Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIEU LUAN MON HOACH DINH VA THUC THI CHINH SACH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.61 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Chính sách công là những quy định về ứng xử của Nhà nước với những hiện
tượng nảy sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện dưới những hình thức
khác nhau một cách ổn định nhằm đạt được mục tiêu định hướng. Ở mỗi giai đoạn
phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách công luôn được
đặt ra. Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy trình chính sách; trong đó có
tổ chức thực thi chính sách - bước đặc biệt quan trọng của quy trình chính sách.
Thực thi chính sách đóng vai trò vô cùng quan trọng trong chu trình chính
sách công. Nếu hoạch định chính sách công đã làm tốt rồi thì việc tiếp theo là phải
làm tốt giai đoạn thực thi chính sách mới góp phần làm cho chính sách đạt kết quả.
Để làm tốt thực thi chính sách đòi hỏi phải tuân thủ đầy đủ và chu đáo các bước, từ
khâu lập kế hoạch thực hiện, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, xác định các nguồn
lực… cho đến đánh giá hiệu quả, điều chỉnh, bổ sung, thay đổi, tạm dừng, hủy bỏ
chính sách. Trong đó, việc tuyên truyền, phổ biến chính sách công trong quá trình
thực thi chính sách là hoạt động đi trước, phải thực hiện trước, đó là một trong
những nội dung quan trọng, góp phần quyết định đến sự thành công của việc thực
thi chính sách; việc tuyên truyền vận động thực thi chính sách công cần được thực
hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách công đang được thi hành để mọi
đổi tượng cần được tuyên truyền luôn củng cố lòng tin vào chính sách và tích cực
thực thi chính sách, có như thế Nhà nước mới phát huy được vai trò quản lý xã hội.
Những năm qua, việc tổ chức thực thi chính sách công cũng đạt được những
yêu cầu cơ bản như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả hơn. Nhiều địa phương, đơn vị đã
chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai thực thi chính sách cho phù hợp
với đặc điểm của mình, có tính đến đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách,
trong đó chú trong công tác tuyên tuyền, phổ biến trong quá trình thực thi chính
sách. Tuy nhiên, trong thực tế công tác tuyên tuyền, phổ biến trong quá trình thực
thi chính sách vẫn tồn tại những hạn chế nhất định; do vậy, em lựa cho nghiên cứu
nội dung “Vai trò của việc tuyên truyền, phổ biến chính sách công trong quá trình
thực thi chính sách”, tiếp tục làm rõ vai trò, những ưu điểm và tổn tại hạn chế trong
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách; qua đó, đề xuất một số giải pháp để
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách trong quá trình thực


thi chính sách trên địa bàn. Trong quá trình thực hiện, chắc chắn không tránh khỏi
thiếu sót, kính mong quý Thầy, Cô góp ý để em tiếp tục hoàn thiện nội dung
nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn quý Thầy, Cô !


2

PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THỰC THI CHÍNH
SÁCH CÔNG
1. Chính sách và chính sách công
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách và chính sách
công. Chính sách liên quan đến những tuyên bố, hành động mang tính quyền lực
nhà nước, dựa trên giả thuyết về nguyên nhân và kết quả, nhằm mục tiêu giải quyết
các vấn đề công, hay thúc đẩy các giá trị ưu tiên.
Theo quan niệm của Việt Nam, chính sách là chương trình hành động do các
nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi
thẩm quyền của mình.
Mặc dù đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về chính sách công nhưng
có thể hiểu đơn giản: Đó là định hướng hành động được nhà nước lựa chọn, phù
hợp với đường lối chính trị để giải quyết những vấn đề chung của xã hội trong một
thời kỳ nhất định. Với quan niệm đó, chính sách công có vai trò to lớn trong hoạt
động quản lý xã hội của nhà nước
Trong nền hành chính nhà nước, chính sách công là bộ phận nền tảng trọng
yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền
hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công
Chính sách công là quyết định của các chủ thể quyền lực nhà nước nhằm
quy định mục đích, cách thức và chế định hành động của những đối tượng liên
quan để giải quyết những vấn đề nhất định mà xã hội đặt ra. Đó là tổng thể các

chuẩn mực, biện pháp mà nhà nước sử dụng để quản lý xã hội. (Khoa học chính
sách công - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008, trang 16).
Ở Việt Nam, chính sách công là chính sách công là do Nhà nước ban hành,
một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước. Song hiện nay đang tồn tại cụm từ “chính sách của
Đảng và Nhà nước”. Thực tế, ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông
qua việc vạch ra các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - Đó chính
là những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành các chính sách công. Các chính
sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của
Đảng. Với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách công là công cụ tiền đề, không thể thay
thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân
quyền…
2. Thực thi chính sách công
2.1. Khái niệm về thực thi chính sách:
Về nguyên tắc, thực thi chính sách là hoạt động nhằm biến ý tưởng chính
sách, mục tiêu chính sách đã được phê duyệt thành những kết quả cụ thể. Triển


