Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

PHÊ PHÁN MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, DÂN CHỦ KHÔNG MANG BẢN CHẤT GIAI CẤP: ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP MỚI CÓ DÂN CHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.8 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA ______________

BÀI THẢO LUẬN
BỘ MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: PHÊ PHÁN MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN NỀN DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, DÂN CHỦ KHƠNG MANG BẢN CHẤT GIAI CẤP:
ĐA NGUN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP MỚI CÓ DÂN CHỦ
Giảng viên hướng dẫn:
Lớp HP:
Nhóm:

_____________
_____________
_____________

Hà Nội, ngày 1 tháng 4 năm 2020.
1


MỤC LỤC TRA CỨU
Lời mở đầu

6

Nội dung
I. Nhận diện một số luận điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1. Dân chủ không mang bản chất giai cấp

7


2. Đa ngun chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ
II. Phê phán một số luận điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1. Dân chủ không mang bản chất giai cấp

7
9

1.1.

Các nền dân chủ xuất hiện trong lịch sử

9

1.2.

So sánh bản chất nền dân chủ XHCN với các nền dân chủ khác

1

2. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ

2

2.1.

Thực chất của đa nguyên, đa đảng

1

2.2.


Đa nguyên, đa đảng liệu có phù hợp với nhà nước Cộng hòa Xã hội

5

chủ nghĩa Việt Nam hay không?

1
6
1

Kết luận

7
2

Tài liệu tham khảo

1
2
2

2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong q trình đấu tranh xây dựng chính đảng độc lập của giai cấp vô sản, Các Mác và
Ph. Ăng-ghen đã rất chú trọng xác định nguyên tắc tổ chức của đảng. Vận dụng và phát
triển chủ nghĩa Mác vào cuộc đấu tranh xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân ở nước Nga, V.I. Lê-nin đã phát triển tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và xác

định nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng cộng sản là tập trung dân chủ. Với sự thành công
của Đảng Cộng sản Nga trong Cách mạng Tháng Mười, nguyên tắc tập trung dân chủ trở
thành nguyên tắc tổ chức phổ biến của các đảng cộng sản trong Quốc tế III. Ngay từ tháng
10 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (khi đó là Đảng Cộng sản Đơng Dương) đã quy
định cách tổ chức của Đảng trong Điều lệ: Đảng “tổ chức theo lối dân chủ tập trung”. Từ
đó đến nay, trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.
Cho đến trước khi Đảng Cộng sản Liên Xô cải tổ, nguyên tắc tập trung dân chủ với vị trí
là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các đảng cộng sản dường như khơng có gì phải bàn đến
nữa. Nhưng từ khi Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước
Đông Âu cải tổ thất bại dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ, phong trào cộng sản rơi vào thời kỳ
khủng hoảng, suy thoái, đã xuất hiện nhiều ý kiến nghi ngờ về nguồn gốc, sự cần thiết,
bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ, thậm chí cịn kết tội cho nguyên tắc này là một
nguyên nhân làm cho các đảng cộng sản cầm quyền thất bại. Không chỉ ở Việt Nam, đã có
một số ý kiến cơng khai phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ và đề nghị các tổ chức
Đảng Cộng sản từ bỏ nguyên tắc đó với những lập luận dường như “rất lơ-gíc”, “khách
quan”.
Vậy những phê phán đó là đúng hay đây là một thủ đoạn hòng làm suy yếu, tan rã các
đảng cộng sản? Cần nhìn nhận những luận điệu đó như thế nào? Bài tiểu luận dưới đây
xin được đưa ra những ý kiến quan điểm khách quan và đầy đủ nhất qua quá trình nghiên
cứu.
3


NỘI DUNG
I.Nhận diện một số luận điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1. Dân chủ không mang bản chất giai cấp
- Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu
thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thơng qua chính đảng của nó đối với toàn
xã hội để thực hiện quyền lực và lợi ích của tồn thể nhân dân lao động, trong đó có giai

