Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN MÔN HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.73 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN MÔN HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH
Tìm hiểu khâu đánh giá trong chu trình hoạch định và thực thi
chính sách công, liên hệ thực tiễn tại Việt Nam
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu, tìm hiểu lý thuyết và thực tiễn về đánh giá chính sách công ở Việt
Nam chưa được chú trọng nhiều, có chăng nghiên cứu về chính sách công theo những
ngành, lĩnh vực, chứ chưa có cái nhìn tổng thể, đặc biệt là khâu, nội dung đánh giá về
chính sách công. Do đó, để góp phần tìm hiểu và nâng cao nhận thức về chính sách
công, cũng như nội dung đánh giá chính sách công hiện nay và đưa ra một số ý tưởng
đề nâng cao nội dung đánh giá chính sách công, nên học viên lựa chọn nội dung “Tìm
hiểu khâu đánh giá trong chu trình chính sách công, liên hệ thực tiễn tại Việt Nam”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài xem xét nội dung chung nhất về khâu đánh giá
chính sách công ở việt nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ đề cập đến những nét khái quát về chính sách
công, cũng như khâu đánh giá chính sách công trong chu trình của chính sách công
của Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Làm rõ nội dung khái niệm chính sách công, nhất là khâu đánh giá trong chu
trình chính sách công, vì khâu đánh giá thường bị xem nhẹ, chưa quan tâm đúng mức
như bản chất của nó.
Góp phần làm sáng tỏ những nội dung có liên quan đến chính sách công khi
nghiên cứu từ thực tiễn, nhằm nâng cao trình độ, nhận thức và lý luận của học viên
liên quan đến nội dung Hoạch định và thực thi chính sách.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và
phương pháp lịch sử - logic, phân tích thực chứng để nghiên cứu, làm rõ mục tiêu của
đề tài.



2

PHẦN II. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM CHÍNH SÁCH CÔNG
1. Khái niệm chính sách
Chính sách trong thực tế được dùng với nhiều nghĩa, có những nghĩa mang tính
nguyên tắc chung và dài hạn như chính sách bình đẳng các dân tộc và quyền tự quyết,
chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thưởng cổ phiếu v.v.. Cũng có khi chính sách
được dùng với nghĩa là một biện pháp nhất thời, cụ thể như “Phải có chính sách với
ông A để ổn định tư tưởng”.
Theo James Anderson (2003): "Chính sách là một quá trình hành động có mục
đích được theo đuổi một cách kiên định bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải
quyết các vấn đề mà họ quan tâm"; Chính sách là hành động của các chủ thể nhằm
quyết định cái gì được thực hiện.
Quan niệm khác thì cho rằng “Chính sách là một kế hoạch hành động được xác
định bởi các cá nhân, các doanh nghiệp, chính phủ và các tổ chức xã hội để đạt được
các mục tiêu của họ”. Chính xác hơn, chính sách là một quá trình hành động trước khi
bắt đầu bất kỳ công việc gì.
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, ở
những phạm vi và tầng nấc khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của
một đảng chính trị, chính sách của Chính phủ, chính sách của chính quyền địa
phương, chính sách của một bộ, chính sách của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, chính
sách của một doanh nghiệp…
Trong nghiên cứu khoa học, các chính sách dùng với nghĩa nào cũng có chung
một điểm: Chúng đều là các quyết định của chủ thể nắm quyền lực đối với một tập thể
nhất định, dù tập thể đó có thể chỉ là một hội nghề nghiệp, câu lạc bộ, công ty tư nhân
hay một quốc gia.
2. Khái niệm về chính sách công hiện nay
Ở Việt Nam, có quan điểm cho rằng chính sách được hiểu là đường lối cụ thể
của một chủ thể quyền lực về một lĩnh vực nhất định trong một giai đoạn xác định

cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách công như đă nêu
trên, song điều đó không có nghĩa là chính sách công mang những bản chất khác
nhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn
mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưng


3

này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa
những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công.
Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách có thể hiểu như sau: "Chính sách
công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm
giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu
xác định".
Hay khái niệm chính sách công có nội hàm là Chính sách của nhà nước, tức chủ
thể nắm quyền lực công, được gọi là chính sách công.
Khoa học chính trị, hiểu một cách ngắn gọn nhất, là môn học nghiên cứu về
nghành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền được tổ chức thành nhà nước. Thông qua việc thực hiện các chính sách của nhà
nước, giai cấp cầm quyền tiến hành các biện pháp nhằm đạt được các mục tiêu của
mình trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Như vậy, chính sách công là một khái niệm chi phối sự hiểu biết của chúng ta
về việc thực thi quyền lực nhà nước. Việc hoạch định và thực thi có hiệu quả các
chính sách, xét cho cùng, là tiêu chí căn bản để đánh giá cả hệ thống chính trị, chứ
không phải là tiêu chí về đa nguyên đa đảng như một số lý thuyết thường nhấn mạnh.
Đầy đủ hơn chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ
thể nắm quyền lực công cộng.
Định nghĩa ở trên nhấn mạnh 3 đặc tính căn bản của đối tượng nghiên cứu:
Thứ nhất, chính sách công không phải các quyết định nhất thời (mang tính tình

thế) của Đảng, chính phủ mà là chương trình hoạt động được suy tính một cách khoa
học, liên quan với nhau một cách hữu cơ và nhằm những mục đích tương đối cụ thể.
Thứ hai, chủ thể hoạch định chính sách cũng là chủ thể nắm quyền lực nhà
nước, và vì vậy có khả năng và công cụ để cưỡng chế hợp pháp. Với nghĩa này, các
chương trình hành động của các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, các đại công ty...
dù là hợp pháp, không phải là chính sách công, vì không có công cụ cưỡng chế quan
trọng nhất của nhà nước là lực lượng vũ trang, và vì các tổ chức phi nhà nước đó cũng
không có độc quyền thu thuế như nhà nước.
Thứ ba, Chính sách công bao gồm những gì được thực sự thi hành chứ không
phải chỉ là những tuyên bố. Kết quả thực tế của chính sách là quan trọng hơn tên gọi
hay ý định ban đầu của chính sách đó. Đây phải là nguyên tắc quan trọng xuyên suốt
đối với các nhà nghiên cứu cũng như hoạch định chính sách.
II. CHU TRÌNH CHÍNH SÁCH CÔNG


4

Chính sách công cần được nhìn nhận như một quá trình từ hoạch định đến thực
hiện cho ra kết quả cuối cùng. Có nhiều cách thức để nhìn nhận các giai đoạn của một
quá trình chính sách như vậy. Về tổng thể, chính sách công có thể được coi là một chu
trình gồm bốn giai đọan: 1) Xác lập nghị trình, 2) Xây dựng và ban hành, 3) Triển
khai thực hiện, 4) Tổng kết và đánh giá tác động.
1. Xác lập nghị trình
Xác lập nghị trình (chương trình nghị sự) chính là việc tìm kiếm sự nhất trí về
mục tiêu căn bản mà chính sách cần đạt. Sở dĩ phải tìm kiếm sự nhất trí vì mỗi người,
mỗi nhóm, mỗi tầng lớp có thể có cách nhìn nhận nguyên nhân chính khác nhau của
mỗi hiện tượng, tức vấn đề mà chính sách muốn giải quyết. Việc nhìn nhận nguyên
nhân (hay các nguyên nhân) chính sẽ ảnh hưởng quan trọng đến nội dung và cách
thức triển khai của chính sách.
2. Xây dựng và ban hành chính sách