3

khai thực thi chính sách là hoạt động có tổ chức của các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước, huy động mọi nguồn lực (con người, tài chính, cơ sở vật chất)
nhằm đạt được mục tiêu của chính sách theo nguyên tắc tối ưu cả về con người,
vốn và kết quả.
Thực thi chính sách công là toàn bộ quá trình huy động, bố trí sắp xếp các
nguồn lực để đưa chính sách vào đời sống thực tế theo một trình tự thủ tục chặt chẽ
và thống nhất nhằm đạt được mục tiêu của chính sách. Là quá trình chuyển những
tuyên bố về mục tiêu, phương thức hành động mà các cơ quan khi xây dựng chính
sách dự kiến thành những hoạt động thực tế để hiện thực hóa mục tiêu chính sách,

biến ý tưởng chính sách thành sản phẩm cụ thể. Như vậy, việc tổ chức thực thi
chính sách công là toàn bộ quá trình hoạt động của các chủ thể theo các cách thức
khác nhau nhằm hiện thực hóa nội dung chính sách công một cách hiệu quả.
Thực thi chính sách công có vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa
mong muốn của Nhà nước đối với vấn đề chính sách và từng bước hoàn thiện
chính sách. Dưới góc độ quản lý, quản trị quốc gia, nhà nước sử dụng chính sách
công như một công cụ quan trọng tác động vào các lĩnh vực đời sống xã hội để đạt
được mục tiêu định hướng của nhà nước.
2.2. Đối tượng triển khai thực hiện chính sách công:
Trên nguyên tắc chung, tất cả những ai liên quan đến chính sách đều phải có
trách nhiệm tham gia vào quá trình thực thi chính sách.
Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước là người trực tiếp triển khai
thực thi chính sách công thông qua các biện pháp khác nhau.
Sự tham gia của cộng đồng dân cư là rất quan trọng. Chính phủ cũng như
các cơ quan nhà nước cần làm cho người dân hiểu được lợi ích mà chính sách công
đem lại cho họ. Lợi ích đó bao gồm lợi ích quốc gia, lợi ích của các địa phương,
đơn vị, lợi ích của từng cá nhân. Chỉ khi đó các chính sách công mới dễ dàng triển
khai thực hiện và mang lại hiệu quả.
2.3. Các giai đoạn triển khai thực thi chính sách công:
a) Xây dựng kế hoạch triển khai thực thi chính sách công
- Xác định đối tượng thực hiện chính sách.
- Xác định các nguồn lực và biện pháp thực hiện.
- Thành lập những tổ chức mới (nếu cần) để tổ chức triển khai chính sách.
- Xây dựng hệ thống các chương trình, dự án để triển khai chính sách.
b) Phổ biến, tuyên truyền chính sách
- Công bố công khai chính sách công của nhà nước trên tất cả các phương
tiện thông tin đại chúng.
- Phổ biến, tuyên truyền chính sách phải bảo đảm đúng nội dung của chính
sách, kịp thời về thời gian.
- Phổ biến, tuyên truyền chính sách phải thiết thực và hiệu quả.



4

c) Phân công, phối hợp thực hiện
- Ai làm gì, thời gian hoàn thành.
- Phối hợp giữa các bộ phận để tránh chồng chéo, gây lãng phí. Phối hợp
giữa cấp trên và cấp dưới; phối hợp ngang giữa các bộ phận; phối hợp bên trong,
bên ngoài tổ chức.
d) Triển khai thực hiện chính sách
- Triển khai thực hiện các chương trình, dự án.
- Bảo đảm tiến độ và chất lượng.
e) Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
- Thẩm quyền kiểm tra: cơ quan cấp trên, cơ quan chủ quản, cơ quan kiểm
tra, thanh tra chuyên ngành, thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân.
- Phương pháp kiểm tra: tiền kiểm - hậu kiểm; thường xuyên - đột xuất.
- Kết quả kiểm tra phải được xử lý nghiêm minh và kịp thời.
f) Điều chỉnh chính sách
- Đánh giá, xem xét, điều chỉnh các hoạt động cụ thể.
- Các hình thức điều chỉnh: bổ sung, thay đổi, tạm dừng, hủy bỏ.
Trong điều kiện của Việt Nam, để triển khai thực thi chính sách công hiệu
quả cần thực hiện tốt tất cả các gian đoạn, các khâu và kết hợp nhiều biện pháp
khác nhau trong quản lý, như tuyên truyền, giáo dục, các biện pháp tổ chức, hành
chính và các biện pháp kinh tế. Trong đó, công tác phổ biến, tuyên truyền chính
sách sách công trong quá trình thực thi chính sách được xem là một nội dung quan
trọng trong việc đưa chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống.
II. VAI TRÒ CỦA VIỆC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN CHÍNH SÁCH
CÔNG TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI CHÍNH SÁCH
1. Công tác phổ biến, tuyên truyền
Tuyên truyền về chính sách công là công đoạn tiếp theo sau khi chính sách