cấp cơng nhân. Tuy nhiên hiện nay vẫn cịn luận điểm cho rằng “dân chủ không mang bản
chất giai cấp”.
- Những người theo luận điểm này tìm mọi cách xóa nhịa ranh giới mọi giai cấp, tầng
lớp, phủ nhận cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra đầy khó khăn, phức
tạp hiện nay; xuyên tạc bản chất, nguồn gốc giai cấp của Đảng, phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta.
- Chúng còn cho rằng, giai cấp cơng nhân chỉ là những người có học vấn thấp, những
lãnh tụ của giai cấp công nhân cũng thường có trình độ văn hóa khơng cao, "lại được đào
luyện trong một lơgíc chun chế bạo ngược", cho nên giỏi lắm cũng chỉ có thể lật đổ chế
độ cũ, chứ khơng thể lãnh đạo tồn dân xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, nhất là
trong thời đại khoa học phát triển. Họ lập luận: "... nếu như giai cấp cơng nhân có sứ
mệnh lịch sử là "Người đào huyệt chơn CNTB" xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở
những nước tư bản phát triển có lực lượng công nhân rất đông, chất lượng cao lại không
thực hiện vai trị lịch sử của mình? Đảng CSVN khơng thể gọi là Đảng của giai cấp cơng
nhân được, vì nó có rất ít tính cơng nhân mà mang đậm tính nơng dân, chịu ảnh hưởng
nặng nề của chủ nghĩa phong kiến. Vì thế nhiều cán bộ cao cấp của Đảng chỉ phấn đấu leo
cao để tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Với những điều kiện như trên, giai cấp cơng nhân và
Đảng CSVN không thể lãnh đạo, xây dựng được CNXH đích thực ở Việt Nam..." v.v... và
v.v...
2. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ
4


Chủ nghĩa đa nguyên là một trường phái triết học xã hội của giai cấp tư sản ra đời vào
đầu thế kỷ XVIII (năm 1712). Bản chất chính trị, thù địch của chủ nghĩa đa nguyên thể
hiện qua một số đặc trưng sau:
+ Phân chia xã hội thành nhiều nhóm cá nhân bởi nhiều tiêu chuẩn khác nhau (màu da,
chính kiến, tôn giáo...). Thực chất của luận điểm này là phủ định và chống lại quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phân chia giai cấp trong xã hội, vấn đề giai cấp và đấu

tranh giai cấp. Tuyệt đối hố tính đa dạng và phức tạp của xã hội dù trên thực tế giai cấp
và đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại và việc áp dụng cách phân chia xã hội của chủ nghĩa đa
nguyên vào thực tế là khơng thể thực hiện vì khơng có sự phân biệt rõ ràng (một cá
nhân có thể thuộc nhiều nhóm cá nhân khác nhau.
+ Trong xã hội đa nguyên đa đảng đối lập, mọi người đều tự do dân chủ không giới hạn.
Luận điểm này đi ngược với “thuyết tương đối” của Anh-Xtanh đã được cả thế giới thừa
nhận; tuyệt đối hố về tự do dân chủ, khơng thừa nhận bất cứ một sự ràng buộc nào; đối
lập với nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam;
tạo điều kiện làm nảy sinh những quan điểm tư tưởng và hành động phản cách mạng
trong xã hội Việt Nam.
+ Trong xã hội đa nguyên đa đảng đối lập, cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý xã hội phải
được thực hiện trên nguyên tắc đa đảng phái, đa lực lượng đối lập nhau. Thực chất là
nhằm hình thành các lực lượng, đảng phái chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam,
phủ nhận và nhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Trong xã hội đa nguyên đa đảng đối lập, có nhà nước là nhà nước phúc lợi chung,
được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, thoả hiệp. Giải quyết những lợi
ích khác nhau theo nguyên tắc “thoả hiệp, trung hoà lợi ích” với nhau. Luận điểm này
nhằm xố nhồ giai cấp và đấu tranh giai cấp, phủ nhận mâu thuẫn đối kháng trong xã hội
khi xã hội còn các giai cấp có mâu thuẫn lợi ích căn bản với nhau. Do đó, phủ nhận chính
mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và vô sản trong giai đoạn hiện nay. Tuyên
truyền nhà nuước phúc lợi chung thực chất là hướng theo con đuường tư bản chủ nghĩa,
dung hoà và hoà nhập nhà nước của giai cấp tư sản và nhà nước của giai cấp vô sản.
- Những điểm "lập lờ đánh lận con đen" của chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng đối lập. Qua
những điểm mà chủ nghĩa đa nguyên nêu ra và được các thế lực thù địch CNXH “rêu rao”
5


thấy ngay trong bản chất của chủ nghĩa đa nguyên chứa đựng rất nhiều điểm “mập mờ”,
phản khoa học.
II. Phê phán một số luận điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

