Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Thực trạng mã nguồn mở tại việt nam 10 năm lại đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.49 KB, 9 trang )

Thực trạng mã nguồn mở tại việt nam 10
năm lại đây
I. Thực trạng mã nguồn mở tại việt nam 10 năm lại đây
1. Tóm tắt q trình phát triển
- Linux vào Việt Nam đầu những năm 90
- Phong trào PMNM bắt đầu xuất hiện bằng sự hình thành các nhóm
nghiên cứu Linux, ngồi ra cịn được ứng dụng tại các trung tâm đào tạo.
Viện tin học Pháp ngữ, Đại học quốc gia HCM, ĐH Bách Khoa, ĐH Cần
Thơ, ĐH Huế
- 2 sản phẩm quan trọng: Hệ điều hành Linux, các ứng dụng Tin học văn
phịng được việt hóa bởi Việt Khang (Vietkey Linux), CMC… Ngồi ra
cịn có các sản phẩm nhúng trên các thiết bị cầm tay này.
- Đối với các thiết bị cầm tay, nhúng: CDiT (Tổng công ty bưu chính Viễn
Thơng), Vietkey group, Cadpro
- Ứng dụng trên Web: Nhất Vinh - phần mềm thiết kế & quản lý web
- Máy tính hiệu năng cao: ĐHBK mơ phỏng luyện kim, Viện tốn học - các
sản phẩm mơ phỏng dự báo thời tiết, cơng ty AIC bộ quốc phịng cho các
nhiệm vụ huấn luyện đào tạo sử dụng trang thiết bị quốc phòng
- Hợp tác Quốc tế: IBM, Sun, UNDP, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản
- Tổ chức ngày dữ liệu mở (OpenData Day) quốc tế lần đầu tiên tại Việt
Nam dưới sự hỗ trợ của Open Knowledge Foundation và trường đại học
Thăng Long, CLB PMTDNM Việt Nam (VFOSSA) năm 2016
- Làm chủ công nghệ mạng 5G và trở thành một trong 6 nhà mạng đầu tiên
trên thế giới thiết kế, sản xuất được thiết bị mạng này năm 2021
- Trong đại dịch Covid-19, nhiều ứng dụng số Việt Nam, trong đó có
Bluezone, CoMeet… đã được mở mã nguồn hoặc phát triển nhanh trên
nền nguồn mở, góp phần chống dịch và đưa cuộc sống về trạng thái bình
thường mới.
2. Thách thức
-Ý thức về bản quyền phần mềm thấp ( dùng phần mềm khơng hợp pháp
là chuyện bình thường)


-Phụ thuộc vào một môi trường (quen dùng Microsoft)
-Thiếu hiểu biết pháp lý về Phần mềm mã nguồn mở (chưa có đội ngũ có
kinh nghiệm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ)


