặc biệt, từ sau Đại hội VIII
của Đảng (năm 1996), thực hiện chủ trương “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”,
nước ta càng có những bước tiến nhanh trong việc cải thiện quyền con người.
Với chủ trương đổi mới đúng đắn, nhất là trong phát triển kinh tế, giải quyết
các vấn đề xã hội, đất nước đã có bước tiến đáng kể trong cải thiện điều kiện, mức
sống của người dân. Bằng nội lực và sự giúp đỡ, cộng tác với Liên hợp quốc, các
tổ chức phi chính phủ trên thế giới, Việt Nam đã có bước tiến nhanh chóng trong
xóa đói, giảm nghèo, trở thành nước điển hình thành cơng, được thế giới thừa
nhận. Sau 20 năm, tỷ lệ người nghèo đã giảm từ trên 60% xuống cịn dưới 10%;
nâng mức thu nhập bình qn lên khoảng 1.540 USD/người vào năm 2012 và bước
vào ngưỡng các nước thu nhập trung bình. Vấn đề an sinh xã hội, bảo đảm chăm


sóc sức khỏe, giáo dục,... được cải thiện đáng kể.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, cũng như trước thực tiễn về quyền con


người ở Việt Nam hiện nay, em mạnh dạn chọn đề tài: “Quyền con người ở Việt
Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp đảm bảo cho sự phát triển” làm bài thu
hoạch môn Lý luận và pháp luật về Quyền con người.


NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về Quyền con người
1.1. Khái niệm, nguồn gốc và tính chất của quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều
định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có
đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố,Ị mỗi định nghĩa tiếp
cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng
khơng định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào
sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định
nghĩa của Văn phịng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (Office of High
Commissioner for Human Rights - OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà
nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyen con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cau (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chơng lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại
đêh nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản
(fundamentalfreedoms) cứa con người.
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích
dẫn, theo đó, quỳên con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả
thành viên của cộng đơng nhân loại, khơng phân biệt giới tính, chủng tộc, tơn
giáo, địa vị xã hội...; đêu có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chi vì họ là con người.
Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng khơng hồn

tồn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong


pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được
xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ.
Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp
dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi
thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều
kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho
dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con
người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và
trong mọi giai đoạn lịch sử. Trong một cuộc khảo sát gần đây do CNN - một trong
các cơ quan truyền thông nổi tiếng nhất thế giới - tiến hành, quyền con người được
xem là một trong mười phát minh làm thay đổi thế giới (cùng với nông nghiệp,
phân tâm học, thuyết tương đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, mạng thơng tin tồn cầu
(world wide web), xà phịng, số khơng, và lực hấp dẫn).
1.1.2. Nguồn gốc của quyền con người
Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai
quan điểm trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên
(natural rightsll2) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi
cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình
nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào phong tục, tập quán,
truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng
đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, khơng một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể
ban phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Ngược lại, học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các
quyền con người khơng phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà
phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật

hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp


lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con
người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội. Ở đây, trong khi các quyền tự nhiên
có tính đồng nhất trong mọi hồn cảnh (universal), mọi thời điểm, thì các quyền
pháp lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa và chính trị (culturally
and politically relative).
Cho đến nay, cuộc tranh luận về nguồn gốc của quyền con người vẫn còn
tiếp tục. Nhân loại vẫn đang bị chia rẽ bởi vấn đề này, tuy nhiên, việc phân định
tính chất đúng, sai, hợp lý và không hợp lý của hai học thuyết kể trên là không đơn
giản do chúng liên quan đến một phạm vi rộng lớn các vấn đề triết học, chính trị,
xã hội, đạo đức, pháp lý... Mặc dù vậy, dường như quan điểm cực đoan phủ nhận
hoàn toàn bất cứ học thuyết nào trong hai học thuyết kể trên đều khơng phù hợp,
bởi lẽ trong khi về hình thức, hầu hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều
thể hiện các quyền con người là các quỳên pháp lý, thì trong Tun ngơn tồn thế
giới về quyền con người năm 1948 và một số văn kiện pháp luật ở một số quốc gia,
quyền con người được khẳng định một cách rõ ràng là các quyền tự nhiên, vốn có
và khơng thể tước bỏ được của mọi cá nhân. Cụ thể, ở góc độ quốc tế, Tun ngơn
tồn thế giới về quyền con người (đoạn 1, Lời nói đâu) nêu rằng:... thừa nhận
phẩm giá võn có và các quyen bình đẳng và khơng thể tách rời của mọi thành viên
trong gia đình nhân loại. Ở góc độ quốc gia, Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ (1776) nêu rằng: ...mọi người sinh ra đêu có quyen bình đẳng. Tạo
hóa ban cho họ những quỳên khơng ai có thê’xâm phạm được, trong đó có quỳên
sõng, quyen tự do và quy en mưu câu hạnh phúc... Những tuyên bố này về sau
được tái khẳng định trong bản Tuyên ngôn Dân quyền và Quyền con người 1789
của nước Pháp và bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 của Việt Nam.
1.1.3. Tính chất của quyền con người



