Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Luận văn thạc sỹ kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông của giáo viên chủ nhiệm tại thành phố rạch giá, tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.36 KB, 101 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
1.1. Về mặt lý luận
Hiện nay, công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
đang ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết. Công tác tư vấn hướng nghiệp được
các lực lượng xã hội cũng như các cơ quan ban ngành quan tâm trong những năm
gần đây. Xu hướng phát triển, tồn cầu hóa, dẫn đến những thay đổi lớn về cơ cấu
ngành nghề, vừa tạo cơ hội, vừa tạo thách thức đối với lực lượng lao đợng Việt
Nam, do đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc lựa chọn nghề nghiệp của mỗi cá nhân,
mà đặc biệt là học sinh trung học phổ thông. Việc lựa chọn ngành nghề phù hợp
khơng chỉ góp phần tạo cơ hội cho cá nhân học sinh phát triển, tạo ra giá trị nghề
nghiệp cho bản thân, mà còn giúp cho xã hội phát triển lực lượng lao động bền
vững. Đối với học sinh trung học phổ thông, đặc biệt là học sinh lớp 12 cần phải có
những lựa chọn nghề nghiệp phù hợp. Đây là một quyết định quan trọng trong cả
c̣c đời.
Luật Giáo dục năm 2019 (có hiệu lực từ 01/07/2020) đã nêu rõ mục tiêu giáo
dục như sau: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có
đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng
lực và ý thức cơng dân; có lịng u nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo
của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”. Do
đó, nghề nghiệp đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong mục tiêu của giáo dục hiện
nay. Chính vì vậy, việc học sinh lựa chọn nghề nghiệp phù hợp là vô cùng cần thiết,
vì nếu chọn nghề khơng phù hợp sẽ làm cho học sinh mất đi định hướng giá trị nghề
nghiệp. Ở đây, công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh cũng là một vấn đề hết
sức quan trọng.
Công tác tư vấn hướng nghiệp ngày càng mở rộng trên phạm vi tồn quốc
nhằm giúp học sinh có định hướng để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp. Kiên Giang là
1



một trong những tỉnh thành ngày càng phát triển về kinh tế và xã hợi, bên cạnh đó,
cơng tác hướng nghiệp cũng ngày càng được chú trọng, quan tâm. Các hoạt động tư
vấn hướng nghiệp luôn là mối quan tâm lớn đối với không chỉ học sinh. Hoạt động
tư vấn hướng nghiệp ngày càng cần được hoàn thiện theo hướng khoa học, hiện đại,
thực tiễn.
Kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm
giữ vai trị then chốt để giúp các em có định hướng lựa chọn nghề nghiệp tốt. Giáo
viên chủ nhiệm giữ vai trị vơ cùng quan trọng trong việc giúp các em có những
định hướng nghề nghiệp phù hợp, là người sẽ trực tiếp trao đổi, gần gũi và giúp các
em có những định hướng đúng đắn trong việc chọn nghề nghiệp phù hợp với nhu
cầu, năng lực, sở thích, nguyện vọng của các em. Công tác tư vấn hướng nghiệp của
giáo viên chủ nhiệm có hiệu quả hay khơng phụ tḥc rất lớn vào kỹ năng tư vấn
của chính giáo viên đó. Chính giáo viên chủ nhiệm cần ý thức được vai trị, tầm
quan trọng của mình trong việc giúp các em có thể nhìn nhận để đưa ra quyết định
sáng suốt đối với việc chọn nghề nghiệp, để từ đó có thể trau dồi thêm về kỹ năng tư
vấn hướng nghiệp cho các em học sinh, giúp các em có lựa chọn cho phù hợp.
1.2. Về mặt thực tiễn
Các báo cáo cho thấy, Việt Nam có tỷ lệ sinh viên khi mới ra trường bị thất
nghiệp đang ở mức cao. Theo Tổng cục thống kê, quý III năm 2015, cả nước có hơn
340.000 người có trình đợ cao đẳng chun nghiệp, trình đợ đại học trở lên thất
nghiệp. Ngồi ra, báo cáo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và
thông tin thị trường lao động tại TP. Hồ Chí Minh trên 10.000 sinh viên cho thấy có
đến 20% khó tìm việc hoặc khơng tìm được việc phải chuyển đổi ngành học hoặc
làm những công việc thấp hơn trình đợ đào tạo. Trong tổng số sinh viên tìm được
việc làm chỉ có 50% là có việc làm phù hợp năng lực, phát triển tốt, 50% còn lại vẫn
phải làm việc trái ngành nghề. Đây có thể là hệ quả của việc khủng hoảng “thừa” ở
một số ngành nghề khi học sinh không chọn ngành nghề phù hợp với bản thân, với
nhu cầu xã hội mà chủ yếu chọn nghề dựa trên thị hiếu. Ngoài ra việc hầu hết học
sinh trung học sau khi tốt nghiệp tiếp tục chọn con đường học đại học cũng