- Luẩn quẩn bài toán con gà hay quả trứng có trước: muốn ứng dụng phần
mềm nguồn mở vào trong các cơ quan nhà nước thì địi hỏi phải có số lượng
phần mềm nguồn mở phong phú & nguồn nhân lực về phần mềm nguồn mở tốt.
Nhưng nhìn ở góc độ doanh nghiệp, muốn có nhiều phần mềm nguồn mở ngon
thì doanh nghiệp phải thấy cơ hội và thị trường rộng mở, thị trường nguồn nhân
lực cũng đòi hỏi tương tự. Chính phủ và các cơ quan quản lý địi hỏi ở cộng
đồng phần mềm nguồn mở phải thế nọ, thế kia mà qn đi vai trị là chính của
cơ quan quản lý phải thúc đẩy nó phát triển vì lợi ích của chính họ, sau đó mới
là lợi ích của người dân và doanh nghiệp.
- Bản thân giới doanh nghiệp CNTT cịn ngờ vực về tính hiệu quả dưới
góc độ kinh doanh khi sử dụng phương pháp phát triển phần mềm theo dạng
phần mềm nguồn mở. Nhưng lại kéo theo một vài ngờ vực của chính phủ và các
nhà quản lý về việc triển khai và thúc đẩy phát triển phần mềm nguồn mở.
Trong khi đang ra, ở góc độ quản lý, các nhà quản lý phải xây dựng môi trường
tốt nhằm thúc đẩy PMNM phát triển để giới doanh nghiệp vào cuộc và hưởng
ứng rộng rãi hơn.
- Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách cho đến nay mới chỉ dừng
lại ở việc ra các văn bản mang tính khuyến khích các cơ quan nhà nước ứng
dụng PMNM mà chưa tạo được môi trường để thúc đẩy PMNM phát triển. Đơn
cử, các dự án mời thầu phần mềm vẫn ngang nhiên vi phạm các quy định của
nhà nước về tiêu chuẩn mở, ứng dụng phần mềm nguồn mở. Trắng trợn đưa các
phần mềm đóng, cơng nghệ đóng, dựng hàng rào kỹ thuật nhằm "chỉ định" một
vài công nghệ, phần mềm nguồn đóng, từ đó loại bỏ phần mềm nguồn mở khỏi
các dự án này, vi phạm nghiêm trọng tính hiệu quả, minh bạch của dự án.
- Sự phối hợp không đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể

là Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào
tạo) cũng là một cản trở. Đặc biệt, sự giám sát thực thi chính sách lỏng lẻo khiến
cho nhiều chính sách về phần mềm nguồn mở được ban hành nhưng không thể
đi vào đời sống do không được thực thi trong thực tế


3. Cơ hội
- Nhu cầu bảo vệ bản quyền phần mềm tăng cao: Hiệp định thương mại
Việt Mỹ, WTO, Bell
- Chính phủ kiểm sốt chi tiêu CNTT, dự án chính phủ điện tử đang triển
khai:
+Việt Nam là một trong số ít nước sớm có chính sách ứng dụng và
phát triển PMNM ở quy mô quốc gia.
+Ngay từ năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
235/2004/QĐ-TTg phê duyệt Dự án tổng thể về Ứng dụng và phát triển
PMNM ở Việt Nam giai đoạn 2004-2008 đặt những nền móng ban đầu
quan trọng trong việc đưa PMNM vào hoạt động của cơ quan nhà nước,
góp phần làm chủ cơng nghệ và giảm dần gánh nặng mua sắm bản
quyền phần mềm.
+ Nhiệm vụ thúc đẩy phát triển PMNM tại các địa phương thông qua
các hoạt động hỗ trợ đào tạo cán bộ sử dụng PMNM và hỗ trợ đánh giá
phần mềm nguồn mở đáp ứng được yêu cầu để khuyến cáo sử dụng.

- Cộng động PMNM trên thế giới được nhiều kết quả:
+ Một số phần mềm được sử dụng phổ biến rộng rãi như:
LibreOffice( bộ ứng dụng văn phòng miễn phí), FlatPak ( tiện ích
quản lý gói ), Rocket.Chat ( cung cấp server chat linh hoạt ), ...
+ Người dùng có thể thay đổi chương trình phần mềm và điều chỉnh
để chúng trở nên phù hợp hơn với nhu cầu của doanh nghiệp.
Trong những năm qua, thế giới của phần mềm mã nguồn mở đã

thay đổi rất nhiều, liên tục xuất hiện những đổi mới và cải tiến mới.
- Sinh viên và thế hệ trẻ Việt Nam có năng lực tiếp thu nhanh đối với sự
đổi mới và chuyển đổi: Hiện nay có rất nhiều sinh viên sử dụng phần
mềm mã nguồn mở vào công việc.
- Các tổ chức quốc tế và nhiều nước hỗ trợ việc hợp tác và ứng dụng phát
triển PMNM: UNDP, WB
4. Một số định hướng (Bộ KHCN)
- Đa dạng hóa mơi trường, khơng phụ thuộc 1 môi trường hay công nghệ
- PMNM cần phải được sử dụng ngay cho một số ứng dụng đem lại hiệu
quả kinh tế rõ rệt hoặc đòi hỏi phải làm chủ được công nghệ
- Sự nghiệp chung của cộng đồng
- Tuân thủ đầy đủ các luật lệ, tiêu chuẩn và quy định quốc tế khai thác và
đóng góp.