Kết quả của việc thảo luận các vấn đề đưa ra trong chương trình nghị sự chính
là sự nhất trí về việc cần thiết phải có các chương trình giải quyết các vấn đề chính
sách. Trong thực tế, sự nhất trí đó phải được cụ thể hoá bằng các kế hoạch hành động,
bằng văn bản pháp quy, tức các quyết định chính sách. Đây chính là khuôn khổ pháp
lý căn bản cho các chương trình hành động cụ thể của các cơ quan liên quan. Đây
không chỉ là kế hoạch có tính kỹ thuật mà còn là cơ sở pháp lý cho việc sử dụng
quyền lực công trong thực hiện, và khi cần thiết, cưỡng chế thi hành chính sách.
3. Triển khai chính sách
Thông thường, việc triển khai một chính sách sẽ được qui định bởi văn bản
pháp lý của chính phủ. Các văn bản này, ngoài các qui định có tính kỹ thuật còn làm
rõ hai vấn đề chính: 1) Chủ thể triển khai: tức ai hoặc cơ quan nào được ủy quyền của
chính phủ, và do vậy có sự độc lập nhất didnhj trong triển khai; 2) Khuôn khổ triển
khai: tức làm rõ sự ràng buộc của cơ quan triển khai. Sự ràng buộc như vậy không chỉ
hạn chế việc sử dụng quyền lực được ủy nhiệm một cách tùy tiện, mà còn ràng buộc
cả về ngân sách, nhân lực và đôi khi cả cung cách triển khai.
Như vậy, bản thân giai đoạn triển khai cũng bao gồm việc ban hành các văn bản
cụ thể hơn có tính pháp lý, qui định trách nhiệm, quyền hạn cũng như việc thực thi
các hành động và biện pháp cụ thể.
Các chủ thể triển khai quan trọng nhất là các cơ quan hành chính cùng với các
viên chức của mình. Các viên chức ở ngành lập pháp và tư pháp cũng có những vai
trò quan trọng, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách có liên quan đến các hoạt
động tranh tụng, như các chính sách về phá sản, chống độc


5

4. Đánh giá chính sách
Đánh giá chính sách ngày càng được coi trọng trong chu trình chính sách, bởi
vì đây là khâu thường bị quên lãng, hoặc không được tiến hành một cách nghiêm túc.
Giai đoạn đánh giá bao gồm đánh giá kết quả thực tê của việc triển khai chính

sách cũng như việc đánh giá bản thân quá trình xây dựng và triển khai để tổng kết các
kinh nghiệm. Tuy nhiên, để đánh giá được một cách khoa học thì khả năng đo lường
được chính xác các chi phí và kết quả, cũng như khả năng quy được trách nhiệm là rất
quan trọng. Và đây cũng là hai vấn đề trung tâm của nhiều cải cách hành chính hiện
nay trên thế giới cũng như tại nước ta.
Việc đánh giá chính sách được tiến hành ngay cả trước khi triển khai, trong quá
trình xây dựng chính sách, và có ảnh hưởng sống còn với chính sách. Đánh giá chính
sách không đơn thuần là các đòi hỏi kỹ thuật khách quan để hiểu thấu đáo tác động
của chính sách đó, mà còn mang tính chính trị ngay từ khởi đầu và trong suốt mọi
khâu từ thông qua kế hoạch, xác định hệ tiêu chí, kết luận đánh giá về một chính sách
giữa các chủ thể chính trị có liên quan
Phân loại đánh giá chính sách
Theo tính chất và mức độ khái quát có thể chia ra ba loại đánh giá chính sách
chính: Đánh giá chính trị; đánh giá kỹ thuật; và đánh giá toàn diện.
a. Đánh giá chính trị
Kiểu đánh giá này xem xét khía cạnh khả thi chính trị của một chính sách, đặc
biệt trong những giai đoạn đầu của quá trình, khi chính sách chưa được thông qua,
mới đang trong giai đọan hính thành những ý tưởng căn bản. Những người xây dựng
chính sách, không những chỉ quan tâm đến nội dung cụ thể của một chính sách mà
trước hết là tính khả thi về mặt chính trị của nó. Đánh giá tính khả thi chính trị bao
gồm cả đánh giá về cơ chế hành chính và các mâu thuẫn về lợi ích trong triển khai,
tức cung cách xây dựng và triển khai một chính sách.
Các chính sách mang tính tiệm tiến luôn có lợi thế nếu đánh giá từ góc độ này
bởi vì những gì đã quen thuộc dễ nhận được sự ủng hộ và ít rủi ro chính trị hơn.
Ngoài ra, các cơ chế, thủ tục hiện có cũng chưa cần phải thay đổi nhiều để đáp ứng
chính sách.
b. Đánh giá kỹ thuật
Kiểu đánh giá này tập trung vào đánh giá các kết quả theo các tiêu chí đặt ra
ban đầu. Trong đó chủ yếu là đánh giá các tác động trực tiếp, các chi phí và lợi nhuận
trực tiếp của chính sách. Các đánh giá như vậy có thể cho thấy là chính sách đã được

triển khai theo đúng ý định chưa, có hiệu quả nhất chưa, các nguồn lực được phân bổ