2


làm cho thị trường lao động mất cân bằng. Thực trạng này cho thấy công tác tư vấn
hướng nghiệp là cần thiết, giúp học sinh chọn lựa đúng ngành nghề phù hợp và đáp
ứng nhu cầu xã hợi.
Đã có nhiều nghiên cứu về tư vấn hướng nghiệp cho học sinh. Tuy nhiên, các
nghiên cứu đa phần đều tập trung nghiên cứu ở những thành phố lớn. Thực tế cho
thấy, mỗi năm, sẽ có những biến thiên nhất định về kết quả nghiên cứu. Mặt khác,
khi nhìn nhận chung, đa phần các trường trung học phổ thơng hiện chưa có phịng tư
vấn hướng nghiệp riêng mà chủ yếu sử dụng phòng tham vấn tâm lý học đường và
chuyên viên tại đây sẽ hướng nghiệp cho các em học sinh. Ở một số trường, ngay cả
phòng tham vấn học đường cũng như chuyên viên tư vấn tâm lý cũng chưa có. Phần
lớn tư vấn hướng nghiệp sẽ chỉ được tổ chức qua một số tiết sinh hoạt lớp của giáo
viên chủ nhiệm và được tổ chức hết sức rời rạc, kế hoạch chưa rõ ràng, nhà trường
cũng không đưa ra các phương án, lên kế hoạch tổ chức hướng nghiệp đến giáo viên
để giáo viên hướng dẫn các em học sinh lựa chọn nghề nghiệp.
Hiện nay, giáo viên chủ nhiệm cũng chưa được đào tạo riêng về các khóa kỹ
năng tư vấn hướng nghiệp một cách bài bản. Đa phần vẫn là tự mình tìm hiểu và
việc giúp các em định hướng kế hoạch hướng vẫn chưa mang tính chun mơn cao.
Kiên Giang là một trong những tỉnh thành cũng ngày càng chú trọng, quan tâm
đến công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh, do đó rất cần có mợt đánh giá tổng
thể về năng lực kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của các giáo viên chủ nhiệm trong
tỉnh. Từ cơ sở trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông của giáo viên chủ nhiệm tại thành phố Rạch Giá,
tỉnh Kiên Giang”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu về tư vấn hướng nghiệp
Hướng nghiệp đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Các cơng trình nghiên cứu

về hướng nghiệp đều khẳng định tầm quan trọng của hướng nghiệp đối với học
sinh, giúp các em có định hướng tốt hơn để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với sở
thích, năng lực, hứng thú, đồng thời khuyến khích kết hợp hướng nghiệp trong nhà

3


trường, thực tập tại các cơ sở sản xuất, lao động, nhà máy để học sinh tiếp cận thực
tế, nhằm nâng cao nhận thức về nghề. Bên cạnh đó, các cơng trình nghiên cứu cũng
chỉ ra trách nhiệm, tầm quan trọng của cán bộ tư vấn hướng nghiệp cho học sinh,
trong đó có giáo viên.
Tại các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các vùng phát triển như Châu Âu,
Liên bang Xô Viết và Hoa Kỳ, lịch sử nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp và tư
vấn hướng nghiệp xuất hiện khá sớm do sự phát triển của hệ thống giáo dục bao
gồm giáo dục nghề và giáo dục bậc đại học.
Năm 1848, ở Pháp xuất bản cuốn “Hướng dẫn chọn nghề” đầu tiên. Nội dung
cuốn sách đề cập tới vấn đề phát triển đa dạng của nghề nghiệp do sự phát triển
công nghiệp và việc nhất thiết phải giúp đỡ thanh niên trong sự lựa chọn nghề
nghiệp [35]. Đến năm 1909 tại Hoa Kỳ, Frank Parsons bàn đến hướng nghiệp cho
HS cần phải dựa trên năng lực, năng khiếu, hứng thú, sở thích của cá nhân [59]. Tại
Liên Xơ, nhà giáo dục học N. K. Krupskaia có nhiều bài viết trong khoảng thời gian
từ năm 1918 đến 1939 khẳng định hiệu quả lao động phần lớn phụ thuộc vào sự phù
hợp của con người đối với nghề nghiệp [45].
Các cơng trình nghiên cứu đề cập đến các hình thức, phương thức hướng
nghiệp trong nhà trường bao gồm:
Năm 1996, tác giả John Schmidt và năm 1998, Roger Herring khuyến khích
các GV phối hợp định hướng nghề cho HS thơng qua những bài giảng hàng ngày
trên lớp; Tổ chức hoạt động tập thể hoặc các sự kiện đặc biệt như đi dã ngoại, lựa
chọn sách, phim, clip, và các phương tiện đại chúng khác. Với HS trung học, có
nhiều chương trình sự kiện đặc biệt về nghề sẽ giúp HS hiểu được mối tương tác