5. Chiến lược (Bộ KHCN)
-

-

-

Việc đào tạo nhân lực MNM tại Việt Nam cịn mang tính tự phát, chưa có
định hướng chung
Phần lớn đào tạo chỉ dừng lại ở làm quen, sử dụng một số ứng dụng mã
nguồn mở như Linux(UNIX) (tại trường ĐHBL, ĐH Cần Thơ,...)
Chưa có các trung tâm cấp chứng chỉ về năng lực sử dụng phần mềm
nguồn mở.
Trong khi hầu hết các trường đại học trên thế giới sử dụng các hệ điều
hành mã nguồn mở thì tại các trường Đại học ở Việt Nam, trên 90% đồ án

tốt nghiệp của sinh viên chuyên ngành CNTT là các ứng dụng trên môi
trường Windows.
Đào tạo nhân lực mã nguồn mở chỉ thực sự bài bản ở các trung tâm có sự
liên kết với nước ngồi. (ví dụ như IFI).
Chiến lược phần mềm nguồn mở 2020-2023 của Việt Nam:
○ Với chủ đề “Hãy nghĩ mở”, đặt ra tầm nhìn khuyến khích và tận
dụng sức mạnh có tính chuyển đổi quá độ, đổi mới sáng tạo và
cộng tác của nguồn mở, các nguyên tắc và các thực hành phát triển
của nó. Nó thúc đẩy việc chia sẻ và sử dụng lại các giải pháp phần
mềm, tri thức và sự tinh thông, để phân phối các dịch vụ châu Âu
tốt hơn, có lợi cho xã hội và giảm các chi phí cho xã hội.
○ Các mục đích chính của chiến lược mới là để xúc tác cho Ủy ban
để:
 Tiến bộ hướng tới tự chủ số của tiếp cận số độc lập, của bản
thân châu Âu;
 Triển khai Chiến lược Số của Ủy ban châu Âu;
 Khuyến khích và sử dụng lại các phần mềm và ứng dụng,
cũng như dữ liệu, thơng tin và tri thức;
 Đóng góp cho xã hội tri thức bằng việc chia sẻ mã nguồn của
Ủy ban;
 Xây dựng dịch vụ công cấp thế giới;
Kế hoạch hành động
o Cùng với chiến lược này, một kế hoạch hành động toàn diện đã
được tạo ra, đề cập tới tất cả 10 điểm ở trên. Nó có lộ trình thực thi
trong giai đoạn 2015-2017.


o

Kế hoạch hành động này có sự phối hợp của nhiều hoạt động với

các cơ quan dịch vụ khác nhau trong Ủy ban để đảm bảo rằng các
nguyên tắc chiến lược được tuân thủ trong nội bộ. Các hoạt động
đó bao gồm:

Kiểm kê

Các quy trình mua sắm và quản lý sản phẩm

Thúc đẩy các tiêu chuẩn

Khuếch tán các phần mềm do EC sản xuất ra bên ngoài

Kho kiến trúc dựa vào phần mềm nguồn mở

Tính tương thích của các giấy phép

Những điều làm rõ và các khuyến cáo cho các lập trình viên

Dịch vụ xung quanh phần mềm nguồn mở được sử dụng
trong Ủy ban

Các hành động xung quanh các cộng đồng, bám theo, tham
gia

Vì các hành động đó hầu hết là nội bộ, kết quả đầu ra nhìn
thấy được sẽ là sự cung cấp các cơ hội ngang bằng nhau
trong mua sắm, xuất bản và làm rõ cho các lập trình viên, sử
dụng phần mềm nguồn mở trong các phát triển được xuất
bản, .v.v. như được thể hiện trong chiến lược.