1. Dân chủ không mang bản chất giai cấp
1.1. Các nền dân chủ xuất hiện trong lịch sử
Với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì trong lịch sử nhân loại,
thì cho đến nay có ba nền dân chủ là: Nền dân chủ chủ nô, Nền dân chủ tư sản và Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
1.1.1. Nền dân chủ chủ nô
- Khái niệm: Dân chủ chủ nô là nền dân chủ đưa lại quyền lợi cho tầng lớp quý tộc
chủ nô, một bộ phận nhỏ trong xã hội, trong khi đó nhiều người lại khơng có quyền cơng
dân và đặc biệt là hàng nghìn nơ lệ khơng được quyền làm người, bị áp bức, bóc lột và coi
như là những “cơng cụ biết nói”.
- Sự ra đời: Nền dân chủ chủ nô ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc gắn
liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.
Các Nhà nước chủ nô đầu tiên xuất hiện ở Châu Á và Bắc Phi như trung Quốc, Ấn Độ,
Babilon, Ai Cập… khoảng từ 4000 đến 5000 năm trước công nguyên.
- Bản chất: Nền dân chủ chủ nơ mang tính chất dân chủ rộng rãi. Tuy nhiên, đây là một
thể chế chính trị dựa trên sự bóc lột nơ lệ. Những người lao động chủ yếu trong xã hội là
nơ lệ thì khơng có quyền công dân. Đối với đông đảo quần chúng nô lệ và kiều dân thì đó
cũng là nền chun chính của giai cấp chủ nô.
1.1.2. Nền dân chủ tư sản
- Khái niệm: Dân chủ tư sản là chế độ, hình thức quản lý nhà nước của giai cấp tư
sản do giai cấp tư sản lãnh đạo, được thiết lập sau khi thủ tiêu chế dộ phong kiến.
Dân chủ tư sản là bước tiến bộ lớn của lịch sử nhân loại so với chế độ chuyên chế của
giai cấp phong kiến. Nhưng dân chủ tư sản vẫn là chế độ dân chủ được giành riêng cho
giai cấp tư sản là giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế và chính trị xã hội. Dân chủ tư
sản bị coi là nền dân chủ bị cắt xén, là dân chủ hình thức. Đến giai đoạn đế quốc, nhiều
chế định dân chủ của nền dân chủ tư sản bị xóa bỏ và chế độ độc tài, phát xít, chuyên chế
6


có dịp tái sinh trở lại nhằm mục đích phục vụ cho đường lối chính trị bằng thủ đoạn gây

chiến tranh cướp bóc tài ngun, nơ dịch các nước kém phát triển và đàn áp phong trào
đấu tranh giải phóng giai cấp của giai công nhân trong nước.
- Sự ra đời: Dân chủ tư sản ra đời gắn liền với thắng lợi của cách mạng tư sản. Nó
khơng xuất hiện tức khắc, tức thời mà trải qua một quá trình phát sinh, phát triển từ thấp
lên cao, từ ít đến nhiều, từ những yếu tố dân chủ lẻ tẻ trong từng lĩnh vực kinh tế, tư
tưởng xã hội đến một nền dân chủ gắn liền với chế độ chính trị của giai cấp tư sản.
- Bản chất: Nền dân chủ tư sản mang bản chất của giai cấp tư sản, lợi ích của giai
cấp tư sản đối lập với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
1.1.3. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Khái niệm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền
dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và
dân làm chủ, dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng, được thực hiện
bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Sự ra đời: Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai
cấp ở Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1971),
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hồn thiện.
Trong đó, có sự kế thừa những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm
sâu sắc them những giá trị của nền dân chủ mới.
- Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
+ Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công
nhân – đảng Mác-Lênin mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân
dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con ngời, thỏa mãn ngày càng cao
hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Bản chất chính
trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng
qua đảng của nó đối với tồn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi
ích riêng cho giai cấp cơng nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
7



thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: Trong chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều
ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân…Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã
hội chủ nghĩa về thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa, khác với các cuộc cách mạng trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng
của số đơng, vì lợi ích của số đơng nhân dân.V.I.Lênin cịn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã
hội chủ nghĩa là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước.
Với ý nghĩa đó,V.I.Leenin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân
chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Do vậy, dân
chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc.
+ Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về những
tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng
cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đo chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị, phát triển
sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-Lênin và
quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ,…của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế của các
chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất cơng, nhưng cũng như tồn bộ nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, nó khơng hình thành từ hư vô theo mong muốn của bất kỳ ai. Kinh tế xã hôi chủ
nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử,
đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm… của các chế độ kinh tế trước
đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột, bất công…đối với đa số nhân dân.
+ Bản chất tư tưởng-văn hóa: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác –
Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình thái ý
thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống,
văn hóa, xã hội, tơn giáo…). Đồng thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy

những tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng- văn hóa,
văn minh, tiến bộ xã hội…mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc.