6

cho chính sách đã thích hợp chưa, các tiêu chí định lượng đã đạt được ở mức độ
nào....
Các đánh giá trên mang phạm vi khá hẹp và thường không cho chúng ta thấy
được hết các tác động gián tiếp lên toàn bộ xã hội, do đó cũng chưa đưa ra được kết
luận về việc liệu mục tiêu tổng thể của chính sách đó đã đạt được chưa. Tuy nhiên,
trong những điều kiện hạn hẹp (về ngân sách, thời gian v.v.) việc đánh giá kỹ thuật
như vậy vẫn là nội dung chính, đồng thời là cơ sở quan trọng cho sự đánh giá tòan
diện. Có nhiều hình thức đánh giá tùy thuộc vào các chính sách cũng như mục tiêu
của đánh giá: như đánh giá nhanh (chỉ xem xét các tiêu chí căn bản nhất, nhằm phát
hiện các vấn đề đẻ có điều chỉnh, hoặc do điều kiện tài chính và thời gian hạn hẹp),
đánh giá chi phí (chỉ xem xét các chi phí mà không xem xét cụ thể các lợi ích. Thích
hợp cho các chính sách xã hội, trong đó các tác động của chính sách là rất rộng và
chắc chắn có lợi cho tòan bộ xã hội nhưng khó có thể lượng hóa), đánh giá lợi ích
(không xem xét chi phí. Kiểu này ít được áp dụng hơn và thường được dùng trong
giai đọan đầu, đánh giá sơ bộ) v.v.
c. Đánh giá toàn diện
Kiểu đánh giá này đòi hỏi sự khảo sát toàn diện, có hệ thống, khách quan, và
nghiêm ngặt nhằm đưa ra đánh giá về sự thành công trong mục tiêu tổng thể của chính
sách. Nó cũng làm sáng tỏ các tác động gián tiếp khác (về xã hội, môi trường, cũng
như các tác động chính trị khác không thể qui ra tiền) và vì vậy có thể so sánh được
chi phí - lợi ích một cách thuyết phục hơn. Trên cơ sở đó, các đánh giá về tính tối ưu
được đưa ra. Quá trình đánh giá này là kênh phản hồi chính sách chủ đạo. Khuynh
hướng hiên nay ở các nước trên thế giới cho thấy càng ngày người ta càng chú trọng
vào kiểu đánh giá này. Trong nhiều nước, các uỷ ban độc lập được lập ra để đánh giá
các chính sách. Các cơ quan chính phủ cũng thành lập các bộ phận chuyên đánh giá

toàn diện ngày càng nhiều.
Kỹ thuật chủ yếu được dùng ở đây là Phân tích chi phí - lợi ích xã hội. Kỹ thuật
phân tích như vậy sẽ bao gồm cả các hiệu ứng khác mà trong đánh giá trực tiếp không
có đièu kiện tiến hành. Các chính sách lớn như về năng lượng, môi trường, giáo dục
v.v. thông thường đều đòi hỏi sự đánh giá toàn diện vì một chính sách như giáo dục
chẳng hạn, ngoài việc có lợi cho những người thụ hưởng cũng có thể có lợi về mặt xã
hội (văn minh hơn, ổn định hơn), mặt kinh tế (ví dụ : thu hút nhiều khách du lịch
hơn), an ninh quốc phòng hay quan hệ quốc tế.
Phân tích chi phí - lợi ích xã hội cũng đòi hỏi các phương pháp luận khoa học
và các khóa đào tạo căn bản và có tính đặc thù rất khác so với phân tích chi phí lợi ích


