Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tieu luan cơ sở lý luận về công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.91 KB, 32 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG

TIỂU LUẬN
(Điều kiện)
MÔN: CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

TÊN NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA
ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Họ và tên học viên: NGÔ ..............
Mã số học viên: MP22.................
Lớp: Cao học Xây dựng Đảng và CQNN, ..............................
HÀ NỘI - 2021
MỞ– ĐẦU
ST
20...


2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................5


3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .........................................................5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................5
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ..............................................5
6. Kết cấu của tiểu luận .........................................................................5
CHƯƠNG 1: Khái quát về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.........6
1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền……………………...……………6
2. Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà
nước pháp quyền tư sản……………………………………………………….9
3. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.....9
CHƯƠNG 2. Kiểm tra, giám sát của Đảng – phương thức bảo đảm pháp
chế và kỷ luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…………...13
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng..13
2.Đặc điểm công tác kiểm tra, giám sát của Đảng…………………..21
3.Yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng………………..25
4.Phạm vi trách nhiệm công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức
đảng………………………………………………………………………….28
KẾT LUẬN ...................................................................................................29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................31


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực
tiễn và lý luận 25 năm đổi mới, Đảng đã nghiên cứu và đề ra các giải pháp
nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước cơng nghiệp theo hướng
hiện đại. Trong lĩnh vực hồn thiện thể chế bộ máy, Đảng ta nhận định: "Tiếp

tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội..."
Thực tiễn cũng chứng minh, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công Nhà nước pháp
quyền Việt Nam giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt không chỉ có ý nghĩa đối với
bản thân Đảng mà cịn là điều kiện quan trọng đối với sự tồn tại hoạt động của
Nhà nước pháp quyền. Vấn đề là phải luôn luôn đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước để sao cho vừa bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, vừa phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước để tập trung mọi
quyền lực vào tay nhân dân. Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo đối
với hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt là đối với Nhà nước. Để xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân phải tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay: Tình trạng suy
thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận khơng nhỏ
cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu
cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến
phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều
hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với


4
Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến những yếu kém, khuyết điểm đó là:
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa
coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị

quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phịng ngừa tiêu cực và phát
huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng
chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối
sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ
cương ở nhiều tổ chức đảng khơng nghiêm. Sự đồn kết, nhất trí ở khơng ít cấp
ủy chưa tốt. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân, Nghị quyết chỉ rõ: Đảng ta phải: Quyết đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin
của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.

Để thực hiện được điều đó, bên cạnh việc phải giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
và năng lực cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung, dân
chủ; Đảng ta phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phải tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Bởi vì, kiểm tra, giám sát là hoạt
động không thể thiếu diễn ra trong tất cả các khâu của quy trình lãnh đạo và
quản lý; vì chức năng lãnh đạo của Đảng không chỉ ở việc định ra đường lối,
nghị quyết, tổ chức thực hiện mà còn phải tiến hành kiểm tra, giám sát. Đây là
biện pháp khơng thể thiếu được để phát huy ưu điểm, phịng ngừa, khắc phục
khuyết, nhược điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Do đó bản thân lựa chọn nghiên cứu “Cơ sở lý luận về công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa” để tiếp cận và tìm hiểu nội dung việc thực hiện cơng tác kiểm tra,


5
giám sát của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ mối quan hệ bản chất, tất yếu giữa cơng tác xây dựng Đảng
nói chung và cơng tác kiểm tra, giám sát nói riêng trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Giải quyết tốt mối quan hệ này phải
xem xét tác động hai chiều, có nghĩa là nghiên cứu tác động, ảnh hưởng của
công tác kiểm tra, giám sát trong xây dựng Đảng đối với công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tác động, ảnh hưởng của xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu vấn đề công tác kiểm tra, giám sát trong thời kỳ đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu là các quan điểm cơ bản, trong đó vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay và những kinh nghiệm rút ra có thể vận dụng trong thực tiễn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: vận dụng cơ sở thực tiễn, lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác kiểm tra, giám sát.
Phương pháp nghiên cứu: tìm hiểu các tài liệu liên quan, phân tích đánh
giá nhận định so sánh, đối chiếu nhằm rút ra bài học kinh nghiệm trên thực
tiễn công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, giải pháp những vấn đề cơ bản
trong giai đoạn hiện nay.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Tiểu luận góp phần đánh giá, phản ánh vấn đề chung về công tác kiểm
tra, giám sát trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề thực tiễn, việc vận dụng
trong thực tiễn hiện nay.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung tiểu luận gồm 2 chương, 7 tiết.