8


Do đó, đời sống tư tưởng – văn hóa của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong phú, đa
dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, thành mục tiêu
và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2. So sánh bản chất nền dân chủ XHCN với các nền dân chủ khác
Bản

Nền dân chủ XHCN

Nền dân chủ tư sản Nền dân chủ chủ

chất


-Bản chất chính trị là sự lãnh đạo - Mang bản chất của
chính trị của giai cấp công nhân giai cấp tư sản, là
thông qua đảng của nó đối với nền dân chủ cho
tồn xã hội nhưng không phải chỉ thiểu số của giai cấp
để thực hiện quyền lực và lợi ích bóc

lột,



đặc


riêng cho giai cấp cơng nhân mà quyền đặc lợi và
chủ yếu để thực hiện quyền lực và muốn dành thêm đặc
lợi ích của tồn thể nhân dân quyền, đặc lợi. chịu
Chính

trong đó có giai cấp công nhân= sự

trị

Mang bản chất của giai cấp công quyền lực giai cấp
nhân

chi

phối

của

tư sản và bảo vệ lợi

- Do ĐCS lãnh đạo, nhất nguyên ích của giai cấp này,
về chính trị. Là yếu tố quan trọng dân chủ chỉ được
để bảo vệ quyền lực thực sự thuộc thực

hiện

trong

về nhân dân, bởi vì ĐCS chính là khn khổ sự thống

người đại biểu cho trí tuệ, lợi ích trị và lũng đọan của

-Mang tính chất dân
chủ rộng rãi. Tuy
nhiên đây là một thể
chế chính trị dựa
trên sự bóc lột nơ lệ.
Những

người

lao

động trong xã hội
chủ yếu là nơ lệ thì
khơng



quyền

cơng dân. Đối với
đơng

đảo

quần

chúng quần chúng
nơ lệ thì đó cũng là

nền chun chính
của giai cấp chủ nô.

của giai cấp công nhân, của nhân các tổ chức độc - Nền dân chủ chủ
dân lao động và của cả dân tộc. quyền đối với toàn nơ, bóc lột và đàn áp
Đảng đó được trang bị bởi lý luận bộ xã hội. Mặc dù đối với nô lệ. nền
Chủ nghĩa Mác-Lênin.
quyền lực “thuộc về dân chủ đưa lại
- Mang tính nhân dân rộng rãi và nhân dân lao động” quyền lợi cho tầng
dân tộc sâu sắc. Nhân dân lao được tuyên bố mạnh lớp quý tộc chủ nô,
động là những người làm chủ mẽ và ghi nhận một một bộ phận nhỏ
những quan hệ chính trị của xã cách phổ biến trong
9


hội. Họ có quyền giới thiệu các hiến pháp của các
đại biểu tham gia vào bộ máy nước cộng hoà dân
chính quyền từ trung ương đến địa chủ tư sản nhưng
phương, tham gia đóng góp ý kiến trên thực tế nó chỉ
xây dựng bộ máy nhà nước.

mang tính hình thức

- V.I.Lênin còn nhấn mạnh: Dân và được thực thi hạn
chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ chế, quyền lực chính
dân chủ của đại đa số dân cư, của trị thực sự chỉ thuộc
những người lao động bị bóc lột, về giai cấp tư sản,
là chế độ mà nhân dân ngày càng mà đằng sau là các
tham gia nhiều vào cơng việc nhà tập đồn tư bản lớn.
nước


trong xã hội, trong
khi đó nhiều người
lại khơng có quyền
cơng dân và đặc biệt
là hàng trăm nghìn
nơ lệ khơng được
quyền làm người, bị
áp bức, bóc lột và
coi như là những
“cơng cụ biết nói”

Vì vậy dân chủ tư -Dân chủ chủ nô
- Ở bản chất nhà nước là nhà sản bị coi là nền dân thực hiện bằng nhà
nước pháp quền xã hội chủ nghĩa chủ bị cắt xén, là nước chủ nô
dân chủ hình thức.
- Nền dân chủ đa
đảng, nền dân chủ
đặt dưới sự lãnh đạo
của các đảng tư sản
- tổ chức chính trị
đại biểu cho lợi ích
của các tập đồn tư
bản, thơng qua nhà
nước tư sản với
nhiều hình thức tổ
chức cụ thể khác
nhau.
- Dân chủ tư sản
cũng thực hiện bằng