đã được thông qua, có vai trò hết sức cần thiết nhằm đưa chủ trương, chính sách
của Nhà nước vào cuộc sống; đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn với
cơ quan nhà nước và các đối tượng thực thi chính sách. Phổ biến, tuyên truyền
chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực
thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách,về tính đúng đắn của chính sách
trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách. Qua đó, vận
động, thu hút Nhân dân tự giác tham gia thực hiện chính sách công theo kế hoạch
của nhà nước. Đồng thời, tham gia giám sát quá trình thực thi chính sách, các cấp
chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận
lợi và có hiệu quả.
Tuyên truyền, phổ biến là việc đưa ra các thông tin (vấn đề) với mục đích
đẩy thái độ, suy nghĩ, tâm lý và ý kiến của quần chúng theo chiều hướng nào đấy


5

mà chủ thể mong muốn. Để tham gia quá trình tuyên truyền, phổ biến chính sách
công là sự tham gia của các nhân tố, yếu tố cấu thành gồm:
- Chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách công bao gồm đội ngũ cán bộ
trong bộ máy cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ. Chủ thể phải được đào tạo
phải có đủ trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng trong việc tuyên truyền, phổ biến chính
sách công. Năng lực phổ biến, tuyên truyền chính sách được thể hiện qua khả năng
phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách có hiệu quả cao. Do đó, đòi hỏi chủ
thể phải am hiểu chính sách; năm chính xác, đầy đủ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ,
yêu cầu, phạm vi, đối tượng của chính sách. Trên cơ sở đó lựa chọn các kỹ năng,
giải pháp, hình thức quán hiệt phổ biến, tuyên truyền chính sách phù hợp với từng
loại đối tượng
- Đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính sách công bao gồm: Những công
dân được chính sách công tác động trực tiếp, đây là đối tượng thụ hưởng chính
sách công; những công dân, tổ chức bị tác động gián tiếp bởi chính sách công, đây

là những nhân tố góp phần làm cho chính sách công đạt hiệu quả; những đối tượng
tham gia thực thi, triển khai chính sách công.
- Phương tiện và cách thức tuyên truyền: Một số phương tiện để tuyên
truyên như: Tờ rơi; panô, áp phích nơi công cộng; tổ chức các buôi diễn văn, diễu
hành; thông qua báo chí, truyền hình, radio, internet... Về cách thức, có thể mở các
lớp tập huấn tập trung để quán triệt nghiên cứu các nội dung, chính sách, bàn các
giải pháp và phân công thực hiện (hình thức này phù hợp với các đối tượng tham
gia trực tiếp vào quá trình tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện chính sách), tổ
chức các lớp tuyên truyền chính sách cho các cơ quan thông tin đại chúng, người
làm công tác tuyên truyền; xây dựng văn bản hướng dẫn phổ biến cụ thể việc thực
hiện chính sách gửi cho các cơ quan hữu quan để họ tự nghiên cứu xây dựng kế
hoạch thực hiện chính sách. Ngoài ra, có thể đăng tải, tuyên truyền trên các báo,
tạp chí, trang thông tin điện tử… để các đối tượng được thụ hưởng chính sách và
mọi người dân biết để thực hiện. Trong xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể
thực hiện chính sách cũng như các văn bản phổ biến, hướng dẫn phải đảm bảo
chính xác, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Tuyệt đối không được bổ sung các quy
định mang tính chất thủ tục rườm rà, khó thực hiện và làm sai lệch chính sách.
2. Vai trò của việc tuyên truyền, phổ biến chính sách công:
Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng
trong đời sống xã hội, là cầu nối và phương tiện không thể thiếu trong việc đưa
pháp chính sách đến gần hơn với mọi người dân. Để làm được việc tuyên truyền
này thì chúng ta cần được đầu tư về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị,
trang thiết bị kỹ thuật; việc tuyên truyền này cần phải thực hiện thường xuyên liên
tục, ngay cả khi chính sách đang được thực thi, với mọi đối tượng và sử dụng
nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp trao đổi...
2.1. Vai trò cung cấp thông tin, truyền tải chính sách đến với Nhân dân và
cán bộ:
Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện được thông qua, việc trước tiên