Tính phổ biến (universal)
Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì
bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành
viên trong gia đình nhân loại, khơng có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì,
chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tơn giáo, độ tuổi, thành phần xuất
thân...
Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về quyền
con người khơng có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền, mà là bình
đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Ở đây, mọi thành viên của nhân loại
đều có được cơng nhận có các quyền con người, song mức độ hưởng thụ các quyền
phụ thuộc vào năng lực của cá nhân từng người, cũng như vào hoàn cảnh chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hố... mà người đó đang sống.
Tính khơng thể tước bỏ (inalienable)
Tính khơng thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con người
không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả
các cơ quan và quan chức nhà nước. Ở đây, khía cạnh “tuỳ tiện” nói đến giới hạn
của vấn đề. Nó cho thấy khơng phải lúc nào nhân quyền cũng “không thể bị tước
bỏ”. Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội
ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền sống.
Tính khơng thể phân chia (indivisible)
Tính khơng thể phân chia của nhân quyền bắt nguồn từ nhận thức rằng các
quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về ngun tắc khơng có
quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất
kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát
triển của con người.
Tuy nhiên, tính chất không thể phân chia không hàm ý rằng mọi quyền con
người đều cần phải được chú ý quan tâm với mức độ giống hệt nhau trong mọi



hoàn cảnh. Trong từng bối cảnh cụ thể, cần và có thể ưu tiên thực hiện một số
quyền nhất định, miên là phải dựa trên những yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các
quyền đó chứ khơng phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các quyền đó. Ví dụ,
trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị bệnh tật, quyền được ưu
tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế; cịn trong bối cảnh nạn đói, quyền
được ưu tiên phải là quyền về lương thực, thực phẩm. Ở góc độ rộng hơn, trong
một số hoàn cảnh, cân ưu tiên thực hiện quyền của một số nhóm xã hội dê bị tổn
thương trong khi vẫn tơn trọng quyền của tất cả các nhóm khác. Điều này khơng có
nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn các quyền khác,
mà là bởi các quyền đó trong thực tế đang bị đe doạ hoặc bị vi phạm nhiều hơn so
với các quyền khác.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent)
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc bảo
đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ
thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây
ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc
bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm
các quyền khác.
Thực tế cho thấy, để bảo đảm các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền chính trị
cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác có
liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền có mức sống
thích đáng... vì nếu khơng, các quyền bầu cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những
người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ. Tương tự, việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã
hội, văn hoá đều gắn liền với sự phát triển của các quyền dân sự, chính trị, bởi kết
quả của việc bảo đảm các quỳên dân sự, chính trị chính là sự ổn định, lành mạnh
và hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội - yếu tố nền tảng để thúc đẩy
các điều kiện sống về kinh tế, xã hội, văn hoá của mọi người dân.


