Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tieu luan mon hoach dinh và thuc thi chinh sach cong Những căn cứ để hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.2 KB, 27 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
MƠN: HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CƠNG

TÊN NỘI DUNG

NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
XĨA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Họ và tên học viên: NGÔ ..............
Mã số học viên: MP22..................
Lớp: Cao học Xây dựng Đảng và CQNN............................

HÀ NỘI - 2021
HN
– 20.....
MỞ
ĐẦU


2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .........................................................4


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ..............................................4
6. Kết cấu của tiểu luận .........................................................................4
CHƯƠNG 1: Chính sách cơng, một số vấn đề cơ bản…………………….5
1. Khái niệm chính sách cơng…………………………………………5
2. Hoạch định chính sách cơng………………………………………..7
3. Các căn cứ chủ yếu để hoạch định chính sách cơng………………..8
CHƯƠNG 2: Chính sách cụ thể…………………………………………...13
1. Khái qt về tình hình giảm nghèo ở nước ta trong những năm gần
đây…………………………………………………………………………...13
2. Những căn cứ để hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước
ta……………………………………………………………………………..15
3. Một số hạn chế và giải pháp khi hoạch định chính sách xóa đói
giảm nghèo ở nước ta………………………………………………………..24
KẾT LUẬN.………………………………………………………………...26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………….27


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân
hố giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu khơng tích cực xố đói giảm nghèo và
giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây
dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy
được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và
tiến bộ của thời đại.
Xố đói giảm nghèo khơng chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó cịn là
vấn đề kinh tế -xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa
chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Thực hiện thành cơng chương trình

xố đói giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu
nhập chính đáng cho người nơng dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xố đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế nơng thơn cịn là nền tảng, là cơ sở để cho sự
tăng trưởng và phát triển một nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp
đổi mới đất nước. Hơn thế nữa nó cịn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã
hội. Xố đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức
khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hồ
nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành
mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo,
ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lịng tin vào đường lối và
chủ trương của đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ
nạn xã hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái.
Với tầm quan trọng của việc xóa đói giảm nghèo hiện nay thì việc xây
dựng một chính sách xóa đói giảm nghèo cụ thể sẽ cần phải được thực hiện
một cách chu tồn hơn. Trong đó hoạch định chính sách chính là giai đoạn
quyết định một chính sách có phù hợp và đúng đắn để áp dụng vào thực tiễn
hay không. Muốn hoạch định một chính sách xóa đói giảm nghèo tốt thì cần
phải có những căn cứ chủ yếu để dựa vào, từ đó sẽ xác định được rõ ràng mục
tiêu và giải pháp mà chính sách đang hướng đến. Từ lý do trên, tôi chọn đề tài


4
“Những căn cứ để hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta
hiện nay” để nghiên cứu viết bài tiểu luận học phần môn Hoạch định và thực
thi chính sách cơng.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo cần dựa vào những căn cứ
nào?
Những căn cứ đó có ảnh hưởng như thế nào đến q trình hoạch định
chính sách xóa đói giảm nghèo?

Những hạn chế khi hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo gặp phải
là gì? Phương pháp giải quyết hạn chế?
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Căn cứ để hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo
Phạm vi nghiên cứu: Trong giai đoạn hoạch định chính sách xóa đói
giảm nghèo ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của các học giả, quan điểm
của Đảng ta về chính sách cơng trong vấn đề giải quyết xóa đói giảm nghèo
hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Thơng qua giáo trình nghiên cứu những khái
niệm chuyên ngành để hiểu sâu hơn về vấn đề đang cần giải quyết.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp kết hợp với phân tích mơ tả, so
sánh, phân tích-tổng hợp….
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu những vấn đề chung về chính sách cơng, sự lãnh đạo
của Đảng đối với chu trình chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay, liên hệ việc
hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung tiểu luận gồm 2 chương, 7 tiết.


5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH CƠNG, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1. Khái niệm chính sách cơng
1.1. Khái niệm chính sách
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách:
Theo James Anderson (2003): "Chính sách là một q trình hành động

có mục đích được theo đuổi một cách kiên định bởi một hoặc nhiều chủ thể
trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm"; Chính sách là hành động
của các chủ thể nhằm quyết định cái gì được thực hiện.
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện bởi nhiều chủ thể khác
nhau, ở những phạm vi và tầng nấc khác nhau: Chính sách của Liên hiệp
quốc, chính sách của một đảng chính trị, chính sách của nhà nước, chính sách
của chính quyền địa phương, chính sách của một bộ, chính sách của một tổ
chức, đồn thể, hiệp hội, chính sách của một doanh nghiệp…
Căn cứ vào phạm vi, quy mơ ảnh hưởng và tính chất của các chủ thể
hoạch định chính sách mà người ta chia chính sách thành chính sách cơng và
chính sách tư. Theo đó, “chính sách tư” là chính sách do các tổ chức, các
doanh nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể… ban hành để điều chỉnh các mối quan
hệ cũng như làm cơ sở cho việc triển khai hoạt động của tổ chức ấy. Các
chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng
chỉ có hiệu lực thi hành trong nội bộ tổ chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất
riêng biệt. Cịn “chính sách cơng” là những chính sách do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng
đồng. Do được ban hành và thực thi bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(cơ quan cơng quyền hay cịn gọi là cơ quan thực thi quyền lực cơng) nên
chính sách cơng được coi là một trong những công cụ quản lý quan trọng của
nhà nước.
1.2. Khái niệm chính sách cơng
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách
cơng vẫn là một chủ đề sơi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Sau đây