6

cần làm trong quá trình này là tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia thực hiện
chính sách công. Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với cơ quan
Nhà nước và các đối tượng thực thi chính sách công. Phổ biến, tuyên truyền chính
sách tốt giúp cho các đối tượng thực thi chính sách và mọi người dân tham gia thực
thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách. Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí
quan trọng và không thực hiện tốt vị trí công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách
thì dù công tác xây dựng chính sách có làm tốt đến mấy cũng không đạt được hiệu
quả thực thi chính sách. Thức tế chính sách Nhà nước không phải khi nào cũng
được mọi người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện
nghiêm chỉnh. Tuy rằng, bản chất chính sách của Nhà nước là tốt đẹp, phản ánh ý
chí, nguyện vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng Nhân dân trong xã hội,
tuy nhiên, dù những chính sách có tốt đẹp nhưng không được Nhân dân biết đến thì
vẫn không đi vào cuộc sống.
Chính sách của Nhà nước là phương tiện truyền tải những thông tin, những
yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với người dân, giúp cho người
dân hiểu biết, nắm bắt kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho
việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao
hiểu biết về chủ trương, chính sách cho Nhân dân.
Khi người dân hiểu rõ các chủ trương chính sách, sẽ dễ tạo sự đồng thuận
trong quá trình thực hiện. Nếu công tác tuyên truyền, phổ biến về mục đích, nội
dung, yêu cầu của chính sách không đầy đủ, rõ ràng và kịp thời đến các đối tượng
liên quan (nhà chức trách, những người thực thi và người dân) sẽ làm ảnh hưởng
đến hiệu quả thực hiện chính sách, các đối tượng sẽ không nắm bắt được chủ
trương, chính sách của Nhà nước, từ đó dẫn đến việc mù mờ thông tin, thiếu tin
tưởng và tất yếu là sự phản ứng của Nhân dân đối với nhà nước. Điều này hoàn
toàn bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho Nhà nước
trong công tác quản lý.
Bên cạnh đó việc tuyên truyền chính sách giúp công chú nắm bắt chính sách,

từ đó góp phần tích cực trong việc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí,
hạn chế lợi ích nhóm và lạm dụng quyền lực, bảo đảm đồng thuận xã hội và phát
triển bền vững, nhất là trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đẩy mạnh phong trào thi
đua yêu nước, cổ vũ những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đặc biệt hiện nay đất nước ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, trong điều kiện cơ chế thị
trường và mở cửa, công tác tuyên truyền đã góp phần nâng cao nhận thức cho các
cấp, các ngành, các địa phương, các tầng lớp nhân dân, tạo động lực cho việc thực
thi chính sách.
2.2. Tuyên truyền, phổ biến chính sách công để xây dựng niềm tin của
người dân và sự đồng thuận của toàn xã hội
Bất cứ một chính sách nào, nếu không đạt được sự đồng thuận xã hội, tức là
sự ủng hộ của các tầng lớp, các giai tầng, các thành viên trong xã hội, thi không thể
tồn tại được. Do đó, đồng thuận xã hội được xem là một phương thức tập hợp lực
lượng có tính khả thi nhất trong đời sống chính trị - xã hội của xã hội hiện đại. Sự


7

tập hợp lực lượng đó dựa trên những tiêu chí mà các giai cấp tầng lớp, các lực
lượng xã hội dù có lợi ích khác nhau, nhưng vẫn có thể gắn kết ở mức độ nhất định
và vẫn bảo tồn được những đặc thù riêng của mình, không bị hoà tan, không biến
thành kẻ khác. Để thúc đẩy sự ủng hộ tuân thủ chính sách từ phía đối tượng, cần
đồng thời nâng cao năng lực nhận thức của họ về chính sách và niềm tin về nhận
thức đó, đây là một yêu cầu bắt buộc trong quá trình thực hiện chính sách, tạo điều
kiện để mọi người dân nắm được thông tin và đóng góp vào các dự thảo chính sách
liên quan trực tiếp đến mình, tránh để tình không đủ điều kiện để thực hiện. Đây
cũng là điều kiện để các nhà tổ chức thực thi chính sách, các lực lượng tham gia và
các đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn, hiểu
rõ mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, từ đó tạo

ra sự đồng thuận trong xã hội, tạo nên sức mạnh tổng họp tổ chức thực hiện có hiệu
quả chính sách.
2.3. Tuyên truyền, phổ biến chính sách công để phản biện xã hội
Phản biện xã hội là cách thức để các nhóm lợi ích khác nhau phản ánh mong
muốn của mình đến các nhà hoạch địch chính sách, giúp cho họ có cái nhìn rộng
hơn, khoa học hơn, toàn diện hơn trước khi ban hành một chính sách nào đó. Nếu
một chính sách khi ban hành chỉ dựa trên ý chí chủ quan của chủ thể ra chính sách
sẽ rất dễ dẫn đến kết quả là: Chính sách chỉ bảo vệ cho lợi ích của một số ít, một
nhóm ít người. Nếu mắc phải điều này, khi đó, các nhóm lợi ích khác, các tầng lớp
khác trong xã hội sẽ thấy bất bình và dẫn đến những phản kháng, chống đối. Lúc
đó, trong xã hội sẽ rất dễ có những xung đột đáng tiếc, làm ảnh hưởng đến sự phát
triển chung. Ngược lại, một chính sách đã được phản biện một cách dân chủ, kỹ
càng trước đó thì các chính sách được ra đời một cách ít chủ quan hơn, tức là sự
xung đột của các nhóm lợi ích đã được điều chỉnh thông quả sự thảo luận và thỏa
thuận. Đặc biệt, nó sẽ giúp cho chủ thể cầm quyền tìm kiếm được sự đồng thuận
của đại đa số nhân dân ngay từ trong chính sách. Điều này sẽ rất hữu ích trong quá
trình tổ chức thực hiện chính sách sau đó.
Phân biện xã hội để Nhân dân kiểm soát quyền lực của mình đối với những
người được ủy quyền. Những người có quyền lực - chủ thể của những chính sách
công rất dễ mắc phải một sai lầm cố hữu mà bấy lâu nay nhiều người vẫn mắc
phải. Đó là, thói quen độc thoại và tự cho mình đã biểt tất cả, chân lý là đã có sẵn
do mình làm ra, chi cần rao giảng và thuyết phục công chúng tiếp thu - đây chỉnh
là một trong những biểu hiện của sự tha hóa quyền lực. Chủ thể của quyền lực hay
quên một điều là, trong xã hội dân chủ, mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân,
quyền lực của họ chi là sự ủy thác từ Nhân dân. Phản biện xã hội ở đây là Nhân
dân phàn biện lại những ý tường, những việc làm của những người được Nhân dân
ủy thác, làm cho người được ủy quyền thực hiện đúng chức trách của mình, đúng
với mong mỏi của người ủy quyền cho mình, tránh được tinh trạnh lạm dụng
quyền lực, quyền lực bị tha hỏa, biến chất. Thực thi được sự phản biện xã hội
thường xuyên như vậy sẽ tạo ra được sự đông thuận, sự ổn định cần thiết cho sự