10


nhà nước nhưng nhà
nước ở đây không
phải là nhà nước của
dân, do dân và vì
dân, mà là nhà nước
pháp quyền tư sản.
-Dựa trên chế độ sở hữu xã hội về

- Chế độ dân chủ tư -Tồn tại và phát

những tư liệu sản xuất chủ yếu sản có cơ sở kinh tế triển dựa trên các
của toàn xã hội đáp ứng sự phát của nó là chế độ quan hệ sản xuất
triển ngày càng cao của lực lượng chiếm hữu tư nhân chiếm hữu nô lệ.
sản xuất trên cơ sở khoa học-công tư bản chủ nghĩa về Những quan hệ sản
nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn tư liệu sản xuất chủ xuất này được xây
ngày càng cao những nhu cầu vật yếu của toàn xã hội dựng trên cơ sở chế
chất và tinh thần của tồn thể đó là chế độ áp bức độ chiếm hữu của
Kinh

nhân dân lao động.

bóc lột.

chủ nơ đối với tồn

tế


- Thực hiện chế độ cơng hữu về tư

bộ tư liệu sản xuất

liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện

và cả người sản xuất

chế độ phân phối lợi ích theo kết

là nơ lệ. Chủ nơ là

quả lao động là chủ yếu.

chủ sở hữu đối với

- Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là

đất đai, các tư liệu

sự kết thừa và phát triển mọi

sản xuất và đối với

thành tựa nhân loại đã tạo ra trong

cả người sản xuất là

lịch sử, đồng thời loại bỏ những


nô lệ.

nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm
hãm… của các chế độ kinh tế
trước đó, nhất là bản chất tư hữu,
áp bức bóc lột, bất công,.. đối với
đa số nhân dân.
-Lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin -hệ -Dân chủ tư sản là -Nền dân chủ chủ nô
11


tư tưởng của giai cấp công nhân, một bước tiến bộ cũng là một bước
làm chủ đạo đối với mọi hình thái lớn của lịch sử nhân tiến về phía trước
ý thức xã hội khác trong xã hội loại. Nhưng dân chủ của nhân loại. Nó đã
mới.

tư sản vẫn là chế độ tạo điều kiện cho

- Kế thừa phát huy những tinh hoa dân chủ giành riêng kinh tế, xã hội phát
Văn

văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp cho giai cấp tư sản, triển đưa lại những

hóa

- thu những giá trị tư tưởng – văn còn đại đa số nhân lợi ích to lớn cho

Xã hội hóa văn minh tiến bộ xã hội.

dân lao động nghèo nhân loại.


Trong nền dân chủ XHCN, nhân khổ bị hạn chế trong
dân được làm chủ những giá trị thực thi các quyền
văn hóa tinh thần, được nâng cao dân chủ đã được
trình độ văn hóa, một q trình long trọng tun bố
sang tạo văn hóa, thể hiện khát trong các hiến pháp
vọng tự do được sang tạo và phát tư sản.
triển con người.
Trong nền DC XHCN có sự kết
hợp hài hịa về lợi ích giữa cá
nhân, tâp thể và của toàn xã hội.
Nền dân chủ XHCN ra sức động
viên , thu hút mọi tiềm năng sang
tạo, tính tích cực xã hội của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng xã
hội mới.

 Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, dân
chủ chủ nô.
2. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ
2.1. Thực chất của đa nguyên, đa đảng

12


Vấn đề về đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập khơng phải là vấn đề mới, nó xuất hiện
từ thế kỷ XIX, khi giai cấp tư sản đang độc quyền thống trị xã hội. Vậy thực chất "đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập" là gì?
- Nói đến đa ngun chính trị là nói đến hệ thống chính trị có nhiều cực, có nhiều đảng
phái đại biểu cho những lợi ích đối lập nhau được tự do hoạt động, đó là một chế độ đa