7

thông thường của cá nhân hay một tổ chức. Bài này sẽ không đề cập sâu vì không
phải là tâm điểm chuyên môn.
III. ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Nhận xét chung về đánh giá chính sách công
Cùng với hoạch định và triển khai thực hiện, thì đánh giá chính sách là một
khâu không thể thiếu của quy trình chính sách. Vì nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan khác nhau, mà khâu đánh giá chính sách chưa được thực sự coi trọng trong
thực tiễn Việt Nam. Vậy, những giải pháp nào cần triển khai thực hiện để khắc phục
khiếm khuyết trên đây trong quy trình chính sách?
Ở Việt Nam, lâu nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực
thi chính sách, song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được
quan tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được khi
ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách
công được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và đánh giá
chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật này có phù

hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận hành như thế nào
trên thực tế. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện trong các quy định pháp
luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động của nhà
nước. Do đó, đánh giá chính sách công sẽ bao quát việc xem xét về tổng thể các quyết
định của nhà nước (chính phủ trung ương và chính quyền địa phương) trong việc giải
quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực tiễn quản lý nhà nước. Đánh giá chính
sách cho phép xem xét, nhận định không chỉ về nội dung chính sách, mà còn về quá
trình thực thi chính sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để
đạt các mục tiêu mong đợi.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những nhân tố,
môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một thời gian khá dài,
Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể chế, nhằm tạo các
hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban hành hàng loạt văn bản
pháp luật trong không ít trường hợp dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp, thậm
chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà cuối cùng là sự chi phối của chúng
đối với các hoạt động kinh tế - xã hội theo các chiều khác nhau, khiến cho những hoạt
động này không đạt được mục tiêu mong muốn. Nói cách khác, hàng loạt chính sách
được ban hành, có hiệu lực thi hành, song việc chính sách đó có hiệu lực thực tế như
thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu thì dường như không được quan tâm. Đôi


8

khi chính sách được ban hành chẳng những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà
còn gây ra những hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn
chế ùn tắc giao thông trong các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp
khác nhau, song thực tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số
giải pháp đưa ra, như chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các hiệu ứng
phụ làm rắc rối thêm hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách (thông qua việc

soạn thảo và ban hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ chức triển khai các
chính sách đó trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân và sức lực của không ít
người, song nhiều khi các chính sách này không đem lại lợi ích tương xứng với chi
phí đã bỏ ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính sách như một khâu quan trọng
không thể thiếu trong quy trình chính sách, nó ví như khâu đánh giá cán bộ, đánh giá
đúng thì bố trí, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm...đúng và ngược lại, và tầm quan trọng
của một chính sách tốt mang đến sự tồn vong của Nhà nước, cũng như tầm quan trọng
của công tác cán bộ là sự tồn vong của chế độ và sự tồn tại của Đảng cầm quyền.
2. Các vấn đề trong đánh giá chính sách công hiện nay
Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước ta,
nhiều chính sách không được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát từ các lý do
sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản. Điều đó được biểu
hiện:
Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được thể chế
hóa trong văn bản pháp luật, song không thể đồng nhất chính sách với một văn bản
đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những chính sách bộ
phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính sách hỗ trợ người
nghèo thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách miễn giảm học phí
cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo... Do đó,
việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, đòi hỏi có cách nhìn tổng thể.
Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ đợi
khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai đánh giá.
Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với đánh
giá việc thực thi chính sách. Đôi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến diện: hoặc
cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm trong khâu thực
thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính sách bằng cách đổ lỗi
cho sự không phù hợp của các quy định pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá
chính sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc,