6

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
Từ thời Triết học sơ khai đã có những nghiên cứu về Nhà nước pháp
quyền, có thể điểm qua một số học giả về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
như: (1)Thời cổ đại Hy Lạp đã xác lập thiết chế nhà nước dân chủ nhân dân
mang tính pháp quyền. Tổ chức bộ máy nhà nước lúc đó gồm: Đại hội nhân
dân; Hội đồng 400 (ở Aten lúc bấy giờ tồn tại bốn bộ tộc, mỗi bộ tộc cử 100
đại biểu vào Hội đồng) và Tòa án nhân dân do dân bầu ra theo nguyên tắc
nhiều đẳng cấp. (2) Platon (năm 427 - 374 trước Công nguyên) coi hoạt động
xét xử là để bảo vệ pháp luật và cho rằng nhà nước sẽ ngừng hoạt động nếu
Tịa án khơng được tổ chức một cách thỏa đáng. (3) Aristote (năm 384 - 322
trước Cơng ngun) thì khẳng định yếu tố cơ bản cấu thành phẩm chất chính
trị trong các đạo luật là sự phối hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với
tính pháp quyền. (4) Cireron (năm 106 - 43) yêu cầu tất cả mọi người đều
phải dưới hiệu lực của pháp luật, mà tiêu chuẩn đánh giá công minh của các
đạo luật do con người làm ra phải phù hợp với quyền tự nhiên của con người.
(5) Locke (năm 1632 - 1704) đã xây dựng học thuyết về toàn bộ quyền lực
nhà nước là của nhân dân. Ông luận giải: nguồn gốc và bản chất của nhà
nước, quyền lực của nhà nước xất phát từ quyền tự nhiên của con người,
quyền con người là quyền tối cao và bất khả xâm phạm. Quyền sống, quyền
tự do, quyền sở hữu là những giá trị chủ đạo của quyền con người. Để bảo vệ
các quyền tự nhiên của con người, mọi người trong xã hội thỏa thuận lập ra
chính quyền có quyền lực chung để bảo vệ quyền tự nhiên của con người.
Chính quyền chính là sự ủy quyền của mọi thành viên trong xã hội. Ông đưa
ra ba kết luận: Quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của nhân dân,
quyền lực của nhân dân là cơ sở, nền tảng của quyền lực nhà nước; Trong
quan hệ với dân, nhà nước khơng có quyền mà chỉ thực hiện sự uỷ quyền của
nhân dân. Nhà nước - xã hội chính trị hoặc xã hội cơng dân thì thực chất là



7
một “khế ước xã hội” trong đó cơng dân nhượng một phần quyền lực chung
cho quyền lực nhà nước; Bảo tồn quyền tự nhiên của con người là tiêu chí
quan trọng để xác định giới hạn và phạm vi hoạt động của nhà nước.
(6) Montesquieu (những năm 1698 - 1755) đã khẳng định: nếu như
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nằm trong tay một người hay một cơ
quan thì con người sẽ khơng có tự do. Nếu quyền tư pháp hợp nhất với quyền
hành pháp thì Tịa án sẽ trở thành kẻ đàn áp nhân dân và tất cả sẽ bị hủy diệt.
Ngồi ra cịn nhiều nhà tư tưởng về nhà nước pháp quyền khác như
Roussou (năm 1712 - 1778); Kant (1724 - 1804); Heghen (1770 - 1831).
Tiếp đó là nhà tư tưởng vĩ đại C.Mác và Ph.Ăngghen tại Hội nghị Quốc
tế họp tại Benin với sự tham gia của 40 nước, đã đưa ra một quan niệm chung
về nhà nước pháp quyền: (1) Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà
ở đó nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của
tất cả, của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy
phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống tòa án độc lập.
(2) Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tơn trọng giá trị cao nhất của con người
và bảo đảm cho cơng dân có khả năng, điều kiện chống lại sự tùy tiện của cơ
quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của
pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà nước. (3) Nhà nước pháp
quyền phải bảo đảm cho cơng dân khơng bị địi hỏi bởi những cái ngoài Hiến
pháp và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị
trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền tự do và quyền
công dân. Qua đó có thể thấy nhà nước pháp quyền gồm hai yếu tố: Nhà nước
quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật; Pháp luật phải xuất phát và đảm bảo
các quyền của công dân.
Qua thực tiễn tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại có thể thấy tư
tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã có từ rất lâu và tương ứng với mỗi

kiểu nhà nước đều có một hệ thống pháp luật và đạt mức độ phát triển khác
nhau. Tuy nhiên, tổng hợp khái niệm nhà nước pháp quyền vẫn là đề cập đến
phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước nói chung thơng


8
qua hệ thống pháp luật, như Hiến pháp, luật và các văn bản pháp quy khác. Nói
cách khác, nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp
luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tơn trọng, các tư tưởng và hành vi
chính trị, tôn giáo.. của bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi
khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng
chính trị - pháp lý phức tạp, được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau,
song chúng ta có thể hiểu nhà nước pháp quyền theo một cách đơn giản, đó là
một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật và nhà nước hoạt động
tuân theo pháp luật. Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng pháp luật
trước hết là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước. Nhà nước pháp
quyền có bốn tiêu chí chung sau:
- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do
pháp luật quy định.
- Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng
phái, tổ chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật).
- Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp.
- Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh
trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của cơng
dân (hoặc con người nói chung).
Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng

định: “Nhà nước Cơng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Vì vậy, có thể hiểu:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân; Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực Nhà nước là thống