6
là một số định nghĩa chính sách cơng khá tiêu biểu của các học giả nước
ngoài và trong nước.
William Jenkin cho rằng: "Chính sách cơng là một tập hợp các quyết

định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị
gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục
tiêu đó"(William Jenkin, 1978).
Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công,
song định nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ơng, "Chính sách
cơng là cái mà nhà nước lựa chọn làm hay không làm"(Thomas R. Dye,
1984). Bốn mặt quan trọng của định nghĩa này là:
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt
động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của
mọi công dân".
Ở Việt Nam, có quan điểm cho rằng chính sách được hiểu là đường lối
cụ thể của chủ thể quyền lực công về một lĩnh vực nhất định trong một giai
đoạn xác định cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
Theo định nghĩa này, một chính sách thường gồm ba bộ phận cấu
thành: 1) đường lối cụ thể về một lĩnh vực nhất định trong một thời gian xác
định, 2) biện pháp thực hiện, 3) kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách có thể hiểu như sau:
"Chính sách cơng là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt
động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời
sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định".
1.3. Quy trình chính sách cơng
Quy trình chính sách cơng là những bước đi cơ bản, tất yếu. bao qt
tồn bộ đời sống của một chính sách, kể từ khi nảy sinh ý tưởng (vấn đề chính
sách) tới việc định hình, hồn chỉnh, thi hành, kiểm nghiệm, sửa đổi hoặc hủy
bỏ.
Quy trình chính sách cơng gồm:
- Hoạch định chính sách cơng


7

- Thực thi chính sách cơng
- Đánh giá, tổng kết chính sách cơng.
2.Hoạch định chính sách cơng
2.1.Khái niệm hoạch định chính sách cơng
Hoạch định chính sách cơng (Public Policy Making ) là giai đoạn đầu
tiên trong quy trình xây dựng một chính sách. Là việc xây dựng một chính
sách mới theo yêu cầu quản lý, bao gồm việc nghiên cứu đề xuất ra một chính
sách và ban hành chính sách đó. Q trình hoạch định chính sách do nhiều
khâu hợp thành với ảnh hưởng tác động lẫn nhau tương đối phức tạp. Thực
chất hoạch định chính sách cũng là một quy trình với các bước đi cụ thể.
Sản phẩm của giai đoạn hoạch định chính sách khơng phải là những kết
quả của các hoạt động thực tế, mà ó thường được biểu hiện dưới dạng các
quyết định do các cấp có thẩm quyền ban hành để đưa vào áp dụng trong thực
tiễn.
2.2.Vị trí, vai trị của họach định chính sách cơng
Hoạch định chính sách có vị trí quyết định đối với tồn bộ quy trình
chính sách, vì:
Thứ nhất, trên cơ sở cho ra đời một chính sách tồn tại thường xuyên và
liên hệ mật thiết với đời sống xã hội, hoạch định chính sách khởi đầu, mở
đường cho một quy trình chính sách, bằng việc định ra mục tiêu, cách thức và
biện pháp đạt tới mục tiêu đó.
Thứ hai, là giai đoạn quan trọng đầu tiên trong quy trình chính sách, sản
phẩm của hoạch định chính sách vừa là điều kiện để tiến hành giai đoạn tiếp
theo, vừa là căn cứ để đánh giá tồn bộ quy trình chính sách.
Thứ ba, việc đề ra một chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tế
sẽ đem lại kết quả tích cực trên thực tiễn. Chính sách là những cơng cụ vĩ mô
của Nhà nước để điều tiết và quản lý các q trình kinh tế- xã hội. Chính sách
đúng đắn và phù hợp sẽ đảm bảo cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và qua đó góp phần tích
cực vào việc củng cố quyền lực Nhà nước.



8
Đối với một quốc gia cũng như một tổ chức, việc xác định chính sách là
vơ cùng cần thiết bởi đó là xác định hướng đi gắn với lập kế hoạch dài hạn để
có thể phát triển bền vững. Trong một thế giới đa dạng, phức tạp, thay đổi
nhanh chóng hiện nay thì sự lựa chọn và định hướng chính sách có ý nghĩa
quyết định đến tương lai mỗi quốc gia; thể hiện tính chủ động của các chủ thể
trong việc lựa chọn con đường phát triển của mình.
3. Các căn cứ chủ yếu để hoạch định chính sách cơng
3.1. Căn cứ chính trị
Bất kỳ một chính sách nào của nhà nước đều mang tính chính trị, có
nghĩa là nó căn cứ vào đường lối chính trị và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cầm
quyền, phục vụ đường lối và tư tưởng đó. Chính sách là cơng cụ quản lý của
Nhà nước, hướng vào những mục tiêu của Nhà nước, mà những mục tiêu này
luôn thể hiện bản chất và phương hướng của Đảng cầm quyền.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, chính trị thể hiện mối quan hệ giữa các giai
cấp, các đảng phái, bao gồm các đảng chính trị, các nhóm có áp lực. Sự cạnh
tranh giữa các đảng phái và cuộc đấu tranh mạnh mẽ cho sự thăng tiến, quyền
chỉ huy, kiểm soát ảnh cho ảnh hưởng và vị trí của đảng mình, tạo nên mơi
trường chính trị của những quốc gia này. Song, quyền lực chính trị thực tế tập
trung vào tay đảng (hay liên minh đảng) chính trị đang cầm quyền trong giai
đoạn đó. Ở nước theo chế độ đại nghị, thủ tướng và nội các là do đảng nắm đa
số ghế trong quốc hội lập nên, vì vậy đương nhiên nhà nước sẽ phục vụ cho
đường lối chính trị của đáng đó. Trong các nước theo chế độ tổng thống, tuy
tổng thống là người đứng đầu quốc gia, nắm quyền hành pháp tối cao và
thành lập nên nội các, song các chính sách của chính phủ đề ra đều phải được
quốc hội thơng qua. Do đó, ngay cả trong trường hợp tổng thống khơng phải
người của đảng chiếm đa số thì những chính sách của chính phủ vẫn phản ánh
lợi ích của đảng này. Như vậy, các chính sách của chính phủ ln tn theo