phát triển. Nếu không, chủ thể quyền lực đó sẽ phải đôi mặt với sự bất mãn, chống
đối và nghiêm trọng hơn sẽ là sự phản kháng.


8

Trong quá trình thực hiện chính sách, phản biện xã hội giúp kịp thời nhìn
nhận những vấn đề đặt ra trong quá trĩnh thực hiện, có thể nhìn nhận rõ hơn những
mặt được và chưa được, những tích cực và tiêu cực do tác động của chính sách để
có thể góp phần tổng kết thực tiễn về chính sách. Như vậy, có thể hình thành dữ
liệu khoa học để cỏ thể điều chỉnh hoặc làm cơ sở cho việc ban hành các chính
sách khác do thực tiễn đặt ra.
Ở Việt Nam, việc phàn biện xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các cộng đồng, các tầng lớp xã hội và các cá nhân đối
với quá trình ban hành và thực thi các quyết sách chính trị của Đảng cầm quyền và
của các cơ quan nhà nước nhằm thực thi dân chủ, phát huy trí tuệ của xã hội, làm
cho các quyết sách chính trị phản ánh đúng quy luật khách quan, đáp ứng lợi ích và
mong đợi của các nhóm đối tượng chịu sự tác động của quyết sạch chính trị, bảo
đảm phát triển bền vững.
2.4. Phản bác các thông tin sai lệch, xuyên tạc chủ trương, chính sách, định
hướng dư luận
Khi hoạch định và thực thi chính sách, với sự tác động các yếu tố bên trong,
bên ngoài, môi trường thực thi… chính sách có thể phát sinh những sai lệnh, biến
dạng, các thế lực thù địch sẽ lợi dụng để kích động chống phá, làm giảm sút niềm
tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Trước vấn đề trên, nếu thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến đến mọi người
dân thì họ sẽ nắm được chủ trương, điều đó sẽ tạo cho họ sự đề kháng để phân định
đúng sai, phản các lại các thông tin sai lệch, xuyên tạc
Trong bối hiện nay, dư luận xã hội chịu sự tác động phức tạp, đa chiều, cả
bên trong và bên ngoài. Việc tuyên truyền, phổ biến chính sách góp phần điều

chỉnh hành vi, hướng tới làm thay đổi thái độ, nhận thức và hành động của các tầng
lóp trong xã hội theo hướng tích cực. Việc định hướng dư luận xã hội theo hướng
tích cực, đúng với chủ trương của chủ thể chính sách sẽ giúp cho việc tổ chức thực
thi chính sách không vấp phải những rào cản do việc hiểu không đúng về mục tiêu,
lợi ích của chính sách.
2.5. Góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước và xã hội
Tuyên truyền, phổ biến chính sách giúp cho mọi người nhận thức về chính
sách một cách đúng đắn và ý thức trong việc thực hiện các hành vi hợp pháp, tạo
tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân
chủ và quyền tự do của mỗi người.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã
hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng chủ trương, chính sách, pháp luật,
hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản
lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống
đối các chủ trương, chính sách pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý.
Qua việc tuyên truyền, phổ biến giúp đội ngũ cán bộ thực thi chính sách
nhìn nhận rõ hơn những mặt được và chưa được, những tích cực và tiêu cực do tác
động của chính sách để có thể góp phần tổng kết thực tiễn về chính sách; như vậy,


9

có thể hình thành dữ liệu khoa học để có thể điều chính hoặc làm cơ sở cho việc
ban hành các chính sách khác do thực tiễn đặt ra
2.6. Tuyên truyền, phổ biến chính sách công góp phần nâng cao trách nhiệm
của chủ thể thực thi chính sách
Việc tuyên truyền, phổ biến, công khai chính sách công góp phần làm cho tổ
chức, cá nhân thực thi chính sách nâng cao trách nhiệm của mình trong việc tổ
chức thực thi chính sách đảm bảo đúng theo kế hoạch và mục đích, yêu cầu của
chính sách đó đề ra. Bên cạnh đó, giúp cho chủ thể thực thi chính sách nhận thức