9
nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và nguyên tắc tập
trung dân chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; tuân thủ Hiến
chương Liên hiệp quốc và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, là
bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
2. Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà
nước pháp quyền tư sản
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản
đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà
nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ
chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác
nhau cơ bản. Đó là sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp
luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền
lực như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ; Tịa án, Tịa án hiến pháp;...
- Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và cơng dân
đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa
thể hiện ý chí và nguyện vọng của tồn thể nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết “tam quyền phân lập” là học
thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Về hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
nhà nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác
nhau về tính giai cấp, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận
các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thơng qua theo một trình tự
thủ tục nhất định; trong khi đó, nhà nước pháp quyền tư sản thường coi “án
lệ” hoặc “tập quán” như một loại quy phạm “bất thành văn”.
3. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam


10
Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát
triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà nước kiểu mới, đó là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ
lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Đó là Nhà nước pháp quyền XHCN. Nhà
nước đã từng bước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từ rất sớm, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ vị trí, vai trị của pháp luật trong điều hành
và quản lý xã hội. Trong bản yêu sách của nhân dân An Nam, Người đã nêu 4
điều liên quan đến pháp quyền. Tư tưởng pháp quyền này đã xuyên suốt tổ
chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ. Thực tiễn
đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng như
một xu thế tất yếu, khách quan, mang tính quy luật của q trình đi lên chủ
nghĩa xã hội, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Bản chất này của nhà nước tiếp tục
được khẳng định trong các Cương lĩnh, các văn kiện của Đảng trong thời kỳ
đổi mới, được thể chế hoá rõ trong Hiến pháp 2013. Những đặc trưng cơ bản

của nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của một chế độ dân chủ, đó
là:


11
Một là , Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ.
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề
của chế độ nhà nước.
Tập trung dân chủ hay dân chủ tập trung đều bao hàm hai thành tố tập
trung và dân chủ. Hai thành tố đó khơng hề đối lập nhau mà có mối quan hệ
biện chứng với nhau và cùng phát triển theo tỷ lệ thuận. Tập trung càng cao
thì dân chủ càng được mở rộng, và ngược lại. Tập trung ở đây không phải là
tập trung quan liêu, tập trung độc đoán. Dân chủ ở đây là dân chủ thực sự, chứ
không phải dân chủ mang tính hình thức, hay dân chủ “khơng giới hạn”, dân
chủ cực đoan, muốn làm gì thì làm. Tập trung trên cơ sở dân chủ thì tập trung
sẽ thúc đẩy dân chủ rộng rãi và có chất lượng cao hơn. Tập trung là địi hỏi
của chính bản thân dân chủ. Ngược lại, dân chủ trên cơ sở tập trung sẽ dễ
dàng đạt tới sự thống nhất cao. Lúc đó, dân chủ trở thành địi hỏi của chính
bản thân tập trung. Dân chủ mà không tập trung, về thực chất, là xóa bỏ dân
chủ. Tập trung mà khơng dân chủ, về thực chất, cũng là xóa bỏ tập trung.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân
chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền dân chủ của mình thơng qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Hai là , Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật ln giữ vai trị điều chỉnh những mối quan hệ cơ
bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính
hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể
đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ

thống pháp luật dân chủ, cơng bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp
quyền trong nhà nước và xã hội.
Ba là , Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con
người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.


12
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm
bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của
mình theo đúng các quy định của luật pháp.
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về
phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mơ hình quan hệ giữa Nhà
nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước
chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ
những điều luật cấm.
Bốn là , Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức
và thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm sốt
quyền lực. Tính chất và cách thức phân cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước
rất đa dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng
đều có điểm chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người,
vào một cơ quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ
với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước
và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Năm là , Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật phù hợp.
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp
luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật

luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp,
pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.


13
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia
có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị
tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và
quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này.
Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền ln địi hỏi phải xây
dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch
để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và
xã hội.
Sáu là, Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới
hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trị, chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mơ hình
kinh tế thị trường, theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật
khách quan của thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh
tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.
Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý
xã hội, tơn trọng đề cao vị trí, vai trị và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu
trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác,
quy định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội.
Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội
trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật Việt Nam thể hiện những tư tưởng quan
điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát vọng của nhân dân đối
với cơng lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

thể hiện những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ
và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội
cịn giai cấp.