1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người

Xuất phát từ thực tiễn và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tiếp thu
và kế thừa những nội dung hợp lý của tư tưởng tiến bộ về nhân quyền, tư tưởng
của Hồ Chí Minh khơng hề xa lạ và không đoạn tuyệt với những thành tựu văn
minh tiến bộ của nhân loại, nhưng có sự vận dụng, phát triển sáng tạo của các tư
tưởng đó. Người đã đưa ra những luận điểm mới mẻ, sâu sắc và toàn diện về quyền
con người, đây là đặc điểm quan trọng và nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về quyền con người. Điều đó, được thể hiện trong các nội dung sau:
Một là, trong tư tưởng về nhân quyền ở nhiều nước phương Tây nêu ra, chủ
yếu và cốt lõi của nó là địi quyền tự do cho mỗi cá nhân. Điều này đã được thể
hiện rõ trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Người trực tiếp soạn thảo và
công bố ngày 02-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Hồ Chí Minh khẳng định, một
chân lý lớn của thời đại mới trong thế kỷ XX đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Đây là sự phát triển mới của Hồ Chí Minh và chính Người thừa
nhận, suy rộng ra từ câu mở đầu bất hủ của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776:
“Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có
thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do
và quyền được mưu cầu hạnh phúc”. Từ sự khẳng định: “Tất cả mọi người đều
sinh ra bình đẳng… có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu
cầu hạnh phúc” , để đi đến khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Như vậy, từ những quyền cơ bản của con người được mở rộng thành quyền dân
tộc, quyền con người trừu tượng thành quyền của người dân được sống trong độc
lập, tự do, từ quyền dân tộc độc lập, được phát triển thành quyền độc lập của các


dân tộc. Dựa trên cơ sở pháp lý về quyền “tự nhiên” đến chỗ khẳng định quyền đấu
tranh “chống áp bức” của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Hai là, Đó chính là quyền học tập, sáng tạo, quyền mưu cầu hạnh phúc,

quyền tự do, quyền dân sự, quyền về chính trị, kinh tế - văn hóa xã hội, cũng như
quyền của các nhóm người đặc biệt trong xã hội như: quyền các dân tộc thiểu số,
quyền phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của nhóm người có hồn cảnh đặc biệt,
khó khăn cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để họ hòa nhập với cộng
đồng xã hội… Như vậy, có thể thấy nội dung quyền con người trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh được phát triển rất phong phú cả về bề rộng và chiều sâu, tạo ra một
hệ thống về quyền con người theo quan điểm khoa học và cách mạng.
Ba là, cũng như các nội dung khác trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người triệt
để thực hiện giữa nói và làm, trở thành một nguyên tắc trong hành động của Hồ
Chí Minh. Và chính Người đã nêu một tấm gương mẫu mực trong việc thực hiện
triệt để nhất những tư tưởng đó còn hơn rất nhiều lần so với những điều Người nói
và viết. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, giữa lý luận và thực tiễn, giữa
động cơ và hiệu quả đã trở thành đặc trưng nổi bật của Hồ Chí Minh so các nhà tư
tưởng, các lãnh tụ khác. Người là tấm gương sáng, một pho sách trọn vẹn về nhân
quyền và cuộc đấu tranh cho quyền con người. Người nói : “Tơi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai
cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cả
đời tơi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của
quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha
sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến vấn đề con người và giải phóng con người, coi đó là mục đích cao nhất cần đạt
tới trong mọi hoạt động cách mạng của mình. Người là một nhân vật hiếm có trong
lịch sử nhân loại, một lãnh tụ lấy mong muốn của dân tộc làm ham muốn của
mình, lấy nỗi lo của nhân dân làm động cơ, mục đích hoạt động thực tiễn.


Trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã dồn hết tâm lực, trí tuệ để lãnh đạo nhân dân
giành độc lập cho dân tộc, giành quyền làm chủ của con người, xây dựng, phát
triển đất nước mang lại hạnh phúc và quyền làm người cho nhân dân, làm cho Việt
Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu..

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban
Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của nước ta là: “1.
Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho
dân có học hành”. Người luôn tâm niệm, Nhà nước được độc lập mà dân khơng
được hưởng tự do, dân vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì.
Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân
là chủ” với quan niệm trên, trong chế độ mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là
đem lại quyền làm chủ thực sự cho người dân, phải trao lại cho dân mọi quyền
hành. Dân là chủ, nghĩa là trong xã hội nhân dân là người chủ của nước, nước là
nước của nhân dân. Các cơ quan Đảng và Nhà nước là tổ chức được dân ủy thác
làm công bộc phục vụ cho nhân dân. Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục
vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên là đầy tớ của dân. Đầy tớ là cơng bộc của dân, vì
lợi ích chung mà gánh vác việc dân, phải trung thành và tận tâm, tận lực phục vụ
nhân dân. Họ phải như những người lính vâng mệnh quốc dân mà thi hành nhiệm
vụ, thay mặt dân để ra quyết định, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ đất nước phục vụ
nhân dân. Người nhấn mạnh: Đảng khơng có mục tiêu nào khác là đem lại lợi ích
cho dân.
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về Quyền con người
Một là, nhân dân là chủ thể của quyền; bảo đảm quyền con người là mục
tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược


phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền
và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Điều 2, Hiến
pháp năm 2013 quy định “Nhà nước pháp quyền XHCN, của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân”(2); nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Như vậy, nhân dân là chủ thể của quyền và việc bảo đảm quyền

con người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù; được thể
hiện ở tính nhân loại gắn với tính giai cấp và tính dân tộc
Q trình hình thành, phát triển quyền con người có tính phổ biến tồn nhân
loại, chứ không phải là “phát hiện” đặc thù của riêng phương Tây. “Quyền con
người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao
động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh
của lồi người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị
chung của nhân loại”.
Ba là, bảo đảm quyền con người theo phương châm thực hiện các giá trị
nhân quyền phổ quát trên cơ sở chủ quyền quốc gia
Quyền của các quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị, lựa
chọn con đường phát triển và chủ quyền quốc gia là những quyền phổ biến được
thừa nhận trong pháp luật quốc tế. Việc thực hiện các giá trị phổ quát của quyền
con người cơ bản diễn ra trong q trình chuyển hóa hay “nội luật hóa” pháp luật
quốc tế trong pháp luật quốc gia. Ở nước ta, các giá trị phổ quát của quyền con
người đã được thể chế hóa trong Hiến pháp.
Việc bảo đảm quyền con người theo phương châm trên giúp mỗi cá nhân
được bảo đảm các quyền dân chủ, tự do cơ bản. Bảo đảm quyền và nghĩa vụ cá
nhân không được tách rời bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cộng đồng. Bảo đảm
quyền con người phải trên cơ sở chủ quyền quốc gia, trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật nhân quyền quốc tế, như quyền bình đẳng và tự quyết của các


dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác,... để loại trừ mọi
mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” trên con đường phát triển đất nước.
Bốn là, quyền con người không đồng nhất với quyền công dân, gồm cả
quyền tập thể và quyền cá nhân; quyền gắn liền với nghĩa vụ, giới hạn quyền do
luật định, trên cơ sở xác định rõ chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm

quyền
Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thừa nhận quyền con người
là thuật ngữ độc lập so với thuật ngữ quyền công dân. Dựa trên luận điểm “sửa
sang thế đạo kinh dinh nhân quyền” của Nguyễn Ái Quốc, Nghị quyết Đại hội
Quốc dân Tân Trào (16-8-1945) đã xác định phải: “Ban bố những quyền của dân,
cho dân: Nhân quyền, tài quyền (quyền sở hữu), dân quyền; quyền phổ thông đầu
phiếu, quyền tự do dân chủ...”.
Các Cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Hiến pháp năm 1992, 2013,
các Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội luôn nhất quán phân định rõ quyền con
người, quyền công dân.
Hiến pháp năm 2013 quy định về hạn chế quyền nhằm bảo đảm thực hiện
quyền con người, quyền công dân một cách minh bạch, tránh sự cắt xén hay hạn
chế các quyền này một cách tùy tiện. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 chế định: “1.
Mọi người có nghĩa vụ tơn trọng quyền của người khác; 2. Không được lợi dụng
quyền con người, quyền cơng dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.
Năm là, quyền con người gắn với các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và
văn hóa
Theo C.Mác (1818 - 1883) quyền “khơng bao giờ có thể ở mức cao hơn chế
độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”. Do đó, khơng
thể thúc đẩy nhân quyền bằng mọi giá, mà phải phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa và con người. Chỉ như vậy mới không làm tổn hại đến bản
thân các quyền con người. Đây là tư tưởng chỉ đạo quan trọng trong giải quyết các
vấn đề về quyền con người, nhằm tránh tình trạng chủ quan, duy ý chí trong xây


dựng pháp luật, cũng như tình trạng lạc hậu của pháp luật so với điều kiện phát
triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
Sáu là, bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền, có ưu tiên quyền của các
nhóm yếu thế, thiểu số và quyền phát triển