được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ
động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích họp, phân bổ nguồn lực họp lý cho việc
thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức
thực hiện chính sách được giao.
2.7. Tuyên truyền, phổ biến chính sách công tạo sự minh bạch, phòng chống
tham nhũng
Việc công khai chính sách công tạo điều kiện để người dân và toàn xã hội
được biết về mục tiêu, kế hoạch, quy trình thực thi chính sách. Qua đó, người dân
có thể nắm bắt và giám sát việc thực thi chính sách của chủ thể hoạch định chính
sách, góp phần phòng chống tham nhũng và tiêu cực.
Sự minh bạch sẽ giúp chuyển đổi từ việc chỉ quan tâm đến việc tuân thủ các
quy định, quy trình, thủ tục sang quan tâm đến kết quả và chịu trách nhiệm về các
kết quả cần phải đạt được chứ không chỉ là trách nhiệm tuân thủ các quy trình , thủ
tục. Ngoài ra, nó còn đảm bảo sự tham gia nhiều hơn của người dân vào quá trình
thực thi chính sách có liên quan tới họ nhằm đảm bảo tính hợp pháp hiệu quả và
trách nhiệm của thể chính sách đối với đối tượng thụ hưởng chính sách. Nếu sự
minh bạch không được đề cao, các chính sách không rõ ràng sẽ tạo điều kiện và là
môi truờng đề các hành vi tham nhũng, tiêu cực nảy sinh. Do đó, việc tuyên truyền,
phổ biến chỉnh sách sẽ cải thiện tình trạng tham nhũng, đảm bảo cho công dân, tổ
chứccó điều kiện tiếp cận thông tin một cách đẩy đủ.
Có thể khẳng định rằng có được chính sách công đúng đắn mới chỉ là “điều
kiện cần” để đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực thi là “điều kiện đủ” của
chính sách công. Nói như vậy để thấy rõ mối quan hệ có tính quyết định giữa các
khâu trong quá trình thực thi chính sách. Trong những gian qua, hoạt động hoạch
định chính sách công đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và
chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ
máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự, ngoại giao…). Một số chính sách công
quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa
phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập và hoàn thiện được một hệ thống
chính sách công khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quản lý

hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng được về
cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt,
có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như:
chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp


10

lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam,
chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính
sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất
nông nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm
chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những
phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và
khu vực.
Việc tổ chức thực thi chính sách công cũng đạt được những yêu cầu cơ bản
như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả hơn. Nhiều địa phương, đơn vị đã chủ động, linh
hoạt và sáng tạo trong triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của
mình, có tính đến đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách… Nhìn tổng thể,
việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, trong đó có việc làm tốt công tác tuyên
tuyền, phổ biến trong quá trình thực thi chính sách.
Tuy nhiên, trong thực tế công tác tuyên tuyền, phổ biến trong quá trình thực
thi chính sách vẫn tồn tại những hạn chế nhất định như: Công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục về nội dung và yêu cầu của chính sách có khi chưa đầy đủ, rõ ràng
và kịp thời tới những đối tượng liên quan, dẫn đến hiểu sai các vấn đề, nội dung
chính sách. Thực tiễn thời gian gần đây đã chứng minh rằng nếu một chủ trương,
chính sách dù tốt đến mấy nếu không tổ chức tốt thông tin, tuyên tuyền, thì có thể
sẽ dẫn đến những hậu quả xấu, khó lường, nhất là các chính sách mang tính “nhạy

cảm”, liên quan đến an ninh quốc gia và việc Kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa XIV
thông qua Luật An ninh mạng và dự thảo luật Đơn vị Hành chính - Kinh tế đặc biệt
là một ví dụ điển hình về sự thiếu thông tin, tuyên truyền gây lo lắng, bức xúc
trong dư luận ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nhiều
địa phương. Sự việc trên có thể cho thấy rằng một khâu vô cùng yếu trong công tác
tuyên truyền về chính sách…
3. Thực tiễn địa phương
Đắk Lắk là tỉnh miền núi, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế chính trị, quốc phòng, an ninh của khu vực Tây Nguyên. Diện tích tự nhiên là
13.125km2, có 73,4 km đường biên giới với Campuchia. Dân số hơn 1,8 triệu
người, với 47 dân tộc anh em cùng sinh sống; dân tộc thiểu số chiếm 33,41% dân
số toàn tỉnh (trong đó dân tộc thiểu số tại chỗ là 20,4%). Toàn tỉnh có 15 huyện, thị
xã, thành phố; 184 xã, phường, thị trấn, với 2.482 thôn, buôn, tổ dân phố. Có 04
tôn giáo chính là Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài, với tổng số 604.500
tín đồ, chiếm khoảng 33,6% dân số toàn tỉnh.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc và
đoàn kết dân tộc, tập trung mọi nguồn lực đầu tư phát triển vùng đồng bào đồng
bào dân tộc thiểu số qua các chính sách, chương trình, dự án quan trọng. Dưới sự
lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, sự cố
gắng nỗ lực tổ chức thực hiện của các ban, ngành, đoàn thể và đồng bào các đồng
bào dân tộc trên địa bàn, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đã
phát huy tác dụng và mang lại hiệu quả thiết thực, làm thay đổi đáng kể bộ mặt