II. Các tiến bộ trong xây dựng và khai thác phần mềm mã nguồn mở tại
việt nam 10 năm trở lại đây
1. Các tiến bộ trong xây dựng phần mềm nguồn mở tại Việt Nam
-

-

Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới
thương mại hóa 5G trên cơ sở thử nghiệm. Các kỹ sư phần mềm đã đóng
góp rất nhiều vào thành tựu này khi mạng 5G của Việt Nam sẽ sử dụng
các tiêu chuẩn mở.
+ Phát triển hệ thống thông tin quốc gia với cơng nghệ mở là chìa khóa để
tạo niềm tin số.
+ Với thiết bị và thiết bị đầu cuối 5G Made in Vietnam, Việt Nam có thể
nắm vững các yếu tố chính của hệ sinh thái 5G, điều quan trọng để 5G
được triển khai vào cuối năm nay.
Việt Nam đứng thứ 20 về ứng dụng phần mềm nguồn mở
+ Báo cáo phân tích rủi ro và an ninh nguồn mở của Synopsys năm 2020
cho thấy một cuộc kiểm tra 1.260 cơ sở mã nguồn phần mềm đóng trong
17 ngành cho thấy 99% cơ sở mã chứa các thành phần nguồn mở. Tất cả


+

+

+

+


+
+

+

+

-

các cơ sở mã trong 9 trong số 17 ngành cơng nghiệp đều chứa các thành
phần mã nguồn mở.
Có tới 70 phần trăm mã nguồn trong cơ sở mã là mã nguồn mở. Con số
này cao gấp đôi so với năm 2015 (36%). Chín mươi phần trăm cơ sở mã
kể từ năm 2019 chứa các thành phần mã nguồn mở.
Theo Sysnopsys, có 445 thành phần mã nguồn mở trong mỗi cơ sở mã.
Hơn 90% các công ty CNTT sử dụng phần mềm nguồn mở cho các ứng
dụng quan trọng.
Một báo cáo từ GitHub cho biết, Việt Nam đứng thứ 20 trong số các
quốc gia và vùng lãnh thổ không thuộc Hoa Kỳ về sử dụng mã nguồn
mở. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ ba, sau Singapore
và Indonesia.
Tuy nhiên, nếu xét về tỷ trọng thì Việt Nam thua xa Trung Quốc, Ấn Độ,
Đức, Anh và Nhật Bản. Nó ngang bằng với Đài Loan, Singapore và
Indonesia.
Tốc độ phát triển của các dự án nguồn mở và đóng góp cho mã nguồn
mở ở Việt Nam vẫn còn khiêm tốn.
Mặc dù Việt Nam bắt đầu tiếp cận xu hướng nguồn mở từ những năm
2000, nhưng tốc độ phát triển công nghệ mở vẫn chậm hơn so với một
số nước khác. Điều này được cho là do cơ chế văn hóa khép kín, nội địa
hóa trong quản lý và bảo vệ dữ liệu, thiếu sự quan tâm của các tập đoàn

lớn.
Nguyên nhân chính là do Việt Nam chưa có truyền thống phát triển về
công nghệ, do nền kinh tế ở mức trung bình khá, trình độ khoa học cơng
nghệ cịn thấp. Việt Nam có ít phát minh và sáng chế khoa học và công
nghệ.
Sử dụng công nghệ mở là cách duy nhất để Việt Nam làm chủ công
nghệ, bắt kịp thế giới và trở thành cường quốc về CNTT.

Làm chủ công nghệ mở
Phát triển công nghệ mở, phần mềm nguồn mở, mở dữ liệu cho các
doanh nghiệp và cá nhân để tạo ra giá trị mới là định hướng mới.
Điều này đã được người đứng đầu Bộ Thông tin và Truyền thông (MIC)
Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định tại Vietnam Open Summit 2020. Sự kiện được
tổ chức nhằm thể hiện chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam về phát
triển và làm chủ công nghệ số với các tiêu chuẩn mở.
Phát triển công nghệ mở của Việt Nam trong thời gian tới sẽ tập trung
vào ba trụ cột, đó là hệ sinh thái mở made in Vietnam, quảng bá văn hóa mở và
phát triển cộng đồng mở.
Việt Nam gần đây đã đầu tư đáng kể để phát triển công nghệ mở. Sự ra
đời của các ứng dụng, bao gồm Bluezone và CoMeet, là bằng chứng.