9

bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ trì tổ
chức thực hiện chính sách) không đưa việc đánh giá chính sách vào chương trình hoạt
động của mình. Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của tình trạng này: do không có đủ
nhân lực, không có nguồn lực tài chính để đánh giá, do chính sách được thực hiện rất
“bình lặng” không gây ra vấn đề gì, do bản thân các cơ quan này không muốn “tự
phán xét” các chính sách do mình ban hành và thực thi... Đương nhiên, việc đánh giá
chính sách không chỉ do các cơ quan nhà nước tiến hành. Các đánh giá chính sách có
thể được phản ánh qua công luận, qua ý kiến của nhân dân, của các tổ chức chính trị xã hội. Song sự đánh giá từ bên ngoài nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu được các
cơ quan nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh nghiệm. Trong không ít trường hợp,
sự đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ qua. Nếu thiếu sự chủ trì của các cơ quan
chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có tác động đến các nhà hoạch định và thực thi
chính sách.
Thứ ba, việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện
“vấn đề”. Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong một thời
gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra được những “lỗ
hổng” của chính sách.
Thứ tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học. Khi đánh
giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với mục tiêu chính sách
ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục tiêu chính sách được thể
hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia tăng dân số, tỷ lệ trẻ em trong
độ tuổi đi học được đến trường... Song, trên thực tế đa số các mục tiêu chính sách
được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi mục tiêu không rõ ràng, trong trường
hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra có thể không phản ánh hết các giá
trị của chính sách. Để đánh giá chính sách, về nguyên tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh
giá được thiết kế đối với từng loại chính sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến
cho việc đánh giá không toàn diện, đầy đủ, mang tính phiến diện.

Thứ năm, đánh giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh nhận
xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã hội,
từ những đối tượng mà chính sách hướng vào. Mặc dù đánh giá của các cơ quan nhà
nước về chính sách có thuận lợi do họ nắm rất rõ về chính sách và quá trình thực hiện
chính sách, nhưng cách làm này có thể dẫn đến chỗ các kết quả đánh giá chịu sự chi
phối của chính những người làm ra và vận hành chính sách đó, việc chỉ ra các sai sót
của bản thân họ sẽ gặp phải rào cản tâm lý mạnh mẽ và nhiều khi bị bóp méo theo ý
muốn chủ quan. Vì vậy, khi đánh giá chính sách, ít cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát
lấy ý kiến phản hồi từ nhân dân hay các đối tượng hưởng lợi một cách rộng rãi, công
khai. Trong một số trường hợp các cơ quan chức năng đã tổ chức thu thập ý kiến phản


10

hồi từ các phương tiện truyền thông, hay tổ chức các buổi đóng góp ý kiến thông qua
các đoàn thể chính trị - xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào các ý kiến này cũng
phản ánh đầy đủ và chính xác những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến
chính sách được đánh giá.
Thứ sáu, thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ quan
thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các công việc mới (nhằm
tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại những gì đã làm.
3. Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách công
Một là, đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với một
số chính sách quan trọng của Nhà nước. Cần nhận thức rõ, những chính sách quan
trọng, liên quan đến những vấn đề cấp thiết nhất của đời sống, đến lợi ích của nhiều
người thì việc đánh giá chính sách là rất cần thiết để hoàn thiện chính sách, tránh các
rủi ro hay lãng phí xảy ra, đặc biệt là tránh những phản ứng ngược lại với mong muốn
của Chính phủ. Cần có kế hoạch đánh giá chính sách và xây dựng lịch trình đánh giá
cụ thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác định rõ mục tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia,
các đối tượng, nội dung, các phương pháp và tiêu chí đánh giá. Cần tổng kết việc

đánh giá, công bố công khai kết quả đánh giá ở phạm vi cần thiết. Tổ chức rút kinh
nghiệm nghiêm túc đối với những sai sót về nội dung chính sách và những hạn chế,
vướng mắc trong thực thi chính sách.
Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và đúng đắn.
Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác nhau. Thông
thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện sau đây:
Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của chính
sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn của Nhà nước.
Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được các mục tiêu đề ra.
Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả do
chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích thường
được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu không quan tâm tính toán
hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền của và kinh phí từ ngân sách nhà nước.
Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, Nhà nước
thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ giúp cho các
đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già, trẻ em và người tàn tật để
khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm xã hội. Tính công bằng
của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi phí và lợi ích, các quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực thi chính sách và các nhóm đối
tượng liên quan đến chính sách.