11

vùng đồng bào đồng bào dân tộc thiểu số; sản xuất phát triển, đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào từng bước được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm; khối đại
đoàn kết toàn dân tộc được phát huy, diễn biến tư tưởng của đồng bào các đồng
bào dân tộc thiểu số ổn định, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; an ninh
trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Để các chính sách của Đảng, Nhà nước đi

vào cuộc sống, tỉnh Đắk Lắk đã chú trọng triển khai công tác tuyên truyền bằng
nhiều hình thức, trong đó công tác tuyên truyền đặc biệt được chú trọng và tập
trung vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đông người theo đạo.
Trong những năm qua việc tuyên truyền chính sách được cả hệ thống chính trị thực
hiện dưới nhiều hình thức, đặc biệt là từ sau có Quyết định số 5607-QĐ/TU, ngày
02/10/2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về ủy về ban hành Quy chế phối hợp
giữa ban tuyên giáo các cấp với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong việc
triển khai kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc của
Nhân dân”. Ban tuyên giáo cấp ủy các cấp và cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp
đã bám sát chủ trương, định hướng của Trung ương và Tỉnh ủy, xây dựng chương
trình, kế hoạch phối hợp ; trong đó, tập trung công tác tuyên truyền triển khai các
chủ trương, chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kịp
thời đề xuất cấp ủy đảng, chính quyền các cấp nhiều giải pháp thiết thực trong lãnh
đạo, chỉ đạo, triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề
bức xúc của Nhân dân phát sinh trên địa bàn. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế hàng
năm của tỉnh duy trì ổn định và đạt mức khá; sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể
thao có nhiều tiến bộ; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng lên,
góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội; từ đó góp phần
đáng kể trong việc giảm thiểu phát sinh các vấn đề bức xúc của Nhân dân. Sau gần
10 năm triển khai thực hiện Quyết định 5607-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
đã góp phần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, ban tuyên giáo, cơ quan
quản lý cùng cấp; cán bộ, đảng viên về tăng cường mối quan hệ công tác, phối hợp
để tham mưu triển khai kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết các vấn đề
bức xúc của Nhân dân. Công tác nắm bắt, định hướng tư tưởng, dư luận, tạo đồng
thuận trong xã hội được quan tâm chỉ đạo thực hiện thường xuyên hơn; qua việc
triển khai thực hiện Quy chế phối hợp đã kịp thời phát hiện và tham mưu cho cấp
ủy đảng, chính quyền các cấp xử lý, giải quyết kịp thời những vấn đề nổi cộm, phát
sinh trong đời sống gây bức xúc trong Nhân dân, góp phần giải đáp tâm tư, nguyên
vọng của Nhân dân, hạn chế đơn thư khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp, tạo sự ổn định
trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đến nay 15/15 huyện,

thị xã, thành phố đều có chương trình, kế hoạch phối hợp, theo đó các chương
trình, kế hoạch kinh tế - xã hội trọng điể, nhất là các vấn để nhạy cảm dễ phát sinh
về tư tưởng, dư luận trong Nhân dân như các chính sách về dân tộc, tôn giáo, xóa
đói, giảm nghèo... đều được tổ chức tuyên truyền, công khai thông tin và lấy ý kiến
nhân dân trước khi thông qua và triển khai thực hiện; tạo sự đồng thuận trong xã
hội và phát huy sức mạnh tổng hợp đưa chính sách của nhà nước đến với nhân dân
và tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính sách…
Tuy nhiên, thời gian qua một số chính sách trong tâm vẫn còn bỏ ngõ công
tác tuyên truyền, phổ biến đến các đối tượng chính sách. Một số cơ quan quản lý