Tất cả các quyền đều gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau và khơng thể phân chia;
mọi chủ thể của quyền (cá nhân, nhóm xã hội, giới tính, dân tộc, chủng tộc) đều có
quyền ngang nhau trong việc thụ hưởng, phát triển quyền. Vì thế, về nguyên tắc,
phải bảo đảm quyền ngang nhau của mọi quyền; và bảo đảm quyền ngang nhau
của tất cả các chủ thể quyền. Những yếu tố bình đẳng trong việc bảo đảm quyền
con người từng bước được kết hợp, thẩm thấu vào việc bảo đảm các quyền dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của các chủ thể quyền khác nhau trong xã hội.
Bảy là, quyền con người được bảo đảm bằng chế độ dân chủ và Nhà nước
pháp quyền XHCN
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định: “Nhà nước tôn trọng và
bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển
tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy
định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các
hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”.
II. Thực trạng và giải pháp để đảm bảo cho sự phát triển về Quyền con
người ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Những thành tựu nỗi bật trong việc bảo đảm thực hiện Quyền con
người
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng chính thức tuyên
bố đường lối đổi mới, với nội dung cơ bản là chuyển nền kinh tế từ mơ hình kinh tế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN;


dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân; mở cửa tăng cường giao lưu hợp tác với bên ngoài trên tinh thần
Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước, phấn đấu vì hịa bình, hợp tác và phát
triển.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con

người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi mới
kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ
nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua.
Về mặt nhận thức, cùng với việc coi trọng vị thế và vai trò của con người,
vấn đề quyền con người cũng được coi trọng và đánh giá tương ứng. Hiến pháp
năm 1992 (Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con người và khẳng
định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công
dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Cùng với khái niệm quyền con
người, các khái niệm có liên quan khác như quyền bình đẳng của phụ nữ, quyền trẻ
em… cũng được chính thức đề cập trong các văn kiện của Đảng và các văn bản
pháp luật, pháp quy của Nhà nước. Điều đó cũng đã tạo nên sự chuyển biến về
nhận thức: từ sự đồng nhất một cách ấu trĩ khái niệm quyền con người, như là sản
phẩm của chủ nghĩa cá nhân hoặc như là một thứ công cụ chính trị, mà các thế lực
tư bản chủ nghĩa ở phương Tây sử dụng để chống phá các nước XHCN đến cách
nhìn nhận khách quan hơn, coi nhân quyền là sản phẩm chung, là sự kết tinh của
nền văn minh nhân loại; tuy mang tính phức tạp và nhạy cảm, nhưng vẫn là một
yếu tố không thể bỏ qua trong đời sống chính trị hiện đại.
Xét riêng trên lĩnh vực lập pháp, chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2002, Nhà
nước đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 Bộ Luật
và Luật, trên 120 Pháp lệnh, gần 850 văn bản pháp luật của Chính phủ và trên
3.000 văn bản pháp quy của các bộ, ngành, trong đó đã “nội luật hóa” một cách


tồn diện những cơng ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn
hoặc gia nhập từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX và trong thời kỳ này. Đây là
điều mà trong giai đoạn trước hầu như chúng ta chưa làm được.
2.2. Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong quá trình đổi mới
ở Việt Nam
So với các Hiến pháp năm 1959 và 1980, Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện

một bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người, với việc
khẳng định khái niệm và sự tôn trọng các quyền con người (Điều 50) cũng như bổ
sung một loạt các quyền và tự do mới trên tất cả các lĩnh vực. Xét trên lĩnh vực dân
sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền quan trọng được ban hành mới
hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản (bao gồm cả tư liệu sản xuất);
quyền tự do kinh doanh; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo luật
định; quyền được thơng tin theo luật định; quyền bình đẳng của các tơn giáo;
quyền khơng bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Ngồi ra, Hiến pháp năm 1992 còn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi
chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và mở rộng việc bảo vệ,
giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị của công dân, bên cạnh
Hiến pháp năm 1992, chỉ tính trong giai đoạn 1996 -2001, Quốc hội đã thơng qua
40 đạo luật, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thơng qua 40 Pháp lệnh có liên quan
đến vấn đề này, tiêu biểu là Bộ Luật Hình sự; Bộ Luật Tố tụng hình sự; Bộ Luật
Dân sự; Luật Hơn nhân và Gia đình; Luật Quốc tịch Việt Nam; Luật Khiếu nại, tố
cáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí; Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Pháp
lệnh Xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam. Gần đây