giữa những trải nghiệm của bản thân với những ước mơ, khát vọng thành công
trong tương lai. Các tác giả này đã khái quát mục tiêu hướng nghiệp cho từng cấp
học và những cách thức để tiến hành những mục tiêu đó, đồng thời chỉ ra mối quan
hệ giữa định hướng nghề và tư vấn nghề, các thành phần tạo nên mơ hình hướng
nghiệp hiệu quả [48], [61].
Năm 1986, các tác giả Frankiewiez, Rothe, Viets, Germer và Marschneider đã
đưa ra các phương thức: “Phối hợp, cộng tác chặt chẽ giữa trung tâm giáo dục kĩ
4


thuật tổng hợp và các trường phổ thông trong việc lập kế hoạch thực tập cho HS
THPT” [29]. Tác phẩm đánh dấu sự tham gia từ phía nhà trường.
Các tác giả Oberliesen, Keim, Schumann, Duismann đã có những cơng trình
nghiên cứu về phương thức tổ chức cho HS phổ thông thực tập ở các nhà máy, xí
nghiệp, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ, đã khẳng định: “Hoạt động dạy học, lao động
– kĩ thuật – kinh tế không chỉ mang tính quan trọng đối với các mơn khoa học khác,
mà cịn là bợ phận cấu thành cơ bản của giáo dục THPT… bởi vì nó đã tạo điều kiện
cho HS phát triển thành những con người trưởng thành trong c̣c sống lao đợng –
xã hợi” [56]. Cơng trình này nhấn mạnh đến kỹ năng tổ chức hướng nghiệp cho HS
trong chính mơi trường làm việc thực tế của các bợ liên quan.
Migel Jayasinghe (2001) nhấn mạnh vai trị của tư vấn hướng nghiệp trong
nhà trường và khẳng định tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường cần phải khuyến
khích HS suy nghĩ về bản thân mình và về thế giới cơng việc; u cầu HS cần có
kiến thức, hiểu biết và kĩ năng trong quá trình chọn nghề trước khi đưa ra quyết
định nghề nghiệp thông minh [49].
Từ thập niên 2000 cho đến 2010, trên thế giới đã xuất hiện rất nhiều cơng trình
nghiên cứu về tư vấn hướng nghiệp bao gồm các quy trình tư vấn hướng nghiệp, các
kỹ năng người thực hiện cơng tác hướng nghiệp cần có cũng như các cơng cụ cần sử
dụng trong q trình hướng nghiệp. Một số tác phẩm tiêu biểu như tác phẩm “Sách
hướng dẫn về kỹ năng tham vấn hướng nghiệp trong hoạt động giáo dục quốc gia,

khoa học và văn hóa” của UNESCO (2002) [62], sách “Tư vấn nghề nghiệp:
Phương pháp tiếp cận mang tính xây dựng” của tác giả Mary McMahon và Wendy
Patton (2006) [54], sách “Tư vấn hướng nghiệp: Bối cảnh, Tiến trình và Những kỹ
thuật” của Norman C. Gysbers, Mary J. Heppner, Joseph A. Johnston (2009) [47] và
cơng trình tổng kết “Tư vấn hướn nghiệp” của David Capuzzi và Mark D. Stauffer
(2011) Career counseling [44]. Các công trình này đã chỉ ra:
- Mục tiêu của tư vấn tư vấn hướng nghiệp là nhằm trợ giúp cho học sinh tìm
được mợt cơng việc phù hợp với bản thân. Các nội dung bao gồm:

5


+ Nghiên cứu những đặc điểm của HS như: năng lực, sở thích, giá trị, hứng
thú, năng khiếu và những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của HS: giáo dục,
gia đình, xã hợi, thái đợ, cảm xúc, sự hài lịng. Bên cạnh đó GV cần có những kỹ
năng hướng dẫn HS tự khám phá và hiểu được chính bản thân mình.
+ Cung cấp thơng tin về nghề, bức tranh việc làm của xã hội cho HS và hướng
dẫn các em tìm kiếm thơng tin, phân tích thơng tin và lựa chọn thông tin về nghề, về
các công việc trong xã hội.
+ Hướng dẫn HS ra quyết định và hình thành những kĩ năng ra quyết định cho
HS, giúp cho các em đưa ra được quyết định phù hợp nhất.
+ Hướng dẫn HS xác định mục tiêu và lập kế hoạch nghề nghiệp tương
lai. - Các giai đoạn và các bước thực hiện tư vấn hướng nghiệp.
Các nghiên cứu trên đã chỉ ra được những yêu cầu về mặt kiến thức, kỹ năng,
thái độ và nhiệm vụ của cán bộ phụ trách hoạt động tư vấn hướng nghiệp. Các cơng
trình nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra mục tiêu, nợi dung, quy trình tư vấn hướng
nghiệp cũng như những yêu cầu về phẩm chất, kĩ năng của cán bộ đảm nhận công
tác này.
Nghiên cứu tham vấn nghề cho HS trong nhà trường phổ thông Các tác giả
Schmidt, J.J, (1996), Roger D. Herring (1998); Vernon G.Zunker (2002) đã nghiên