12

nhà nước còn thiếu chủ động, tích cực trong việc phối hợp các đơn vị liên quan,
chưa chủ động cung cấp thông tin kịp thời; chưa chỉ đạo các cơ quan chuyên môn
cấp mình chủ động phối hợp với ban tuyên giáo cùng cấp và các cơ quan thông tin,
truyền thông để triển khai công tác tuyên truyền; nhất là khi triển khai các đề án,
dự án lớn, khi xảy ra các vụ việc khiếu nại, khiếu kiện đông người, có tính chất
phức tạp, kéo dài; các vụ án nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thu hút sự quan
tâm của người dân; các vụ việc liên quan dân tộc, tôn giáo, đền bù, giải phóng mặt
bằng mà cơ quan chuyên môn chủ trì tham mưu; có trường hợp khi xảy ra vấn đề
bức xúc phức tạp, kéo dài nhưng cơ quan quản lý nhà nước không thực hiện công
tác phối hợp với ban tuyên giáo cùng cấp để bàn bạc trao đổi phương thức giải
quyết.
Một số đơn vị sau khi xây dựng chương trình, kế hoạch phối hợp nhưng còn
chậm triển khai các công việc thuộc trách nhiệm của mình; nhất là việc cung cấp
thông tin, định hướng tuyên truyền về các vụ việc bức xúc của Nhân dân; nội dung,
hình thức, biện pháp tuyên truyền còn chưa hấp dẫn, thuyết phục, hiệu quả không
cao. Việc nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội có lúc chưa kịp thời; nhiều
vấn đề, vụ việc ở cơ sở diễn biến trở nên phức tạp các đơn vị chức năng mới xử lý.

* Nguyên nhân
Một số cấp ủy đảng, chính quyền, nhất là cơ sở chưa chú trọng công tác
tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, hướng dẫn triển khai thực hiện nghiêm túc
Quyết định 5607-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; chưa chỉ đạo ban tuyên giáo
và cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp ký kết chương trình, kế hoạch phối hợp;
thiếu sự đôn đốc, kiểm tra, giám sát trong tổ chức triển khai thực hiện.
Ở một số địa phương, đơn vị chưa duy trì và thực hiện tốt chế độ thông tin,
giao ban, báo cáo định kỳ, nên còn bị động trong việc tham mưu, đề xuất cho cấp
ủy, chính quyền, lãnh đạo cơ quan, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo, xử lý những vấn đề
mới phát sinh, nổi cộm trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội; chương trình, quy
chế phối phối hợp nội dung còn chung chung, nặng về định tính, thiếu định lượng,
trách nhiệm của từng bên chưa rõ ràng nên trong công tác phối hợp tuyên tuyền,
triển khai thực hiện, có lúc, có nơi còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, thiếu sự thống
nhất trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Chính sách kinh tế - xã hội là lĩnh vực rộng, có tác động trực tiếp đến mọi mặt
đời sống xã hội; trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện, một số lĩnh vực như:
y tế, giáo dục và đào tạo, giải quyết việc làm, bảo vệ tài nguyên, môi trường..,
thường xuyên phát sinh những vấn đề nổi cộm cần phải tham mưu, đề xuất phương
án giải quyết kịp thời nhưng trình độ một số cán bộ cơ quan quản lý nhà nước và
ban tuyên giáo còn hạn chế, nhất là ở cơ sở, kinh nghiệm chưa nhiều, nên việc triển
khai thực hiện các nội dung phối hợp còn gặp nhiều khó khăn.
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ
biến chính sách trong quá trình thực thi chính sách
Thứ nhất: Đổi mới để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến
chính sách trong quá trình thực thi chính sách theo hướng nhanh chóng, kịp thời,


13

chính xác và hiệu quả; trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách. Thực

hiện tốt nguyên tắc công khai, từ đó tạo dư luận xã hội và môi trường thuận lợi cho
việc thực hiện chính sách.
Thứ hai: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến chính sách để người dân dễ dàng tiếp cận chính sách, tạo sự đồng
tình, an tâm, tránh việc bị nhiễu bởi “bội thực” thông tin trái chiều trên mạng xã
hội. Đồng thời, thường xuyên nắm tình hình và chủ động phản bác, ngăn chặn
thông tin xấu độc, trái chiều để ổn định dư luận.
Thứ ba: Tuỳ từng đối tượng mà tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến
và quán triệt phù hợp như: mở các lớp tập huấn tập trung để quán triệt, nghiên cứu
các nội dung chính sách, bàn các giải pháp và phân công thực hiện; tổ chức các lớp
tuyên truyền chính sách cho các cơ quan thông tin đại chúng, cán bộ tuyên truyền;
gửi các tài liệu hướng dẫn nghiên cứu chính sách cho các tổ chức, cá nhân liên
quan liên quan để tự nghiên cứu; tổ chức việc thảo luận, góp ý các dự án luật…
Thứ tư: Để công tác tuyên truyền thật sự hiệu quả, là thông tin đáng tin cậy
thì việc xây dựng chính sách phải hợp lý, khách quan, phù hợp với đối tượng, giải
quyết tốt những vấn đề kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự phát triển bền vững và chống
tiêu cực, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy công quyền, từ đó mới có thể gây
dựng niềm tin cho người dân vào Đảng và Nhà nước.
Thứ năm: Tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành, tuân thủ chính sách,
pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân, đặc biệt trong các lĩnh
vực nhạy cảm như tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, phòng chống
các tai tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan… nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng có đông đồng bào theo đạo. Phát huy đến vai trò của cấp ủy, chính quyền,
mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội, người có uy tín trong cộng đồng trong
công tác tuyên truyền, vận động thực thi chính sách…


4 U V




×