11

Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng lợi từ
chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết quả cuối cùng
của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính sách công.
Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu khó khăn nhất trong đánh
giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đôi khi rất khó đo lường. Chẳng hạn, để đánh
giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến đối tượng người nghèo như thế nào, cần

xem xét việc người nghèo được hưởng những lợi ích gì từ chính sách của Chính phủ
và các lợi ích đó đã giúp họ thoát nghèo đến đâu. Việc đánh giá tác động này không
thể căn cứ vào những ý kiến chủ quan của các cấp chính quyền, mà phải được đo
lường bằng mức độ hài lòng của người dân về các lợi ích được hưởng. Cần tổ chức
các cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá của người dân, đối tượng hưởng lợi từ chính
sách. Kinh nghiệm thành công của các cuộc khảo sát lấy ý kiến khách hàng về việc
cung cấp các dịch vụ công thiết yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng là những
minh chứng có giá trị trong việc đánh giá mức độ hưởng lợi của các đối tượng chính
sách.
Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng khởi
nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách - đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn trong
xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm đạt tới mục
tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn đề của chính sách
thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi khi mục tiêu được đề ra
quá rộng, chung chung, không rõ ràng, khi đó dù các chính sách có được thực thi trên
thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác định vấn đề chính sách đã được giải
quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh
kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo
lường được bằng một loạt tiêu chí liên quan đến các khía cạnh kinh tế - xã hội này.
Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải quyết vấn đề đói, nghèo, sẽ không thể chỉ đưa ra
chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống bao nhiêu phần trăm, mà còn phải xem xét các khía
cạnh khác, như người nghèo được tiếp cận như thế nào đến các dịch vụ công thiết
yếu, như y tế, giáo dục, nước sạch; việc tạo điều kiện cho người nghèo trong thực
hiện các quyền lợi của công dân...
Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy
được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách. Việc đánh giá
chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được thực trạng các thành công
và yếu kém của chính sách. Song, không chỉ chờ đến khi các cơ quan chức năng tổ
chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới bộc lộ ra. Các phương tiện thông tin
đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng góp của các tổ chức quần chúng là các kênh

phản hồi quan trọng về chính sách. Việc quan tâm theo dõi và tiếp nhận những thông


12

tin này sẽ giúp cáccơ quan chức năng của Nhà nước định hướng việc đánh giá chính
sách. Những ý kiến nói trên cũng sẽ tạo cơ sở đề hình thành các đề xuất nhằm tiếp tục
hoàn chỉnh, bổ sung chính sách.
Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư
cách chuyên gia đánh giá, có thể từ cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước, song tất
cả các thành viên sẽ thực hiện việc đánh giá một cách độc lập, khách quan theo mục
tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Năm là, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách. Việc bỏ
ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó cho đánh giá
chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho quá trình tiếp tục vận hành chính sách trong
giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách và bảo đảm cho
chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống.
Trong một xã hội đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, việc đánh giá các
chính sách công ngày càng trở thành đòi hỏi chính đáng và cấp thiết. Đánh giá chính
sách công giúp Nhà nước xác định được các bất cập trong đời sống kinh tế - xã hội và
tìm cách khắc phục các bất cập đó. Chính sách công phản ánh rõ nét nhất các mục tiêu
của Nhà nước và các giải pháp mà Nhà nước sử dụng để đạt tới các mục tiêu này.
Đánh giá chính sách cho phép Nhà nước nhìn nhận lại năng lực thể chế và năng lực
thực thi chính sách của mình. Trong một môi trường không ngừng biến đổi, việc đánh
giá các chính sách công sẽ tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển quản lý nhà nước
trong giai đoạn tiếp theo, hướng đến một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.