Được phát triển trên cơ sở mã nguồn mở, người dùng và hơn 100 kỹ sư
CNTT đã đóng góp vào sự phát triển của Bluezone. Nhờ mã nguồn mở, ứng
dụng theo dõi nghi ngờ nhiễm trùng Covid-19 đã giành được niềm tin của mọi
người, với hơn 22 triệu lượt tải xuống.
Viettel, BKAV và CMC là những công ty công nghệ dẫn đầu về phát
triển cơng nghệ mở. Ơng Nguyễn Tử Quảng, Giám đốc điều hành của BKAV,
cho biết tập đoàn đã bắt đầu đầu tư vào AI camera cách đây vài năm.
Vào năm 2018, BKAV đã thành lập Viện AI vì nhận thấy tiềm năng lớn

của ứng dụng AI. Tháng 11 năm ngối, cơng ty đã xuất khẩu những chiếc
camera AI đầu tiên được lắp đặt tại trụ sở chính của Qualcomm ở San Diego,
California. Tại Qualcomm, camera từ Việt Nam sẽ là một yếu tố quan trọng
trong chiến lược phát triển thành phố thơng minh của tập đồn. Các camera AI
View do BKAV sản xuất được phát triển với Open AI View. Việc sử dụng một
nền tảng mở giúp tạo được niềm tin từ các đối tác quốc tế.
Về phía CMC, nhóm đã chọn OpenStack để xây dựng CMC Open Cloud
và Elastic Stack để tạo SOC. Đây là tất cả các mã nguồn mở có sẵn trên
GitHub.
Ơng Lương Tuấn Thành, Giám đốc Cơng nghệ Tập đồn CMC cho biết, với
việc phát triển các sản phẩm có mã nguồn mở, tồn bộ chi phí liên quan đến
bản quyền phần mềm sẽ được sử dụng để phát triển nguồn nhân lực. CMC
đang đi theo con đường này để phát triển các chun gia của mình và xây dựng
một nền văn hóa cởi mở.
Viettel, nhà khai thác mạng di động, đã chọn làm chủ công nghệ 5G dựa
trên OpenRAN. Đây là một bước đi táo bạo so với việc sử dụng Mạng truy
nhập vơ tuyến truyền thống. Làm như vậy, Viettel có thể thoát khỏi sự phụ
thuộc vào các nhà cung cấp thiết bị nước ngoài.
Việt Nam cũng đang theo xu hướng này. Trong suốt thời kỳ Covid-19,
các ứng dụng như Bluezone và CoMeet đều là mã nguồn mở hoặc đã được phát
triển trên mã nguồn mở.
Bộ TT&TT cũng đã khai trương Cổng dữ liệu mở quốc gia tại địa chỉ
data.gov.vn. Đã có hơn 10.000 bộ dữ liệu được đăng ký.
Năm 2010, NukeViet được phát triển để trở thành một mơ hình chuyên
nghiệp. Tại thời điểm này, NukeViet 3.0 được phát hành là phiên bản CMS mới
(Hệ thống quản lý nội dung) do người Việt Nam phát triển. Lần đầu tiên tại
Việt Nam có một mã nguồn mở được đầu tư về tài chính, nhân lực và thời gian.
Phần mềm mã nguồn mở Made in-Vietnam hỗ trợ IPv6
2. Khai thác phần mềm mã nguồn mở tại Việt Nam



Phần mềm nguồn mở ở Việt Nam sau nhiều năm được vận động và thúc
đẩy ở Việt Nam vẫn chưa thể phát triển rộng rãi thì nay, sự ra mắt của Công ty
Cổ phần phát triển Nguồn mở và Dịch vụ FDS và phần mềm dịch vụ công trực
tuyến OpenCPS cho thấy nhận thức của doanh nghiệp về cơ hội kinh doanh
bằng phần mềm nguồn mở đã thực sự thay đổi.
-

Dựa trên mã nguồn mở, Việt Nam đã phát triển các ứng dụng như Bluezone
và CoMeet giúp theo dõi cac F0 trong vong 14 ngày...