đảng.
- Chế độ đa đảng không phải là dấu hiệu của dân chủ. Cái gốc để đảm bảo dân chủ hay
không dân chủ là tư liệu sản xuất nằm trong tay ai.
+ Dưới chủ nghĩa xã hội, tư liệu sản xuất nằm trong tay nhân dân lao động và họ là
người làm chủ xã hội.
+ Dưới chủ nghĩa tư bản, tư liệu sản xuất nằm trong tay một thiểu số nhà tư bản, nền
dân chủ đó là quyền làm chủ của một nhóm tư bản độc quyền. Còn quần chúng nhân dân
chỉ những người bị thống trị - Hệ thống đa đảng là hệ thống mà ở đó có hai hoặc nhiều
hơn các đảng chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập
hay liên minh với nhau
- "Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập" khơng phải là chế độ chính trị của chế độ xã
hội chủ nghĩa.
- Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội học, triết học, tuyệt đối hóa sự đa
dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Nó
xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII. Thời điểm này giai cấp tư sản đóng vai trị là lực lượng
xã hội tiến bộ, tích cực trong phong trào đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ quyền bình
đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau,phát triển quyền tự do dân chủ tư sản.Tuy
nhiên, khi chủ nghĩa tử bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, ý
nghĩa tích cực ban đầu của " đa nguyên chính trị đa đảng đối lập " dần biến mất.
 Thực chất của "đa nguyên chính trị đa đảng đối lập" là sự phân chia, tranh giành
quyền lực của các lực lượng chính trị trong xã hội khi khơng có sự điều hịa về lợi ích ; đó
cũng chính là một hình thức của cuộc đấu tranh gia cấp.
2.2. Đa nguyên, đa đảng liệu có phù hợp với nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hay không?
13


Dựa trên cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn, cho phép chúng ta khẳng định dứt
khoát rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng!
- Trước hết, dưới góc độ lý luận: Trong lịch sử, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất

hiện vào đầu thế kỷ XVIII. Đây là thời điểm giai cấp tư sản đóng vai trị là lực lượng tiến
bộ, tích cực đi tiên phong trong đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ quyền bình đẳng của
các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do, dân chủ tư sản. Cơ sở lý
luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng chính là chủ nghĩa đa nguyên - một trường
phái triết học xã hội tư sản do nhà triết học Đức Chiristian Woiff (1679-1754) đề xuất vào
đầu thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống nhất của thế giới, cường điệu
cái riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp; chủ
trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa lực lượng, đa đảng phái và
các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương. Vì vậy, đây là
một học thuyết phi mácxít. Nếu áp dụng quan điểm này vào chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ
thấp vai trò của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân thành một tổ chức
tầm thường và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Như thế, chủ nghĩa đa nguyên là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan phi khoa
học, trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và
sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chính điều đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm
cho Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng chính trị duy nhất tồn tại, vững mạnh, hồn thành sứ
mệnh lịch sử vẻ vang của mình.
- Thứ hai, trên phương diện thực tiễn: Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho
thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của
lịch sử; là ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Điều này được lịch sử minh chứng rõ ràng.
Vượt lên trên tất cả những hạn chế về đường hướng, phương pháp của những phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng vô
sản ở Việt Nam đã hướng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, do Nguyễn Ái Quốc truyền bá và
phát triển mạnh mẽ. Đáp ứng địi hỏi đó, trải qua q trình được chuẩn bị chín muồi về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đã
khẳng định lấy “chủ nghĩa Lênin làm cốt”. Đây là một tất yếu lịch sử và cũng từ đây,
14



chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới
cho lịch sử dân tộc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng Cộng sản Việt
Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Thắng lợi của cơng cuộc đấu tranh giành chính quyền mà đỉnh cao là
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do,
hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội - đó chính là cơng lao to lớn của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trong những năm 1945-1946, do bối cảnh tình hình chính trị diễn biến phức tạp, ở Việt
Nam, ngồi Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại một số đảng phái đối lập như Việt Nam
Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội..., nhưng trên thực tế, chỉ có duy
nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng. Các đảng phái, tổ chức đối lập thời
kỳ này đã khơng vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà âm mưu phá hoại cách mạng, xố bỏ
chính quyền cách mạng non trẻ, nên bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ.
Trong cuộc trường chinh 30 năm (1945-1975) kháng chiến giải phóng dân tộc khỏi ách
xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử và nhân dân lại lựa chọn
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Trong thời kỳ này, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tồn tại hai đảng
khác là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đảng này
chưa bao giờ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau này hoàn toàn tự nguyện giải tán. Cũng trong
thời gian này, cịn có những đảng phái thân Pháp, thân Mỹ đối lập với Đảng Cộng sản
Việt Nam, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và lợi ích của nhân dân lao động, nên cũng
đã bị chính nhân dân ta đấu tranh loại bỏ.
Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển tồn diện, đã một lần nữa khẳng
định tính tất yếu khách quan: Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều đảng. Vượt qua khủng hoảng
gay gắt về kinh tế - xã hội, bị tàn phá do chiến tranh, nghèo nàn lạc hậu, Việt Nam đã trở