14
CHƯƠNG 2. KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG - PHƯƠNG THỨC
BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ VÀ KỶ LUẬT TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng
1.1.Kiểm tra, giám sát là một tất yếu khách quan, là một biểu hiện
nghiêm túc của hoạt động có ý thức của mọi tổ chức và con người trong xã
hội
Hoạt động của tổ chức và con người trong xã hội là hoạt động có ý
thức; trước khi hành động, các tổ chức và cá nhân đều phải suy nghĩ, xác định
rõ ý định, chủ trương, kế hoạch tiến hành và tổ chức thực hiện thắng lợi ý
định, chủ trương, kế hoạch ấy trong thực tiễn. Song, thực tiễn luôn luôn vậ n
động, biến đổi, phát triển không ngừng theo quy luật khách quan, nên ý định,
chủ trương, kế hoạch đã xác định dù được nghiên cứu, tính tốn, cân nhắc kỹ vẫn
có thể có những thiếu sót, sơ hở, thậm chí khơng có khả năng thực thi hoặc sai
lầm nghiêm trọng. Vì vậy, muốn đạt được kết quả trong thực tiễn, phải xem xét
tình hình thực tế để nhận xét, đánh giá; có nghĩa là phải kiểm tra, giám sát; phải
kiểm tra, giám sát toàn bộ từ ý định, chủ trương, kế hoạch đến tổ chức thực hiện
và kết quả đạt được để giúp cho tổ chức và cá nhân đánh giá đúng ưu điểm,
khuyết điểm của chủ trương, kế hoạch, hành động; kịp thời rút kinh nghiệm, bổ
sung, sửa đổi những thiếu sót, chưa đồng bộ, chưa phù hợp hoặc sai lầm, lệch
lạc; bảo đảm ý định, chủ trương, kế hoạch, hành động được đúng đắn, chuẩn xác
hơn, chất lượng, hiệu quả đạt được tốt đẹp hơn. Do đó, hoạt động có ý thức là

hoạt động có kiểm tra, giám sát; ý thức càng cao, tổ chức càng quan trọng, con
người ở cương vị càng cao, nhiệm vụ càng khó khăn, phức tạp, thì càng địi hỏi
phải coi trọng và tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát.

Trong các tác phẩm của mình, C.Mác chưa đề cập sâu đến công tác
kiểm tra, giám sát của một đảng cầm quyền, nhưng đã thể hiện rõ quan điểm
về kiểm tra, giám sát trong quản lý kinh tế - xã hội. Theo C.Mác, để đạt kế


15
hoạch, mục tiêu đã đề ra phải tiến hành kiểm tra, giám sát. kiểm tra, giám sát
là phương thức hành động quan trọng để thực hiện mục tiêu.
Lênin luôn coi cơng tác kiểm tra, kiểm sốt (giám sát) là một công cụ
hữu hiệu và là một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng đối với tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đã đề ra thì
những người cộng sản phải nắm chắc cơng cụ kiểm tra, kiểm sốt coi đó như
là: '"những nhiệm vụ đã trở thành tự nhiên đối với những người xã hội chủ
nghĩa sau khi giành được chính quyền". Theo Lênin: Khi đường lối, chính
sách đã được xác định, phương hướng đã được thơng qua thì nhiệm vụ tổ
chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu và trọng tâm của sự lãnh đạo phải
chuyển "từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc chọn người và
kiểm tra sự thực hiện". Người đã nhấn mạnh: Lựa chọn người, thiết lập chế độ
trách nhiệm cá nhân đối với công việc đang làm, kiểm tra công việc thực tế,
mấu chốt của tồn bộ cơng tác, của tồn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn
ở đấy và chỉ có ở đấy. Nếu như các cán bộ lãnh đạo và các cơ quan của Đảng
và Nhà nước chỉ "bù đầu, bù tai" vào những cơng việc vụn vặt, chìm đắm
trong "cái biển" giấy tờ và cái vũng lầy chủ nghĩa quan liêu mà quên mất
nhiệm vụ trọng tâm: lựa chọn cán bộ, kiểm tra, kiểm soát, phát triển kinh tế,
thì tất cả mệnh lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn.
Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ

luật và giữ gìn kỷ luật của Đảng. Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý
luận của Lênin về công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng và trong quản lý Nhà
nước. Người cho rằng, mọi hành vi của con người đều vận động theo quy luật
khách quan vốn có, Người nói: Người đời khơng phải là thánh thần, khơng ai
tránh khỏi khuyết điểm. Nghĩa là dù có là vĩ nhân hay là người bình thường
trong xã hội khi đã làm việc thì khơng tránh khỏi có những lúc bản thân đưa ra
phán quyết, ứng xử sai sót, thậm chí sai lầm để lại hậu quả; Người nói: Người
đời ai cũng có khuyết điểm, có làm việc thì có sai lầm; Tuy nhiên ở góc độ cơng
tác kiểm tra, giám sát, Người khẳng định: "Có thể nói rằng: chín phần mười
khuyết điểm trong cơng việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Người đã


16
khẳng định: "...Khi có chính sách đúng, thì thành cơng hoặc thất bại của chính
sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra.
Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vơ ích". Người đã nhắc
nhở: "Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của
nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của mỗi cán bộ, mới sửa chữa và
giúp đỡ kịp thời". Mục đích cơng tác kiểm tra, giám sát là nhằm hồn thiện quy
trình lãnh đạo của Đảng (bao gồm các khâu: ra quyết định, tổ chức thực hiện,
kiểm tra, giám sát); phát hiện người tốt, việc tốt; ngăn ngừa vi phạm, giữ gìn kỷ
luật của Đảng; góp phần thực hiện có kết quả cao nhất các nghị quyết đã đề ra;
xây dựng, củng cố tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã
hội ngày càng trong sạch, vững mạnh. Có kiểm tra, giám sát mới biết rõ cán bộ,
nhân viên tốt hay xấu; mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan; mới
biết rõ tính đúng đắn, khả thi hay chưa phù hợp của các nghị quyết, chỉ thị... Như
vậy, kiểm tra, giám sát không chỉ giúp cho lãnh đạo nắm chắc chất lượng đội ngũ
cán bộ, ngăn ngừa khuyết điểm, sai lầm..., mà còn khơi dậy được tính tích cực,
sức mạnh to lớn của nhân dân, củng cố uy tín của Đảng trước quần chúng. Kiểm
tra, giám sát là phương tiện, là liều thuốc đặc hiệu chống lại căn bệnh: "Nghị

quyết một đằng, thi hành một nẻo" và bệnh tham nhũng, quan liêu, giấy tờ...

Tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng, ngày 29/7/1964,
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
Cơng việc của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều. Muốn hoàn thành
tốt mọi việc, thì tồn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy thì các cấp ủy đảng phải
tăng cường cơng tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục
đảng viên và cán bộ làm trọn trách nhiệm đối với Đảng, đối với Nhà nước,
làm gương mẫu tốt đối với nhân dân.
1.2.Kỷ luật của Đảng
Thực tiễn đã chứng minh và khẳng định rằng, Đảng ta không thể nào
tồn tại, lãnh đạo nhân dân giành lấy chính quyền và giữ vững chính quyền nếu
khơng có kỷ luật nghiêm minh của Đảng. Cho nên từ khi thành lập cho đến


17
nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vấn đề kỷ luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: "Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một
người. Đó là nhờ có kỷ luật". Chính vì có kỷ luật nghiêm minh mà hơn 90
năm qua, Đảng ta đã đứng vững trước mọi thử thách hiểm nghèo của cách
mạng và lãnh đạo giành nhiều thắng lợi vẻ vang qua các thời kỳ. Ngày nay,
cách mạng nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, vừa có nhiều cơ hội
thuận lợi lớn, vừa có những thách thức, nguy cơ lớn. Sự nghiệp cách mạng
trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn
nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, tăng cường bản chất giai cấp cơng
nhân và tính tiền phong của Đảng. Trước yêu cầu đó, vấn đề kỷ luật của Đảng
càng cực kỳ quan trọng, vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa mang tính thời
sự, cấp bách. Kỷ luật nghiêm minh mới bảo đảm cho đường lối, chính sách,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng được chấp hành triệt để, không bị lệch hướng;

năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng mới được tăng cường.
Bắt nguồn từ bản chất giai cấp của Đảng, nên "Kỷ luật của Đảng là kỷ
luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác".
Nghiêm túc, là tất cả các tổ chức đảng và đảng viên đều phải phục
tùng kỷ luật của Đảng, phải chấp hành các nguyên tắc tổ chức của Đảng, đặc
biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; tổ chức đảng và đảng viên vi phạm đều
phải được xem xét, nếu cần thiết phải bị thi hành kỷ luật. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã yêu cầu: Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi, nhưng khi đã quyết
định rồi thì khơng được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là bàn cách thi hành
cho được, cho nhanh; không phải để đề nghị không thực hiện. Đảng yêu cầu
mọi tổ chức và đảng viên phải chấp hành kỷ luật đảng vô điều kiện. Đảng
không giảm bớt yêu cầu đối với ai, không ai được coi là ngoại lệ. "Đảng viên,
cán bộ phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự
quản lý của chi bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của
Đảng. Không để một đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức".
Tự giác, là đặc trưng cơ bản của kỷ luật đảng. Vì Đảng ta bao gồm
những người thừa nhận và tự nguyện phấn đấu thực hiện Cương lĩnh chính trị,


18
Điều lệ Đảng, lấy việc phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân làm lẽ sống của mình. Mọi đảng viên đều ý thức sâu
sắc rằng, giữ gìn kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự thống nhất ý chí và hành động
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, nên dù trong lĩnh vực hoạt
động nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào, càng khó khăn, phức tạp, càng phải
đề cao tinh thần tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng.
Phương châm thi hành kỷ luật của Đảng thể hiện rõ quan điểm, chính
sách xử lý của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Điều 35,
Điều lệ Đảng quy định: "Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử
lý cơng minh, chính xác, kịp thời".

Tóm lại, kỷ luật của Đảng có tầm quan trong đặc biệt trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị và xây dựng Đảng, bảo đảm cho sự tồn tại, hoạt động và
phát triển của Đảng. Mọi biểu hiện coi thường kỷ luật của Đảng, tự đặt mình
lên trên tổ chức, ra ngoài tổ chức và những hành động vi phạm kỷ luật của
Đảng, dù nhỏ đều làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng. Trong tình hình hiện
nay, Đảng ta cần có kỷ luật nghiêm minh.
Như vậy, kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng là một tất yếu khách
quan, là một biểu hiện nghiêm túc của hoạt động có ý thức của mọi tổ chức
và con người trong xã hội.
1.3.Quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, giám sát qua các
thời kỳ
- Quan điểm trước thời kỳ đổi mới.
Điều lệ Đảng chính thức được thơng qua vào tháng 10/1930 đã quy
định: Trách nhiệm của đảng viên và cán bộ là giữ gìn kỷ luật đảng một cách
nghiêm khắc. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ I (10/1935) đã
khẳng định: "Cần giữ kỷ luật sắt cho Đảng, những phần tử trái đường chính trị
chung của Đảng, của Quốc tế Cộng sản mà không chịu sửa lỗi, những kẻ
không phục tùng nghị quyết, Điều lệ, phá hoại kỷ luật của Đảng thì nhất thiết
phải khai trừ".
Tạị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2/1951), Đảng ta đã khẳng