đường lối chính trị của đảng (hoặc liên minh đảng) cầm quyền trong giai đoạn
đó. Có thể nói, chính trị quyết định nội dung của chính sách cũng như quyết
định việc lựa chọn giữa các phương án chính sách đưa ra. Vì vậy, khi hoạch


9
định một chính sách, cần xác định rõ: chính sách dự định ban hành chịu tác
động của những yếu tố chính trị nào, chịu ảnh hưởng của những lực lượng
chính trị nào và những tác động chính trị nào có thể nảy sinh khi thực hiện
chính sách.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước ta thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước. Đảng lãnh đạo
Nhà nước thông qua việc vạch ra cương lĩnh, chiến lược và định hướng về
chính sách. Nhà nước thể chế hóa những đường lối, chủ trương của Đảng
bằng pháp luật và thực thi những đường lối chủ trương đó trong thực tiễn. Vì
vậy, những chính sách do Nhà nước đề ra phải căn cứ vào đường lối, chủ
trương và những định hướng chính sách của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay,
các chính sách của Nhà nước phải được định hướng và đẩy mạnh công cuộc
đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả
cao và bền vững, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
3.2. Căn cứ pháp luật
Trong mỗi quốc gia đều tồn tại những chuẩn mực chung bắt buộc mọi
người phải tuân thủ. Những chuẩn mực chung đó được cơ quan quyền lực tối
cao của nhà nước thơng qua và ban hành dưới hình thức văn bản pháp luật.
Hệ thống pháp luật tạo nên những khuôn khổ pháp lý quy định và điều chỉnh
tất cả các quan hệ xã hội. Các chính sách cơng cũng phải căn cứ vào hệ thống

pháp luật hiện hành.
Bản thân các thể chế pháp luật không gây ra hành động. Chúng tác động
đến các chính sách bằng cách định hình sự hiện diện của vấn đề và các giải
pháp, cũng như các phương pháp để thực hiện các giải pháp đó. Các thể chế
pháp luật cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những quy tắc hành
động, tiêu chuan xây dựng chính sách, những ràng buộc và khn khổ đối với


10
chính sách. Nói cách khác, các chính sách khơng được trái với những quy
định pháp luật hiện hành. Điều đó có nghĩa là khi hoạch định một chính sách
cần nắm được tất cả các quy định pháp luật đang điều tiết lĩnh vực liên quan
đến chính sách đó.
Đồng thời, chính sách lại là một nguồn tạo ra những thể chế pháp luật
mới. Thông thường, sau khi nhà nước ban hành một chính sách, để thực thi
chính sách đó trong cuộc sống, nhà nước thường phải thể chế hóa chính sách
đó thành các quy phạm pháp luật vừa khuyến khích, vừa cưỡng chế đối với
việc thi hành chính sách đó.
Ở nước ta, pháp luật Nhà nước là một hệ thống pháp luật thống nhất,
phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, được phát triển từng bước phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa
mà Đảng đã đề ra. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp mới nhất của nước ta là Hiến pháp được
ban hành vào năm 2013. Cho đến nay, nhà nước ta đã ban hành được một hệ
thống pháp luật bao quát và điều chỉnh các qua hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực
đời sống. Những văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hình
thành nền kinh tế thị trường ở nước ta và việc quản lý kinh tế theo cơ chế thị
trường ngày càng đi vào nề nếp.
Hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành ở nước ta là sự thể chế hóa
Cương lĩnh, Chiến lược và định hướng chính sách… của Đảng ta. Vì vậy, các

chính sách khơng những phải căn cứ vào những quan điểm, đường lối của
Đảng, mà còn phải tuân thủ những quy phạm pháp luật được thể chế hóa từ
đường lối chính trị đó. Mặt khác, một chính sách mới được ban hành đồng
thời lại tạo ra một lĩnh vực điều tiết mới của hệ thống pháp luật. Có thể nói,
chính sách gắn bó chặt chẽ với hệ thống luật pháp, có mối quan hệ nhân quả
và chế ước lẫn nhau.
3.3. Căn cứ kinh tế
Mỗi chính sách đề ra phải dựa vào hồn cảnh kinh tế cụ thể, chúng
không thể vượt quá điều kiện kinh tế và nguồn lực kinh tế hiện có. Ở tầm vĩ