15


thành một quốc gia đang phát triển hết sức năng động. Đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân ngày càng được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng,
an ninh được giữ vững; văn hố, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt
Nam khơng ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được
những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền (dù là chế độ
đa đảng hay một đảng đều phải hướng tới vấn đề cốt tử nhất), đó là: chính trị ổn định,
kinh tế tăng trưởng, văn hố, xã hội phát triển bền vững, an sinh xã hội được bảo đảm.
Chính thực tiễn này đã khẳng định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng
với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng: “Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết
khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”.
Một trong những luận điệu tuyên truyền được các thế lực thù địch tập trung tung hô, cổ
suý nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để “có dân
chủ và phát triển”. Họ cho rằng: “Đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”; Việt Nam phải
đa đảng đối lập để có dân chủ “thực sự”; “muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát
triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng”... Chúng ta đều biết rằng, dân chủ là
phạm trù lịch sử, xuất hiện khi có nhà nước và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà
nước nhất định, được pháp luật quy định. Dân chủ tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Về điều này, C.Mác đã chỉ rõ: “Quyền
khơng bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã
hội do chế độ kinh tế xã hội đó quyết định”. Trên thực tế, thể chế nhất ngun một đảng
lãnh đạo hồn tồn khơng đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và dân chủ, phát
triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Trên thế giới hiện nay, có khơng ít những
nước đa đảng, nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất;
ngược lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm,
kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng là: đa
nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển, đúng như đồng chí

Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Khơng phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng
thì ít dân chủ hơn”.
16


Cũng từ thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một điều hết sức đau xót đối với cách mạng thế
giới, đó là sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Xôviết và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu vào thập niên cuối của thế kỷ XX. Đặc biệt, ở Liên Xô, dưới tác động
bởi những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch, cùng với sự
“phản bội” của một số người trong Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đứng
đầu là M.Gorbachev đã đưa tới tại Đại hội bất thường của các đại biểu nhân dân ngày 153-1990, quyết định xoá bỏ Điều 6 Hiến pháp Liên Xơ, hiến định về vai trị lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Bắt đầu từ điểm mốc này, đã hình thành chế độ đa đảng ở Liên Xô, với
sự ra đời của vơ số các tổ chức, đảng phái chính trị, đối lập cạnh tranh vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Liên Xô, để rồi đưa tới một kết cục bi thảm: Đảng Cộng sản Liên Xô
mất quyền lãnh đạo đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trong hơn 70 năm
hoàn toàn sụp đổ vào tháng 8-1991. Chính bài học thực tiễn đau xót này chỉ ra rằng, nếu
hiện nay Việt Nam chấp nhận đa ngun, đa đảng thì kết cục chắc chắn sẽ khơng khác gì
như Liên Xơ trước đây.
Cũng cần phải làm rõ hơn, các lập luận của những người muốn thực hiện đa đảng ở Việt
Nam thường lấy “thực tiễn” ở các nước tư bản để minh chứng, dẫn tới một số người do
thiếu hiểu biết nên đã ít nhiều tin vào những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch,
mà lầm tưởng rằng cứ nhiều đảng cạnh tranh thì sẽ dân chủ hơn, xã hội phát triển hơn.
Hãy nhìn sang một số nước tư bản hiện nay, nhất là nước Mỹ với sự tồn tại của 112 đảng,
nhưng chỉ có hai đảng (Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hồ) thay nhau cầm quyền. Tuy bề
ngoài là chế độ đa đảng đối lập, nhưng xét về bản chất chỉ là một đảng - đảng của giai cấp
tư sản. Vì thế, dù Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hoà nắm quyền, cũng đều là đảng của
giai cấp tư sản, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản; dân chủ ở Mỹ khơng gì khác là
nền dân chủ tư sản, nền dân chủ chỉ dành cho một bộ phận thiểu số, một số ít người trong
xã hội. Điều này cũng dễ hiểu tại sao ở Mỹ, bên cạnh “một xã hội” với những người có
cuộc sống xa hoa, hào nhống thì vẫn cịn tồn tại “một xã hội” hồn tồn khác hẳn, gồm

hàng chục triệu người phải sống trong sự bất cơng, thất nghiệp, đói nghèo, bệnh tật,
khơng có quyền dân chủ... Chính người Mỹ, Paul Mishler - Giáo sư trường Đại học bang
Indiana đã chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng này: Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất
học,v.v.. đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra; nước Mỹ tự xưng là
17


đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là Đảng
Cộng hoà hay Dân chủ.
Như vậy, thực chất luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mang nặng tính
chất mị dân, hết sức nguy hiểm, bởi rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những
người có nhận thức hạn chế. Từ đó, có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, dẫn tới sự dao động
về tư tưởng, hồi nghi về vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách
mạng Việt Nam; gây nên sự phân tâm trong xã hội; làm suy giảm và mất dần niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng từ những luận điểm này, đã
hướng đến việc xoá bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ tư sản; nguy
cơ gây nên những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm
cho chính trị - xã hội mất ổn định, kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu
thuẫn và xung đột xã hội sẽ gia tăng, phá vỡ khối đồn kết dân tộc... Từ đó, chắc chắn hậu
quả đối với đất nước sẽ vô cùng lớn, chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ đứng trước nguy cơ bị
sụp đổ, thành quả cách mạng bao nhiêu năm có được sẽ tan vỡ; người dân khơng những
khơng được dân chủ, mà xã hội cũng rơi vào rối loạn, khủng hoảng, trì trệ, khơng phát
triển được.
Để khơng để xảy ra những hậu quả tai hại đó, ở Việt Nam hiện nay, nhất thiết không cần
và không thể chấp nhận đa đảng đối lập như các thế lực thù địch mong muốn!
KẾT LUẬN
Liên hệ mật thiết với quần chúng, Đảng không chỉ lắng nghe, học tập quần chúng nhân
dân, mà cịn phải tơn trọng quyền của dân - dân chủ. Dân chủ là quyền lực của nhân dân,
là hình thái cơ cấu nhà nước mà ở đó, quyền của nhân dân được thực hiện vì lợi ích của
đại đa số cư dân. Nhà nước ta là Nhà nước "do dân, vì dân" và do vậy, nhân dân có quyền

"biết và bàn" việc nước. Dân chủ trực tiếp hay gián tiếp tùy thuộc vào cấp độ của bộ máy
nhà nước và hệ thống chính trị. Ở các cấp cơ sở, các cơ quan nhà nước như những tiểu hệ
thống được nhân dân kiểm tra, giám sát trực tiếp, bởi quyền lợi và nghĩa vụ của người dân
gắn trực tiếp với các tiểu hệ thống đó. Cịn ở cấp cao hơn, chẳng hạn như Quốc hội, thì
Quốc hội chính là cơ quan quyền lực cao nhất do nhân dân bầu ra để thực hiện ý nguyện
và bảo vệ quyền lợi cho mình. Như vậy, một hệ thống liên kết chặt chẽ ba lĩnh vực căn
18


bản của xã hội gồm lĩnh vực sản xuất vật chất của cộng đồng, lĩnh vực xã hội mà ở đó,
hoạt động sống của con người với tư cách một sinh thể mang tính cộng đồng, tập thể và
lĩnh vực chính trị mà ở đó, con người đóng vai trị quản lý xã hội, phản ánh một cách phù
hợp nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ tiến bộ
với hệ thống chính trị mà ở đó, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, tất cả các cơng dân đều
có quyền tham gia vào quản lý nhà nước và chịu trách nhiệm trước cộng đồng mà mình
thuộc về cộng đồng ấy.
Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định:
"Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực
hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân khơng chỉ có quyền
mà cịn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước". Điều đó có nghĩa là, mọi đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân lao
động, đồng thời nhân dân phải có trách nhiệm tham gia vào việc xây dựng và thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Điều này phản ánh thực
chất Nhà nước "của dân, do dân và vì dân". Nhân dân thơng qua trách nhiệm của mình
với đất nước, với bản thân mà thể hiện quyền làm chủ của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học
2. C. Mác và Ph. Ăngghen - Toàn tập, Tập 22, Nxb CTQG, H. 2002.
3. Trang tin tức Viện triết học – Viện hàn lâm xã hội khoa học Việt Nam.
4. Tạp chí cộng sản, tạp chí ban tuyên giáo TW
5. Trang tin tức học viện chính trị CAND
19


6. Báo điện tử đảng Cộng Sản Việt Nam.

20



×