19
định: "Đảng Lao động Việt Nam phải có kỷ luật rất nghiêm, kỷ luật sắt. Kỷ
luật ấy là một đặc điểm của Đảng..."; Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9/1960) đã nêu rõ: "Phải tăng cường kiểm tra và giám sát của Đảng đối với
cán bộ và cơ quan nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng
với những phần tử quan liêu gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và Nhà nước"
và nhấn mạnh: "Lãnh đạo mà khơng có kiểm tra thì lãnh đạo sẽ trở thành quan
liêu"; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã yêu cầu

phải: "Tổ chức chu đáo, thường xuyên và có hệ thống cống tác kiểm tra việc
thực hiện đường lối, chính sách, ngăn ngừa xảy ra sai lầm, ngăn ngừa các vụ
vi phạm nguyên tắc. Không kiểm tra coi như không lãnh đạo"; Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) đã nêu rõ: Công tác kiểm tra là
một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, một bộ phận quan
trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng, nhất là trong hồn cảnh Đảng
lãnh đạo chính quyền. Hiệu lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện đòi hỏi phải hết sức
coi trọng và tăng cường công tác giám sát và kiểm tra việc thực hiện các
quyết định. Phải có chương trình và kế hoạch tổ chức cơng tác kiểm tra một
cách chu đáo. Trong chương trình cơng tác của Ban Bí thư Trung ương Đảng
và ban thường vụ các cấp ủy phải có chương trình kiểm tra.
Cần tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, công tác này phải được
nâng lên trình độ khoa học bảo đảm kịp thời, chính xác và có hiệu quả... Lãnh
đạo mà khơng kiểm tra thì coi như khơng lãnh đạo.
- Quan điểm của Đảng ta thời kỳ đổi mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) là đại hội đổi
mới, Đại hội tiếp tục khẳng định các quan điểm về kiểm tra, giám sát và kỷ luật
đảng mà Đại hội V đã chỉ ra, đồng thời nhấn mạnh: Kiểm tra là một chức năng
lãnh đạo chủ yếu của đảng, là một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện. Đó
cũng là biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu. Mọi tổ chức từ cơ
quan đảng, nhà nước đến đoàn thể quần chúng, mọi lĩnh vực hoạt động từ kinh
tế, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khơng có ngoại lệ, đều phải đặt
dưới sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền. Trung ương đảng và các cấp


20
ủy đảng phải nắm chắc công tác kiểm tra, sử dụng kết quả kiểm tra vào việc chỉ
đạo thực hiện các nghị quyết. Mỗi cấp ủy trong từng thời gian đều phải có
chương trình kiểm tra, tập trung vào những công tác chủ yếu, những đơn vị trọng
điểm, sử dụng và phát huy vai trò của Ủy ban kiểm tra và các ban của Đảng, kết

hợp chặt chẽ kiểm tra của Đảng với thanh tra Nhà nước và kiểm tra của quần
chúng; kiểm tra phải đi tới kết luận rõ ràng và xử lý đúng đắn.

Đến Đại hội VIII của Đảng (7/1996) nêu rõ: "Một vấn đề được nhấn
mạnh trong các văn kiện kỳ này là tăng cường và đổi mới công tác kiểm tra
của Đảng... các cấp ủy và tổ chức đảng phải trực tiếp kiểm tra và sử dụng các
ban để kiểm tra...". Đồng thời khẳng định: "Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ
quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra và giữ gìn
kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của tồn Đảng... Tổ chức đảng phải tiến hành
cơng tác kiểm tra. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của Đảng".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã thẳng thắn
nhận định: Trong công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm, đang nổi
lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo
dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thối
về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Một số tổ chức đảng chưa được chỉnh
đốn; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ khơng đồn kết; chất
lượng sinh hoạt giảm sút... Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn
lúng túng, chưa đi sâu làm rõ đặc điểm và yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng trong
điều kiện đảng cầm quyền... Tổ chức chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các nghị
quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước cịn yếu.

Tăng cường cơng tác kiểm tra của các cấp ủy, của Ủy ban kiểm tra các
cấp, tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và
quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao
phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đồng thời tiếp tục
khẳng định: "Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ
chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra. Tổ chức đảng và đảng viên chịu