11
mơ, những điều kiện kinh tế đó là trình độ phát triển của nền kinh tế, mức độ
tăng trưởng kinh tế, sự phát triển và nhu cầu phát triển của lĩnh vực kinh tế
mà chính sách tác động đến…Khi hoạch đinh chính sách cần xác định những
yếu tố kinh tế nào tác động đến lĩnh vực chính sách dự định ban hành, và ảnh
hưởng kinh tế có thể phát sinh khi thực hiện chính sách đó. Việc tính đến các
yếu tố kinh tế này bảo đảm cho chính sách được đề ra có tính khả thi trong
điều kiện kinh tế hiện có.
Ở nước ta, cơng cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng
về kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn là một trong những nước cịn
nghèo, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh
doanh còn thấp, cơ sở lạc hậu,… Trong mơi trường kinh tế đó, các giải pháp
của chính sách phải phù hợp với những điều kiện kinh tế hiện có.
3.4. Căn cứ xã hội
Việc đề ra một chính sách phải xuất phát từ những căn cứ xã hội. Đó là:
mức sống của dân cư, tình trạng công ăn việc làm, sự công bằng xã hội, trình
độ dân trí, chất lượng giáo dục, y tế,…..
Nếu các căn cứ xã hội ở mức tiến bộ thì việc đề ra các giải pháp của một
chính sách cơng có thể dựa vào ý thức tự giác của nhân dân, được sự ủng hộ

của nhiều người, ít bị những yếu tố xã hội tiêu cực cản trở. Các căn cứ xã hội
là điều kiện rất quan trọng, đảm bảo cho sự thành cơng của một chính sách.
Vì vậy, khi hoạch định chính sách, ln phải xác định rõ các yếu tố xã hội nào
tác động đến lĩnh vực chính sách đó và ảnh hưởng xã hội có thể xuất hiện khi
thực thi chính sách.
Ở nước ta, điều kiện xã hội có nhiều mặt tiến bộ đời sống vật chất của
đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, trình độ dân trí và hưởng thụ văn
hóa được nâng cao,…Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tiêu cực và những vấn đề xã
hội bức bách đang đặt ra như nạn tham nhũng, buôn lậu chưa ngăn chặn được
kịp thời, việc làm đang là vấn đề gay gắt, sự phân hóa giàu nghèo tăng nhanh,
tệ nạn xã hội phát triển,…
3.5. Căn cứ khoa học- công nghệ


12
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát
triển nhảy vọt, làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và hình
thành nên kinh tế tri thức. Các nước đang phát triển có cơ hội để thu hẹp
khoảng cách, cải thiện vị thế của mình, đồng thời cũng đứng trước nguy cơ tụt
hậu xa hơ và bị phụ thuộc nếu không tranh thủ được cơ hội và khắc phục các
yếu kém để vươn lên. Khoa học- công nghệ là chiếc chìa khóa mở đường đua
nước ta bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học- cơng nghệ
ở đây bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Do đó, mọi chính
sách đề ra đều phải tiếp thu và tận dụng những thành tựu hiện có của khoa học
và cơng nghệ. Chính những yếu tố khoa học- công nghệ tác động rất lớn đến
sự thành cơng của một chính sách.
3.6. Bối cảnh quốc tế
Trong suốt những thập kỷ qua, bối cảnh quốc tế đã có nhiều thay đổi.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thối trào nhưng vẫn có điều
kiện và khả năng phục hồi và phát triển. Thế giới đang thay đổi nhanh chóng

với những biểu hiện tuy rất đa dạng nhưng rất nhất qn về chiều hướng: tồn
cầu hóa và kinh tế tri thức. Tồn cầu hóa là một xu thế khách quan, ngày càng
có nhiều nước tham gia, đang bị một số nước phát triển và một số tập đồn
kinh tế xun quốc gia chi phối, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực.
Tồn cầu hóa trở thành một động lực chính thúc đẩy tương tác giữa các quốc
gia trên mọi lĩnh vực. Tồn cầu hóa dẫn đến sự thay đổi về chính sách liên
quốc gia cũng như chính sách của từng quốc gia nhằm tăng tính hiệu quả kinh
tế thông qua việc hội nhập kinh tế, nới lỏng sự kiểm soát các thị trường quốc
gia. Trong bối cảnh đó, các chính sách của nhà nước ta phải tập tính đến
những yếu tố quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, song phải trên nguyên tắc
giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, các chính sách của Nhà nước phải được xác lập dựa trên những
căn cứ nhất định. Những căn cứ này làm cho chính sách đề ra trở thành một
bộ phận thống nhất của hệ thống chính sách. Vừa giải quyết mục tiêu riêng
của từng chính sách, vừa góp phần thực hiện mục tiêu chung của quốc gia.


13
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỤ THỂ
1. Khái qt về tình hình giảm nghèo ở nước ta trong những năm
gần đây
Nghèo đói tập trung chủ yếu ở khu vực nơng thơn, đặc biệt là ở các vùng
khó khăn như miền núi, hải đảo. Hơn 95% người nghèo sống ở khu vực nông
thôn. Tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm ở nông thôn cao gấp 10 lần so với ở
thành thị. Mức độ nghèo còn rất cao ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, nhưng ở
những vùng này tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại trong những năm
gần đây. Nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ nghèo rất cao và việc giảm nghèo cịn
mang tính chất kinh niên ở một số nhóm dân tộc ít người gặp nhiều khó khăn,
đòi hỏi nhiều biện pháp lâu dài. Chỉ chiếm 14,5% tổng dân số nhưng đồng
bào dân tộc ít người chiếm đến một nửa dân số nghèo ở Việt Nam.