nhất, ngày 27/5/2004, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Tố tụng dân sự đầu tiên ở
Việt Nam, bổ sung một công cụ pháp lý quan trọng để bảo đảm các quyền dân sự.
Nội dung đảm bảo quyền dân sự - chính trị ở nước ta được thể hiện một cách
cụ thể:
Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của cơng dân: Bình đẳng trong
bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt là bình đẳng trong hoạt động sản
xuất - kinh doanh; bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục, khoa học - công

nghệ như quyền được học tập của công dân, quyền nghiên cứu, sáng tạo, chuyển
giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu của mọi công dân.
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn ngừa những
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người
(trong đó kể cả những bị can, bị cáo và những phạm nhân đang thi hành án phạt tù)

Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tự do ngơn luận, quyền
tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo…
2.3. Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân
trong giai đoạn mới, từ năm 1986 đến nay, bên cạnh Hiến pháp năm 1992, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong đó có thể kể như Bộ
Luật Dân sự (1995), Bộ Luật Lao động (1994), Luật Giáo dục (1998), Luật Bảo vệ,
Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991), Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), Pháp
lệnh về người tàn tật (1998)…
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được cụ thể trong các
quyền tiêu biểu nhất:
Bảo đảm quyền làm việc: ở nước ta, quyền làm việc được ghi nhận trong các
bản Hiến pháp và được Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động là quyền và


nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc
làm cho người lao động” (Điều 55).
Bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục: Ngay từ khi mới giành được độc
lập, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến quyền được tiếp cận với giáo dục của
nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do Đảng
đề ra năm 1991 xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này được thể
chế hóa trong Điều 35 Hiến pháp năm 1992: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu”. Đây là cơ sở tư tưởng cho việc hiện thực hóa quyền được tiếp cận với
giáo dục của nhân dân trong thời kỳ mới.

Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế: Từ khi đổi mới đến nay, cũng giống
như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về hướng tiếp cận việc bảo
đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hồn tồn của Nhà nước sang
hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ y tế,
thực hiện chế độ BHYT, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe.
Sự chuyển đổi này khơng có nghĩa là Nhà nước giảm bớt sự quan tâm đến việc bảo
đảm quyền được chăm sóc y tế của nhân dân, mà ngược lại, Nhà nước vẫn thừa
nhận và nỗ lực bảo đảm quyền này, nhưng theo một cách thức phù hợp và hiệu quả
hơn.
Quyền được bảo đảm xã hội: Từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ trương
đổi mới chính sách bảo đảm xã hội theo hướng mọi người lao động và doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, tách quỹ
BHXH với công nhân, viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương ra
khỏi ngân sách theo hướng xã hội hóa cơng tác BHXH. Điều 56 Hiến pháp 1992
quy định: “Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ
ngơi và chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn
lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”.
Ban hành Luật BHXH (2006), hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 đối với BHXH


bắt buộc, từ ngày 1/1/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ ngày 1/1/2009 đối với
bảo hiểm thất nghiệp.
Nhờ đổi mới hướng tiếp cận trong chính sách, pháp luật về công tác BHXH,
việc thực hiện quyền được BHXH ở nước ta từ khi đổi mới đã đạt được những
thành tựu rất đáng khích lệ: Số lượng đối tượng tham gia và được hưởng BHXH
ngày càng được mở rộng, quyền được BHXH có sự phát triển về chất; mức trợ cấp
bình quân cho các đối tượng BHXH nói chung và mức tiền lương hưu bình qn
nói riêng liên tục tăng.
Thành cơng nổi bật nhất trong việc thực hiện quyền được bảo đảm xã hội ở
nước ta từ khi đổi mới đến nay là việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo

-một chủ trường và quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế,
xã hội. Xuất phát từ quan điểm: Vấn đề nghèo khó khơng được giải quyết thì
khơng có một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế, cũng như quốc gia đặt ra như
tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hịa bình, ổn định, bảo đảm các quyền con
người được thực hiện, Nhà nước ta đã coi Chương trình xóa đói giảm nghèo là một
trong bảy chương trình mục tiêu quốc gia và đã có những ưu tiên đặc biệt về nguồn
nhân lực, vật lực cho chương trình này.
2.4. Các giải pháp bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục
tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng rất cơ
bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng;
đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia
tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân
phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện
nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con người cần phải áp dụng một hệ
thống đồng bộ các nhóm giải pháp.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo
vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và
trong các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X
đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định quyền con người, quyền
công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng
các luật về quyền công dân.’ nước ta, tồn tại một nguyên tắc Hiến định: các quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp và
Luật. Như thế, các quyền được quy định trong Hiến pháp tạo thành hệ thống các
quyền và nghĩa vụ cơ bản có tính nguyên tắc nền tảng. Các quyền được quy định
trong luật, một mặt, là cụ thể hóa các quyền trong Hiến pháp, mặt khác, phát triển
và bổ sung thêm những quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp

luật bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân địi hỏi tăng cường hoạt động lập
pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm
các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa;
quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em, quyền
phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu
và tổng kết tồn diện và sâu sắc hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so
sánh đối chiếu với các quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham
gia.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo
đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra trong thời
gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính trị cần được chế định
thêm, cụ thể và rõ ràng hơn trong Hiến pháp; tiến tới mỗi quyền trong Hiến pháp
cần được quy định trong một đạo luật cụ thể, chẳng hạn như quyền được thơng tin
(cần có Luật về thơng tin); quyền tự do lập hội, hội họp (cần phải sửa đổi luật hiện
hành); các quyền tham gia công việc nhà nước như quy định về trưng cầu dân ý


(cần có Luật trưng cầu dân ý); các quy định về dân chủ ở cơ sở (cần nâng cấp Quy
chế dân chủ ở cơ sở lên thành Luật về dân chủ ở cơ sở…).
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và
tổng kết thực tiễn; trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải được quy
định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền khác. Theo đó, cần
hồn thiện pháp luật cụ thể hóa Điều 58 Hiến pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc để cá nhân, cơng dân tự kiểm sốt, bảo vệ tài sản của mình và Nhà nước
thơng qua cơng cụ pháp lý và bộ máy chun chính có trách nhiệm bảo vệ tài sản
của cá nhân, công dân. Chỉ khi quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới
an tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã
hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói

chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ,
công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải được coi là đối
tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hồn thiện pháp luật bảo
vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Khơng được có bất kỳ sự phân biệt đối xử
nào trong các quy định của pháp luật; quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên
thực tế. Đồng thời, từ chủ nghĩa nhân văn, “uống nước nhớ nguồn”, sớm hoàn
thiện nâng lên thành luật định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách mạng và người
có công với đất nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh xã hội và những
tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, cơng chức nhà nước và hồn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà
nước
Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong
mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ
trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực
cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức


nhà nước trong q trình thực thi cơng vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm
quyền của cơng dân. Theo đó, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân,
công dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công,
mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định cụ thể các quyền của
công dân theo hướng cơng dân có quyền được làm tất cả những gì luật pháp khơng
cấm, cịn cán bộ, cơng chức nhà nước chỉ được phép làm những gì mà luật pháp
quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng, bảo đảm thực
hiện quyền con người; và công dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát sinh từ
việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và cơng dân bảo đảm tính ràng
buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức là
phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong điều kiện nước ta

hiện nay, đòi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục
vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và tạo
điều kiện để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào cơng việc nhà nước, cơng
việc xã hội, trong đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của
Nhà nước, hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Kiểm tra và giám sát hoạt
động của Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước – những người phục vụ nhân
dân, đòi hỏi Nhà nước phải báo cáo hoạt động trước nhân dân, bảo đảm quyền của
công dân được cung cấp thông tin một cách chân thực và chính xác từ phía cơ quan
cơng quyền. Những người trực tiếp do nhân dân bầu ra, phải thường xuyên tiếp xúc
với nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức nhà nước,
tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là tổ, khu dân phố nơi cán
bộ, vợ con của cán bộ, cơng chức sinh sống và làm việc.
Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu
nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững


Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN tự
bản thân đã địi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Điều đó cho thấy,
bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, địi
hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện cơng bằng xã hội và dần dần giảm
sự phân cách giàu nghèo là rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người giàu với
số lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng giảm. Để thực hiện
được điều đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước với vai trị điều tiết vĩ mơ,
quản lý nền kinh tế, dùng công cụ, sức mạnh thông qua chính sách thuế, thực hiện
việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến
các đối tượng hưởng chính sách xã hội, đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến
lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu, vùng xa dần tiến kịp với các
thành phố, đô thị…

Kinh nghiệm chỉ ra rằng, những bất ổn về chính trị, sự phân hóa và ly khai
có những nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng đều bắt nguồn từ sự phân bổ khơng
cơng bằng về lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần và sự phân cách giàu nghèo quá lớn
trong xã hội. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên, cần thực hiện tốt chiến lược xóa
đói, giảm nghèo. Trong đó, việc đào tạo nghề, cho vay vốn, ưu tiên trong giáo dục,
đào tạo, trong đầu tư… đối với đối tượng nghèo, gia đình khó khăn, gia đình thuộc
diện chính sách, con em nông dân và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân
tộc thiểu số phải là bước đi đầu tiên trong hoạch định chính sách cả ở tầm vĩ mô và
vi mô. Và phát triển đồng đều phải trở thành một nguyên tắc trong hoạch định
chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, đó là trong q trình
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, cải tạo phạm nhân,
bảo đảm rằng mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm
minh, và suốt q trình tiến hành tố tụng khơng được làm oan người vô tội. Người


phạm tội phải bị đưa ra xét xử, chịu hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội.
Những mục đích của hình phạt lại khơng phải chỉ là trừng trị mà giáo dục, cải tạo,
răn đe và phòng ngừa tội phạm là mục đích ưu tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu rất cơ
bản để bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ
tư pháp tận tâm, có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có khả năng hồn thành
nhiệm vụ; đồng thời hoàn thiện kể cả về tổ chức với một cơ chế giám sát, chỉ đạo
điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà nước, đồn thể, nhân dân là rất cần
thiết.
Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp. Bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương lớn ở tầm vĩ
mô; về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác cán bộ…

Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với
cơ quan tư pháp.
Tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã
hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh vực đấu tranh phát
giác tội phạm và tham gia hoạt động xét xử (cơ chế hội thẩm).
Cuối cùng, nhưng chiếm vị trí quan trọng là nâng cao vị trí, vai trò của luật
sư trong hoạt động tư pháp. Luật sư phải là người đại diện thực sự cho thân chủ. Sự
tham gia của luật sư là để giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong q
trình tiến hành tố tụng, nhanh chóng làm sáng tỏ bản chất thật sự của vụ án, tránh
và giảm thiểu đến mức thấp nhất oan sai, không vô tư, khách quan trong hoạt động
tố tụng.


KẾT LUẬN
Quyền con người bao hàm nhiều nội dung rộng lớn và phức tạp, liên quan
đến nhiều vấn đề nhạy cảm, như dân chủ, dân tộc, tôn giáo,... Hiện nay, cùng với
sự phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí cũng được nâng cao, đặt ra yêu cầu


cao hơn đối với việc bảo đảm các tiêu chuẩn nhân quyền đã được pháp luật quốc tế
công nhận. Mặt khác, sự phân hóa - phân tầng xã hội khơng chỉ bị tác động bởi sự
phân hóa giàu nghèo, mà còn bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng về văn hóa vùng miền,
văn hóa tộc người và hội nhập quốc tế; dẫn đến sự đa dạng hóa các nhu cầu về
quyền con người giữa các giai tầng xã hội. Bên cạnh những quyền căn bản (quyền
sống, quyền có việc làm, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe,...) xuất hiện các quyền mới,
như: quyền về môi trường trong lành, quyền riêng tư cá nhân, quyền được bí mật
thơng tin, quyền của giới tính “thứ ba”, quyền của cơng dân nước ngồi định cư tại
Việt Nam và Việt kiều, quyền sở hữu đất và bất động sản, quyền có việc làm và
nghề nghiệp, quyền của người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, quyền của các nhóm
yếu thế và thiểu số, v.v..

Thực tế đó địi hỏi phải có nhận thức sâu sắc hơn, sát thực tiễn hơn về nhân
quyền, nhằm thúc đẩy bảo đảm quyền con người phù hợp với thực tế Việt Nam.


×