21
sự kiểm tra của đảng"
Từ tổng kết của lý luận và thực tiễn, lần đầu tiên Đảng ta đã ban hành
Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng, đây là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng khẳng định:
Kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo
của Đảng, là chức năng lãnh đạo... Cơng tác kiểm tra, giám sát phải được tiến
hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng
nguyên tắc, phương pháp công tác đảng. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự
kiểm tra, giám sát của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân...
Có thể nói rằng, quan điểm nhất quán của Đảng ta trong quá trình
xây dựng và trưởng thành ln khẳng định cơng tác kiểm tra, giám sát là một
nhu cầu không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là bộ phận quan
trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng; khơng kiểm tra, giám sát thì coi
như khơng lãnh đạo.
2.Đặc điểm công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Kiểm tra của Đảng là xem xét tình hình chấp hành Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một cơng việc cụ thể được giao để
đánh giá, nhận xét về mỗi cá nhân hay một cơ quan, tổ chức Đảng. Kiểm tra
là để làm rõ đúng, sai, được thực hiện theo đúng quy trình, sau kiểm tra phải
kết luận, nếu có vi phạm đến mức phải xử lý thì báo cáo tổ chức đảng có thẩm
quyền xem xét, quyết định.
Giám sát của Đảng là hoạt động chủ yếu để quan sát, theo dõi trực
tiếp, thường xuyên, liên tục đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên thuộc
phạm vi quản lý nhằm hướng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên theo
đúng Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung
dân chủ và quy chế làm việc; đoàn kết nội bộ, phẩm chất đạo đức; chấp hành
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua
giám sát, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì báo cáo, đề xuất tổ chức đảng

có thẩm quyền tiến hành kiểm tra.


22
Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng có những đặc điểm (nét riêng
biệt) khác với công tác kiểm tra, giám sát nói chung khác, với cơng tác kiểm
tra, giám sát của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, đồn thể chính trị - xã
hội. Cơng tác kiểm tra, giám sát của đảng là công tác đảng, do các tổ chức
đảng và đảng viên tiến hành theo quy định của Đảng. Các tổ chức đảng vừa là
chủ thể kiểm tra vừa là đối tượng kiểm tra, giám sát. Công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng có các đặc điểm sau đây:
- Là công tác đảng, một bộ phận của công tác xây dựng Đảng, được
tiến hành trong nội bộ Đảng.
Cơng tác xây dựng Đảng có nhiều lĩnh vực cơng tác khác nhau, bao
gồm: Cơng tác văn phịng; cơng tác chính trị tư tưởng; cơng tác tổ chức, cán
bộ; cơng tác dân vận; cơng tác tài chính đảng... và cơng tác kiểm tra, giám sát
của Đảng. Tương ứng với mỗi nhiệm vụ cơng tác đó, có một cơ quan (tổ
chức) đảm nhiệm, hoặc một cơ quan đảm nhiệm một số nhiệm vụ công tác.
Tùy theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng mỗi thời
kỳ mà Đảng ta lập các tổ chức tham mưu, giúp việc tương ứng để thực hiện
các nhiệm vụ công tác đó. Vì vậy, cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng là
công tác đảng, một bộ phận của công tác xây dựng Đảng. Công tác kiểm tra,
giám sát của đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng, nhưng trước hết là của các cấp
ủy đảng, của chi bộ. Khi Đảng ta mới thành lập và đi vào hoạt động, công tác
kiểm tra, giám sát của đảng chủ yếu do chi bộ, cấp ủy các cấp đảm nhiệm. Từ
năm 1948 đến nay, việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ
luật của Đảng do cấp ủy, tổ chức đảng và ban kiểm tra (nay là Ủy ban kiểm
tra - cơ quan kiểm tra chuyên trách của Đảng) thực hiện theo chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ chức và được Điều lệ Đảng quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng là công tác đảng, được quy định

trong Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định của Đảng;
do các tổ chức đảng và đảng viên được phân công tiến hành tùy theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của mỗi tổ chức được Điều lệ
Đảng quy định. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là công tác đảng, nên


23
phải tuân theo các nguyên tắc, phương pháp cơ bản của công tác đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một bộ phận của công tác xây
dựng Đảng, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ
với công tác tổ chức và cán bộ, công tác tư tưởng văn hóa và các mặt cơng tác
khác của Đảng để thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng.
- Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của
Đảng và đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng,
khơng có ngoại lệ.
Về mặt nguyên tắc, bất kỳ tổ chức và thành viên nào trong tổ chức
đều bình đẳng trước kỷ luật của tổ chức đó. Theo quy định của Điều lệ Đảng,
mọi tổ chức đảng và đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Sự bình
đẳng trước kỷ luật đảng bắt nguồn từ sự bình đẳng về chính trị trong Đảng,
khơng phân biệt đảng viên có chức vụ cao hay thấp, tuổi đảng nhiều hay ít.
Có như vậy mới tạo được sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữ nghiêm kỷ
cương, kỷ luật của Đảng. Nếu khơng có sự bình đẳng trước kỷ luật đảng thì sẽ
có sự phân biệt đối xử, "ghét thì xử nặng, ưa thì xử nhẹ"; ghét thì kiểm tra
xem xét trách nhiệm; ưa thì bỏ qua không kiểm tra, giám sát, hoặc kiểm tra,
giám sát qua loa, hình thức... Bng lỏng kỷ luật sẽ mở đường cho bọn phá
hoại chui vào Đảng để phát hoại Đảng. Có bình đẳng trước kỷ luật thì tất cả tổ
các tổ chức đảng và đảng viên đều phải tuân thủ, phục tùng và chấp hành
nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh khi được kiểm tra,
giám sát, bị thi hành kỷ luật khi có vi phạm. Mỗi đảng viên phải thấy được

chức vụ là do Đảng, do tổ chức phân cơng, khơng phải đó là "đặc quyền, đặc
lợi" riêng của mình.
-Các tổ chức đảng và đảng viên vừa là chủ thể kiểm tra vừa là đối
tượng kiểm tra, giám sát.
Để mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được thi hành
triệt để, đúng đắn trong thực tế, mọi đảng viên, tổ chức đảng đều phải tự kiểm
tra và phải chịu sự kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng. Đây là vấn