Bên cạnh những thách thức về giảm nghèo ở nhóm dân tộc thiểu số và
những vùng khó khăn, q trình đơ thị hố nhanh chóng và sự tăng lên ồ ạt
của dịng người di cư từ nông thôn về các thành phố lớn cũng làm tăng áp lực
giảm nghèo ở khu vực thành thị. Nghèo đói ở khu vực thành thị khơng chỉ thể
hiện ở thu nhập thấp, mà còn thể hiện trong thiếu hụt về tiếp cận các dịch vụ y
tế, giáo dục, nước sạch và vệ sinh, nhà ở, các mạng lưới an sinh xã hội, cơ hội
tham gia vào thị trường lao động và các hoạt động của cộng đồng. Đặc biệt,
đặc tính khơng ổn định và hay di chuyển của những đối tượng di cư tạm thời
hoặc không có đăng ký hộ khẩu, cũng khiến cho họ khó tiếp cận với các trợ
giúp và dịch vụ công.
Chiến lược tồn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo tại
Việt Nam 10 năm qua đã đạt được những kết quả nổi bật. Đã có hơn 500
nghìn lượt hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở, 542 triệu lượt người được hỗ trợ
bảo hiểm xã hội. Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện.
Thơng qua Chương trình 135 giai đoạn 2, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn,
bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% năm 2006 xuống cịn 28,8% năm 2010;
thu nhập bình qn đầu người là 4,2 triệuđồng/người/năm;…Tỷ lệ hộ nghèo


14
giảm nhanh, hoàn thành vượt mục tiêu Quốc hội đề ra từ 14,2% năm 2010
xuống còn 9,6% năm 2012.
Mục tiêu Việt Nam đặt ra đến cuối năm 2013 là tỷ lệ nghèo của cả nước
giảm 2%/năm, từ 9,6% xuống còn 7,6%. Riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện
nghèo giảm bình qn 5%/năm, từ 43,89% năm 2012 xuống cịn 38,89% năm
2013. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn dưới 5% theo
chuẩn nghèo hiện hành; tỷ lệ nghèo ở các huyện nghèo còn dưới 30%;…
Tuy nhiên, Chương trình xố đói, giảm nghèo vẫn cịn một số hạn chế:
tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững; tốc độ giảm nghèo có xu
hướng chậm lại, nguy cơ tái nghèo cao khi có những biến động về kinh tế như

khủng hoảng, thất nghiệp cũng như những rủi ro về dịch bệnh, ốm đau, thiên
tai khốc liệt và bất thường do biến đổi khí hậu; khoảng cách giàu-nghèo giữa
các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi, có vùng
cịn trên 50% hộ nghèo, cá biệt có vùng cịn 60-70% hộ nghèo;…Ngun
nhân cơ bản của tình trạng trên là nhiều cơ chế, chính sách còn chồng chéo
dẫn đến việc phân bổ, hiệu quả sử dụng các nguồn lực chưa cao; Nhiều địa
phương còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chưa tự lực vươn lên
thốt nghèo; bên cạnh đó vẫn cịn một số cơ chế, chính sách chưa phù hợp với
thực tiễn nhưng việc sửa đổi, bổ sung cịn chậm; cơng tác tuyên truyền, vận
động nâng cao nhận thức về giảm nghèo chưa được tổ chức thường xun;…
Để xố đói, giảm nghèo bền vững, khơng chỉ cần có các chính sách
giúp các hộ nghèo thốt nghèo mà cịn phải có các chính sách phù hợp và thoả
đáng để những hộ không nghèo khơng bị rơi vào nghèo đói; cần tiếp tục xây
dựng và triển khai đồng bộ Chương trình, trong đó tập trung các biện pháp
xóa đói, giảm nghèo tại các vùng và các tỉnh có số hộ nghèo lớn nhất so với
cả nước, nhất là ở các vùng đặc biệt khó khăn; đa dạng hoá huy động nguồn
lực trong nước và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, và đổi mới phương thức thực
hiện; giảm nghèo gắn với dạy nghề và giải quyết việc làm, nâng cao trình độ
và kiến thức cho người nghèo để họ nâng cao năng lực, tự vươn lên thoát
nghèo; tạo cơ hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội, trước hết là người còn khả


15
năng lao động tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ cơng thiết yếu; bình đẳng
về cơ hội giáo dục, đào tạo, dạy nghề, việc làm, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở,
văn hoá, thể dục thể thao.
Điểm nổi bật trong chính sách giảm nghèo của Nhà nước là khơng chỉ
chú ý các hộ nghèo mà còn hướng tới hộ cận nghèo, hộ mới thốt nghèo nhằm
hạn chế tái nghèo, có như vậy mới bảo đảm giảm nghèo bền vững. Chính phủ
đã nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho một số đối tượng cận nghèo;

chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi đối với hộ mới thốt nghèo thực hiện theo
hướng cho hộ mới thoát nghèo tiếp tục hưởng chế độ vay vốn tín dụng ưu đãi
trong thời hạn nhất định; cho vay ưu đãi có lãi suất cho hộ nghèo để nâng cao
ý thức và trách nhiệm sử dụng vốn;…Tiếp tục đầu tư hiệu quả cho nông
nghiệp và nơng thơn.
2. Những căn cứ để hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo ở
nước ta
2.1. Căn cứ chính trị
Khi hoạch định một chính sách bất kỳ nói chung hay chính sách xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam nói riêng trước hết chúng ta cần phải căn cứ vào nền
thể chế chính trị của nước ta là nước Việt nam dân chủ cộng hòa và do Đảng
cộng sản lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra cương lĩnh,
chiến lược và định hướng về chính sách. Nhà nước thể chế hóa những đường
lối, chủ trương của Đảng bằng pháp luật và thực thi những đường lối chủ
trương đó trong thực tiễn. Vì vậy, những chính sách do Nhà nước đề ra phải
căn cứ vào đường lối chủ trương và những định hướng chính sách của Đảng.
Trong q trình hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo cần lưu ý đến
những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, để từ đó có những giải
pháp và định hướng giải quyết vấn đề đói nghèo phù hợp với mục tiêu phát
triển chung của đất nước.
2.1.1. Quan điểm của Đảng
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã đề ra chủ trương xóa đói
giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân


16
cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trở thành một
chủ trương chiến lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các
kỳ Đại hội của Đảng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng

đặc biệt của cơng tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải nhanh chóng đưa các
hộ nghèo thốt ra khỏi hồn cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát
triển chung của đất nước; đề ra Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo
trong 5 năm 1996 - 2000 cùng với 10 Chương trình kinh tế - xã hội khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xố đói giảm nghèo (Chương
trình 133) cho giai đoạn 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp
tục bổ sung Chương trình 135 -Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng
thiết yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục
tiêu chính của Chương trình này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng
như: hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế....tại 1715 xã
nghèo nói trên. Kết quả là đến năm 2000 tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10%
theo chuẩn cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy, không thể chỉ theo đuổi
mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững kết quả giảm nghèo đã
đạt được, tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác giảm nghèo, đặc biệt
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quan điểm giảm nghèo
bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng
là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo. Quan
tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng
cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi khác,
tạo điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với
việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết
để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành
nghề, tăng nhanh thu nhập…Nâng dần mức sống của các hộ đã thốt nghèo,
tránh tình trạng tái nghèo”.


17
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu

nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người
nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách....Nhà nước tăng đầu tư từ ngân
sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung
cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là
về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách...và
dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và là yếu tố quan
trọng góp phần ổn định xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực
hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa
dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất
là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm
giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có
các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm
chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã nêu đến năm
2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội
khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%,
trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở
khu vực thành thị dưới 4%; có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5
giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt
trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 1,5%/năm.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2025, tỉ lệ nghèo đa chiều duy
trì mức giảm 1 - 1,5%/năm mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra;
phấn đấu đến năm 2030, cơ bản khơng cịn huyện nghèo, xã đặc biệt khó
khăn, ngày 23/6/2021, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm


18
2030. Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo

công tác giảm nghèo bền vững; xác định giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ
chính trị quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và tồn
xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
2.1.2. Quan điểm của Nhà nước
Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu
cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020: Giảm nghèo bền vững là
một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 - 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của
người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số;
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng
cách chênh lệch giữa thành thị và nơng thơn, giữa các vùng, các dân tộc và
các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5
lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã nghèo
giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn.
Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề
y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày
càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở
các huyện nghèo; xã nghèo, thơn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư
đồng bộ theo tiêu chí nơng thơn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao
thông, điện, nước sinh hoạt.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong giai đọan 2011 - 2015 sẽ tiếp
tục thực hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã và đang
thực hiện: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương
trình 135 giai đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của chính phủ và các
chương trình phát triển kinh tế xã hôi khác. Nguồn lực đề thực hiện công tác
giảm nghèo sẽ được huy động tối đa, khơng chỉ bằng Ngân sách Nhà nước mà
cịn huy động được sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của các tập
đồn kinh tế, các Tổng Cơng ty nhà nước, Ngân hàng thương mại…và đặc



19
biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ
người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về
nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ
giao đất, giao rừng; về đào tạo nguồn nhân lực…Đồng thời khắc phục những
hạn chế như: Các chương trình giảm nghèo triển khai chưa tồn diện, nhiều
chính sách, chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng cịn mang tình
ngắn hạn, chồng chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại
bị phân tán, dàn trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách
giảm nghèo với chính sách an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện
giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả.
Từ thực tế chất lượng cuộc sống của con người liên quan đến nhiều khía
cạnh khác ngồi thu nhập, năm 2014, Việt Nam đã xây dựng chuẩn nghèo mới
theo phương pháp tiếp cận đa chiều, nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Năm 2015, Chính phủ ban hành chuẩn nghèo
đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, đánh dấu bước quan trọng trong
quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ đo lường nghèo theo thu nhập sang đo
lường nghèo đa chiều. Theo đó, xác định chuẩn nghèo mới thay thế cho chuẩn
nghèo cũ với các tiêu chí thoát nghèo cao hơn. Chuẩn nghèo xác định theo 10
chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm: Y tế, giáo
dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin. Những chỉ tiêu này xác định mục
tiêu giảm nghèo một cách bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều
có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình
hội nhập và phát triển. Việc sử dụng chuẩn nghèo quốc gia không những là
cần thiết cho việc xây dựng các chính sách, chương trình giảm nghèo và cho
công tác giám sát nghèo ở Việt Nam mà còn giúp Việt Nam theo dõi tiến độ
trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc
(SDG). Việt Nam đã trở thành một trong những nước đi đầu ở khu vực Châu
Á-Thái Bình Dương trong áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để

giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh. Để nâng cao hiệu quả của chính sách,
Chính phủ đã gộp tất cả các chương trình xóa đói, giảm nghèo lại thành một