Trong bối cảnh Covid-19 bùng phát, công ty Medtronic đã công khai
thiết kế máy thở PB560 để cho cộng đồng thế giới có thể sử dụng.
Nhờ vậy, tập đồn Vingroup đã có thể sản xuất các loại máy trợ thở
theo thiết kế này. Tất cả hoạt động từ việc tải bản thiết kế đến sản xuất
thành công đợt hàng đầu tiên của họ chỉ diễn ra trong vòng sáu tháng.
- Tháng 1/2020, Việt Nam tuyên bố đã làm chủ công nghệ mạng 5G và
trở thành một trong 6 nhà mạng đầu tiên trên thế giới thiết kế, sản xuất
được thiết bị mạng này.
=> Nhìn vào hai trường hợp này, có thể thấy nếu khơng có phần mềm
nguồn mở thì có thể Viettel hay VinGroup sẽ phải mất nhiều năm với rất
nhiều kinh phí để nghiên cứu phát triển và sản xuất thành cơng thiết bị
phát sóng mạng 5G hay máy trợ thở - nay nhờ có nguồn mở mà họ chỉ
mất vài tháng là có được với chi phí phù hợp.
-

3. Chiến lược cơng nghệ mở

Gần 3 triệu tổ chức và doanh nghiệp từ 70 quốc gia đã tham gia cộng
đồng mã nguồn mở. GitHub và 35 trong số 50 công ty hàng đầu trên thế giới đã

cử nhóm của họ tham gia vào các dự án mã nguồn mở trong diễn đàn.
Việt Nam đứng thứ ba ở Đông Nam Á và nằm trong top 20 thế giới về
ứng dụng mã nguồn mở, sau Singapore (17) và Malaysia (18).
Việt Nam bắt đầu tiếp cận xu hướng công nghệ mở từ những năm 2000,
nhưng vẫn đi sau một số nước, nguyên nhân là do văn hóa khép kín, địa
phương hóa dữ liệu và thiếu sự quan tâm của các tập đồn lớn.
Ơng Nguyễn Trọng Đường, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng CNTT Bộ
TT&TT cho biết, phát triển các dự án mã nguồn mở đang là xu hướng cơng
nghệ trên tồn cầu. Việt Nam nên đặt mục tiêu lọt vào top 10 trong bảng xếp
hạng về tốc độ phát triển của phần mềm nguồn mở.
Nói về định hướng phát triển trong thời gian tới, Dương cho rằng Việt
Nam nên phát triển công nghệ mở tập trung vào ba trụ cột - phát triển hệ sinh


thái mở Make in Vietnam, thúc đẩy văn hóa mở và phát triển cộng đồng mở.
“Ngoài việc thúc đẩy giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và phát triển cộng đồng,
chúng ta cũng cần phát triển một hệ sinh thái công nghệ mở, đẩy nhanh việc
thực thi các chính sách và ưu tiên sử dụng các sản phẩm kỹ thuật số sử dụng
các tiêu chuẩn mở”, ơng Dương nói.
Trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu, cần có các dự án, đề tài lớn về
PMNM. Việc đánh giá chất lượng các cơng trình nghiên cứu sẽ được thực hiện
dựa trên những đóng góp của các cơng trình cho cộng đồng quốc tế.
Về phát triển hệ sinh thái công nghệ mở, các công ty công nghệ, đặc biệt
là các công ty lớn, cần ưu tiên bố trí ngân sách R&D (nghiên cứu và phát triển)
cho các dự án nguồn mở.



×