24
đề có tính ngun tắc bắt buộc của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng trên ba
phương diện: Thứ nhất, tổ chức đảng và đảng viên phải tự mình kiểm tra đối
với chính bản thân mình. Thứ hai, tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự
kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng và đảng viên có thẩm quyền cấp trên. Thứ
ba, tổ chức đảng phải tiến hành kiểm tra, giám sát đảng viên và tổ chức đảng
cấp dưới thuộc phạm vi được phân công lãnh đạo, quản lý. Việc tổ chức đảng
và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng xuất
phát từ đặc điểm tổ chức đảng và đảng viên vừa là chủ thể kiểm tra, vừa là đối
tượng kiểm tra, giám sát. Có như vậy mới đảm bảo sự kiểm tra, giám sát, thi
hành kỷ luật đảng được thực hiện toàn diện, đầy đủ, nghiêm minh và triệt để
trong tồn Đảng, khơng có ngoại lệ đối với bất cứ tổ chức đảng và đảng viên
nào.
-Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng là nhiệm vụ của
toàn Đảng, của mọi tổ chức đảng và đảng viên theo quy định của Điều lệ
Đảng.
Mỗi tổ chức đảng (các cấp ủy, chi bộ, các ban của cấp ủy, Ủy ban kiểm tra
các cấp) có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền khác nhau, nên nội
dung, đối tượng kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng cũng khác nhau. Vì thế,
mỗi tổ chức đảng và đảng viên phải thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi

hành kỷ luật, nhưng tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà mỗi tổ
chức chức đảng có phạm vi kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật khác nhau. Mỗi
tổ chức đảng và đảng viên, phải theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm
quyền của mình để tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.
Vì vậy, Điều lệ Đảng vừa quy định tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm
tra, giám sát, tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của
Đảng, vừa quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các tổ
chức đảng trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.

- Quá trình kiểm tra phải vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa tự
giác và bắt buộc; lấy tự giác, tự phê bình và phê bình làm chính, coi trọng


25
công tác giáo dục tư tưởng trong công tác kiểm tra, giám sát; lấy hiệu quả
kiểm tra, giám sát làm thước đo cho kết quả hoạt động.
Để việc kiểm tra, giám sát có chất lượng và hiệu quả, địi hỏi tổ chức
đảng và đảng viên phải vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa tự giác và bắt
buộc, nhưng phải nêu cao tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình là chính.
Bởi lẽ, tự giác khơng chỉ là phương tiện mà là mục đích của cơng tác xây
dựng Đảng - Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Vì chỉ có chính bản thân
đảng viên được kiểm tra mới thấy được rõ thiếu sót, khuyết điểm, thậm chí là
vi phạm của bản thân, nếu tự phê bình tốt thì giúp cho bản thân thấy rõ ưu
điểm để phát huy, nhận thức rõ lỗi lầm của mình để sửa chữa, khắc phục.
Để giữ vững và chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật đảng, đòi hỏi tổ chức
đảng và đảng viên vừa phải tự kiểm tra, vừa phải chịu sự kiểm tra, giám sát
(bắt buộc). Tính bắt buộc trong cơng tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật
đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên còn ở chỗ, khi được tổ chức đảng
hoặc đảng viên có thẩm quyền kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật thì phải
cộng tác, khơng được thối thác, chống đối hoặc đối phó trong quá trình kiểm

tra, tự phê bình và phê bình, đấu tranh làm rõ đúng sai và phải chấp hành
nghiêm chỉnh cuộc kiểm tra.
Quá trình kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng là sự kết hợp chặt chẽ giữa
hai hình thức tự kiểm tra và kiểm tra. Nó vừa mang tính tự giác vừa mang tính
bắt buộc đối với đảng viên và tổ chức đảng. Mục đích của kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật đảng nhằm để giáo dục, tự hồn thiện là chính. Do đó, tổ
chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự giác tự kiểm tra và kiểm tra và
chịu sự giám sát, thấy được ưu điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm để
sửa chữa, khắc phục, điều chỉnh hành vi, việc làm cho phù hợp.
Tổ chức đảng hoặc đảng viên được kiểm tra, giám sát, bị thi hành kỷ
luật thường có tâm lý, biểu hiện bức xúc, có sự phản ứng, thiếu cộng tác,
thiếu tự giác, thành khẩn, thậm chí đối phó. Vì vậy, đi đơi với tự giác, tự phê
bình và phê bình, cần coi trọng việc làm tốt công tác tư tưởng, giáo dục,
thuyết phục, cảm hóa đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên được kiểm tra,


×