20
chương trình là “Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2016 - 2020”. Trong đó bao gồm 5 dự án thành phần là: Chương trình
30a (giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện nghèo); Chương trình 135
(Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc
thiểu số và miền núi); Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân
rộng mơ hình giảm nghèo trên địa bàn các xã ngồi Chương trình 30a và
Chương trình 135; Truyền thông và giảm nghèo về thông tin; Nâng cao năng
lực và giám sát, đánh giá thực hiện chương trình.
Áp dụng thành cơng phương pháp tiếp cận mới, năm 2018, tốc độ giảm
nghèo của Việt Nam được kiểm soát, đời sống người dân ổn định, cơ sở hạ
tầng tại vùng sâu, vùng xa, vùng cao đã được cải thiện. Người dân Việt Nam
khơng chỉ có cơm ăn, áo mặc, được học hành, mà còn ăn no, ăn ngon, mặc
ấm, mặc đẹp; hạ tầng thiết yếu chăm lo cho con người ngày càng tốt hơn.
Năm 2019, tỉ lệ hộ nghèo của Việt Nam giảm xuống cịn 3,75%, trong đó tỉ lệ
hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn 27,85%. Đến cuối năm 2020, tỉ lệ hộ
nghèo cả nước ước giảm còn 2,75%, tỉ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm
còn 24%. Hạ tầng cơ sở tại các địa phương nghèo và đặc biệt khó khăn được
cải thiện đáng kể. Trong giai đoạn 2016 - 2019, đã có gần 17.800 cơng trình
hạ tầng thiết yếu được khởi cơng mới và đầu tư chuyển tiếp từ giai đoạn
trước, trong đó khoảng 15.000 cơng trình đã hồn thành và đưa vào sử dụng,
góp phần làm thay đổi rõ rệt tình hình kinh tế - xã hội tại các huyện nghèo,
các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo…
Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV chính thức thông qua Nghị quyết
phê duyện chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững giai đoạn 2021-2025. Nghị quyết khẳng định công tác giảm nghèo bền

vững là chủ trương lớn trong xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời góp
phần khơi dậy khát vọng vươn lên thoát nghèo của người dân.
2.2. Căn cứ pháp luật
Hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành ở nước ta là sự thể chế hóa
Cương lĩnh, Chiến lược và định hướng chính sách… của Đảng ta. Vì vậy, các


21
chính sách khơng những phải căn cứ vào những quan điểm, đường lối của
Đảng, mà còn phải tuân thủ những quy phạm pháp luật được thể chế hóa từ
đường lối chính trị đó. Mặt khác, một chính sách mới được ban hành đồng
thời lại tạo ra một lĩnh vực điều tiết mới của hệ thống pháp luật. Có thể nói,
chính sách gắn bó chặt chẽ với hệ thống luật pháp, có mối quan hệ nhân quả
và chế ước lẫn nhau.
Dưới đây là những văn bản để thể chế hóa Cương lĩnh, Chiến lược và
định hướng của Đảng về xóa đói giảm nghèo ở Việt nam. Căn cứ vào những
văn bản dưới đây để có thể hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo:
Quyết đinh của thủ tướng chính phủ số 143/2001/QĐ-TTG ngày 27
tháng 9 năm 2001 phê duyệt “ Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm
nghèo và việc làm giai đoạn 2001- 2005.
Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 08 tháng 10 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2012 - 2015.
Nghị quyết số 13/2011/QH13 ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Quốc
hội khóa XIII về Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011 - 2015;
Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về
định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020;
Quyết định số 135/2009/QĐ-TTg ngày 04 tháng 11 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các
Chương trình mục tiêu quốc gia;

Quyết định số 2406/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Danh mục các Chương trình mục tiêu quốc gia
giai đoạn 2012 - 2015;
Quyết định số 1722/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 9 năm 2016 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2016 - 2020.
2.3. Căn cứ kinh tế
Ở nước ta, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng
về kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay,nước ta vẫn là một trong những nước
nghèo, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh


22
doanh cịn thấp, cơ sở lạc hậu,… Trong mơi trường kinh tế đó, các giải pháp
của chính sách phải phù hợp với những điều kiện kinh tế hiện có.
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về
kinh tế là điều kiện tiên quyết để xố đói giảm nghèo về văn hố, xã hội .Vì
vậy, phải tiến hành thực hiện xố đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh
sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách
mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nơng nghiệp trên tồn quốc theo hướng
sản xuất hàng hố, phát triển cơng nghiệp nơng thơn, mở rộng thị trường nông
thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn vào sản xuát tiểu thủ
công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để xố đói giảm
nghèo ở nơng thơn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem
như là 1 giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoạt cho phát triển ở nơng thơn, nhằm
xố đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay
Bởi điều kiện kinh tế có tác động rất lớn đến q trình xây dựng một
chính sách nên trước khi hoạch định một chính sách xóa đói giảm nghèo bất
kỳ ở Việt Nam thì cần phải căn cứ vào điều kiện kinh tế và nguồn lực của đất

nước.
2.4. Căn cứ xã hội
Việc đề ra một chính sách phải xuất phát từ những căn cứ xã hội. Đó là:
mức sống của dân cư, tình trạng cơng ăn việc làm, sự cơng bằng xã hội, trình
độ dân trí, chất lượng giáo dục, y tế,…..
Nếu các căn cứ xã hội ở mức tiến bộ thì việc đề ra các giải pháp của một
chính sách cơng có thể dựa vào ý thức tự giác của nhân dân, được sự ủng hộ
của nhiều người , ít bị những yếu tố xã hội tiêu cực cản trở. Các căn cứ xã hội
là điều kiện rất quan trọng, đảm bảo cho sự thành cơng của một chính sách.
Ngược lại nếu là căn cứ xã hội ở mức thấp thì việc thực hiện chính sách sẽ rất
dễ gặp phải khó khăn cản trở. Chẳng hạn như trong việc hoạch định chính
sách xóa đói giảm nghèo, ngồi những căn cứ về kinh tế thì cũng phải tính
đến những điều kiện xã hội như trình độ dân trí của nhân dân có đủ để sử