13


PHẦN III. KẾT LUẬN
Đánh giá chính sách công hiện nay ngày càng được các nhà nghiên cứu, nhà
cầm quyền và người dân xem xét và coi trọng trong chu trình chính sách công, vì
thông qua nhứng đánh giá sát thực, nhìn vào thực tế của chính sách công, đến nay
chính sách công của Việt Nam ngày càng đi vào thực tiễn, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội và an sinh xã hội tốt. Trong nhận định của Đảng tại Hội nghị trung ương 6
khóa X đã nêu: Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát thực
hiện chính sách của các cơ quan dân cử, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể quần chúng,
các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
Tuy nhiên trong đánh giá chính sách công cần phải căn cứ vào từng loại chính
sách để có loại đánh giá chính sách phù hợp, gồm đánh giá chính trị đánh giá kỹ thuật,
đánh giá toàn diện.
Đánh giá tính khả thi chính trị gồm đánh giá cả về cơ chế hành chính và các
mâu thuẫn về lợi ích trong triển khai, tức cung cách xây dựng và triển khai một chính
sách, cách đánh giá này đem đến một chính sách bớt rủi do chính trị, tuy nhiên nó sẽ
không có bước đột phá và mạnh dạn của người lãnh đạo có tầm để duy trì tốc độ phát
triển trong thời gian dài. Ví dụ: Chính sách khoán 10 của Bí thư Kim Ngọc không
phải một chính sách tiệm tiến, nhưng có bước đột phá và hiệu quả đến ngày nay.
Qua nghiên cứu rút ra được một số bài học trong đánh giá chính sách như sau:
Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin có liên quan đến xây dựng và
thực thi chính sách để có đánh giá chân thực nhất, tránh bị bóp méo.
Bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ đánh giá chính sách, củng cố tổ
chức đánh giá chính sách, quan tâm đến các tổ chức ngoài chính phủ có những đánh
giá về chính sách để có cái nhìn tổng thể và hài hòa
Tạo ra cơ chế phù hợp để người dân, tổ chức khác tham gia vào đánh giá chính
sách ngay cả đang ở giai đoạn đầu Nghị trình trong thực hiện chính sách công để
tuyên truyền chính sách được sâu rộng, các thành phần chịu ảnh hưởng chính sách có


14


ý kiến trái chiều nhưng phù hợp đề điểu chình, tránh chưa ban hành đã chỉnh sửa
chính sách.
Bố trí nguồn kinh phí để đánh giá chính sách, cũng như hỗ trợ kinh phí cho các
tổ chức, cá nhân khác khi có những đánh giá đúng thực chất để kích thích nghiên cứu
và tìm hiểu về chính sách được thực thi
Có cơ chế quản lý tốt để kiềm chế, đẩy lùi nhóm lợi ích trong xây dựng và thực
thi chính sách nói chung và trong đánh giá chính sách nói riêng để sự tác động của
nhóm lợi ích giảm thì chính sách và đánh giá chính sách được thực hiện khách quan,
không ảnh hưởng các nhóm tần lớp khác, dù đây là công việc khó nhưng nếu không
quan tâm thì chính sách sẽ bị méo mó, bị trục lợi cho một nhóm cá nhân chứ không
phải do thực tiễn đặt ra./.


15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung
ương khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2008.
2. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp lý luận chính trị
tập 12, Quản lý kinh tế, Nxb lý luận chính trị, H .2015.
3. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Lựa chọn công cộng một cách
tiếp cận nghiên cứu chính sách, Xưởng in TCCNQP, H.2006.
4. Tống Đức Thảo, Tập bài giảng Chính sách công; Vấn đề chính sách công ở
Việt Nam hiện nay, H. 2016.


16

MỤC LỤC

Trang
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………….............02
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài……………………..….....02
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………….......02
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu………………………….......02
PHẦN II. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM CHÍNH SÁCH CÔNG......................................................02
1. Khái niệm chính sách……………..………………………….................02
2.Khái niệm về chính sách công hiện nay…………………….…..............03
II. CHU TRÌNH CHÍNH SÁCH CÔNG...............................................….04
1. Xác lập nghị trình... ......................…........................................................04
2. Xây dựng và ban hành chính sách.......................................................….04
3. Triển khai chính sách............................................................................….04
4. Đánh giá chính sách..............................................................................….05
III. ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..... 07
1. Nhận xét chung về đánh giá chính sách công ....................................….07
2. Các vấn đề trong đánh giá chính sách công hiện nay.........................….08
3. Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách công..........................….10
PHẦN III. KẾT LUẬN……………………...............................................12



×