23
dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước hay khơng? Vì vậy, khi
hoạch định chính sách, ln phải xác định rõ các yếu tố xã hội nào tác động
đến lĩnh vực chính sách đó và ảnh hưởng xã hội có thể xuất hiện khi thực thi
chính sách.
2.5. Căn cứ khoa học- công nghệ
Trong cách tiếp cận vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo, phải có sự
nhận thức đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của cơng tác xố đói, giảm nghèo.
Như chúng ta đã biết, đói nghèo là một hiện tượng mang tính tồn cầu; nó
khơng chỉ tồn tại ở những nước nghèo có thu nhập thấp, mà vẫn có ở ngay
trong những nước phát triển. Do vậy, xố đói, giảm nghèo đã được đưa vào
chương trình nghị sự của Liên Hiệp quốc. Có thể nói, xố đói, giảm nghèo là
chiến lược của các quốc gia, nhưng đối với Việt Nam, nó càng có ý nghĩa đặc
biệt vì đó là mục tiêu hàng đầu của con đường phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, giải quyết vấn đề nghèo đói khơng chỉ dựa

vào kinh nghiệm trong nước mà địi hỏi phải có phương pháp tiếp cận giải
quyết một cách khoa học - đó là gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo, giảm
nghèo đói phải bảo đảm tính tồn diện, cơng bằng, bền vững và hội nhập.
Bên cạnh đó, cần phân tích một cách khách quan và khoa học nguyên
nhân của nghèo đói để từ đó có những giải pháp hữu hiệu xố đói, giảm
nghèo. Thực tế cho thấy, nghèo đói xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có các nguyên nhân khách quan từ điều kiện và môi trường tự
nhiên, kinh tế, xã hội,…nhưng bên cạnh đó cần chú ý tới các nguyên nhân
chủ quan của bản thân người nghèo. Ngoài ra cần phải chú ý tới một nguyên
nhân vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan đối với đói nghèo;
đó chính là sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính quyền các cấp.
2.6. Bối cảnh quốc tế
Trong những năm gần đây, toàn cầu hóa trước hết là tồn cầu hóa kinh tế
đã hiện ra rõ nét và trở thành xu thế khách quan, đặt các quốc gia- dân tộc vào
những cơ hội phát triển mới, đồng thời cũng mở ra những thách thức mới. Nó
tác động trực tiếp đến q trình xây dựng chính sách ở mọi quốc gia trong đó


24
có Việt Nam. Tồn cầu hóa đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ hướng đến việc
hội nhập và mở cửa, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, đưa nền
kinh tế nước ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Qúa trình tồn cầu hóa tác động đến q trình hoạch định chính sách
,trong đó có cả q trình hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo. Tồn cầu
hóa mở ra cơ hội để Việt Nam tiếp xúc với những nền văn hóa khác, có cơ hội
giao lưu học hỏi thêm những kinh nghiệm có ích cho việc hoạch định các
chính sách. Ngồi ra từ khi Việt Nam ra nhập liên hợp quốc đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ từ vốn đầu tư cho đến các kinh nghiệm phát triển kinh tế- xã
hội.
3. Một số hạn chế và giải pháp khi hoạch định chính sách xóa đói

giảm nghèo ở nước ta
3.1. Hạn chế
Q trình hoạch đính chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam tuy đã
tuân thủ dựa theo những căn cứ cần thiết nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn
chế:
Khi hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo cần phải căn cứ vào điều
kiện kinh tế- xã hội ở địa bàn đó. Nhưng phần lớn những khu vực cần phải
xóa đói giảm nghèo thì dân cư có điều kiện kinh tế thấp thuộc những khu vực
tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, khu vực có điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, dân cư sống phân tán, cơ sở hạ tầng lạc
hậu, kinh tế chậm phát triển; đời sống vật chất và tinh thần còn thấp kém, ít
được tiếp cận với các dịch vụ xã hội và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Do
khơng có điều kiện phát triển trình độ văn hóa nên sẽ gây khó khăn và ảnh
hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách.
Tuy chúng ta đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng chưa thực sự cân đối với khả năng
của NSNN, do đó ít nhiều đã tạo áp lực trong việc bố trí dự tốn NSNN hàng
năm. Hoặc dù Nhà nước luôn dành nguồn lực lớn cho giảm nghèo nhưng do


25
điều kiện đất nước cịn nhiều khó khăn, nên NSNN vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu.
Vì hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo phải dựa trên cả căn cứ
bối cảnh thế giới. nên khi bối cảnh thế giới thay đổi thì bắt buộc q trình
hoạch định chính sách cũng phải thay đổi sao cho phù hợp với xu hướng phát
triển chung của tồn cầu.
Thực hiện xóa đói giảm nghèo đa số là ở địa bàn gặp nhiều khó khăn về
phát triển kinh tế- xã hội, trình độ dân trí thấp khiến cho việc xác định hộ
nghèo chưa được thực hiện thống nhất ở các địa phương

3.2. Giải pháp
Tăng cường đầu tư kinh phí xây dựng và duy trì hoạt động, nâng cấp
đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt
chú ý các xã, thơn, bản có hồn cảnh đặc biệt khó khăn. Đào tạo đội ngũ cán
bộ, có trình độ tiếp nhận, khai thác có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa ở
cơ sở.
Chăm lo cơng tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tổ chức thực
hiện nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ xã thơn, bản. Có chính sách và chế độ đãi
ngộ để thu hút lực lượng cán bộ trẻ, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học,
cao đẳng về cơng tác ở vùng đặc biệt khó khăn.
Thực hiện quy hoạch lại dân cư các vùng khó khăn, vùng sâu, thôn bản
nghèo để việc đầu tư vừa tiết kiệm vừa phát huy tối đa hiệu quả đồng vốn.
Để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cùng gánh vác trách nhiệm với
NSNN thì cần phải đẩy mạnh xã hội hóa trong cơng tác xóa đói giảm nghèo.
Ngồi việc huy động các nguồn vốn đóng góp tự nguyện của các cá nhân, tập
thể, tổ chức, doanh nghiệp...,


×