cứu về tư vấn hướng nghiệp cho HS ở trường phổ thông [48],[61],[65]. Các nghiên
cứu này tập trung ở các vấn đề sau đây:
- Xác định vai trò của GV trong việc định hướng nghề và tư vấn hướng
nghiệp. Họ khẳng định: GV giống như một nhà nghiên cứu hành vi ứng xử; là tác
nhân thay đổi và được coi như mợt kỹ thuật viên.
- Xác định mục tiêu, hình thức, phương pháp tư vấn hướng nghiệp cho HS từ
cấp tiểu học đến THPT.
- Cung cấp những dịch vụ nghề nghiệp cho HS.
- Xác định các tiêu chí đánh giá, phương pháp đánh giá, nội dung đánh giá
kiến thức, kĩ năng, khả năng, và các mục đích khác của chương trình hướng nghiệp
trong trường phổ thông.

6


Như vậy: Nghiên cứu về tư vấn hướng nghiệp không phải là vấn đề mới mà đã
được các nhà khoa học đề cập từ rất sớm. Các kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy
tư vấn hướng nghiệp đã có một hệ thống lý luận làm cơ sở cho việc phát triển lý
luận về hoạt động này trong môi trường THPT.
Ở Việt Nam có những nghiên cứu sau:
Từ thập niên 60 của thế kỉ XX, ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn hướng nghiệp
được bắt đầu phát triển từ những nhà tâm lý học tiên phong trong thời kì này chủ
yếu dựa trên cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn hướng nghiệp của Liên Xô (cũ).
Trong tác phẩm “Một số vấn đề giáo dục lao động” xuất bản năm 1965 của GS.TS.
Phạm Tất Dong đã thể hiện rõ quan điểm hướng nghiệp đi đôi với giáo dục lao
động, để định hướng nghề nghiệp cho học sinh (HS) trước hết cần giáo dục cho HS
thái độ sẵn sàng bước vào các hoạt đợng nghề nghiệp [8]. Ngồi ra, tác giả Phạm
Tất Dong đã có những bài viết tiên phong về vai trò của tâm lý học trong lĩnh vực tư
vấn hướng nghiệp cho HS THPT với bài viết “Nhân cách và hướng nghiệp” đăng
trên tạp chí Nghiên cứu giáo dục xuất bản năm 1982 [9].

Đến thập niên 80, để phục vụ công tác chuẩn bị kĩ năng cho HS đi vào c̣c
sống thì hướng nghiệp mới thực sự được nhà nước chú trọng đến, qua đó thúc đẩy
giáo dục, đặc biệt là giáo dục nghề. Tinh thần này đã được thể hiện rõ thông qua tác
phẩm “Hoạt động hướng nghiệp trong trường phổ thông” do Bộ giáo dục và đào tạo
ban hành năm 1984 [4].
Công cuộc đổi mới đất nước sau năm 1986 của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
cũng làm thay đổi diện mạo giáo dục tại Việt Nam. Từ thời điểm này, giáo dục kỹ
thuật tổng hợp – hướng nghiệp nhằm tạo ra đội ngũ lao động tiên tiến, làm chủ công
cụ lao động bắt đầu được chú trọng và được xây dựng trên nền tảng khoa học tâm lý
– giáo dục. Điểm nổi bật này được thể hiện qua các tác phẩm của những tác giả tiêu
biểu như Nguyễn Trọng Bảo, Đoàn Chi. Những tác giả nêu trên đi sâu nghiên cứu
việc tiến hành công tác định hướng nghề trong các trường phổ thông và đề cập đến
các hình thức hướng nghiệp, dạy nghề trong trường phổ thông, tổ chức lao động sản
xuất cho HS; tư vấn nghề nghiệp cho HS [2],[3].

7


Thập niên 90 đến 2000 với việc cải cách giáo dục cũng phần nào thay đổi
đến công tác hướng nghiệp tại các trường phổ thông. Tác giả Nguyễn Viết Sự, Hà
Thế Truyền đã đề cập các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kĩ thuật và hướng
nghiệp ở trường phổ thơng qua các cơng trình nghiên cứu của mình [18],[32],[33].
Trong nghiên cứu thực hiện năm 2005, tác giả Hà Thế Truyền đã lý luận về phân
luồng thành các loại hình đạo tạo trong đó có đào tạo nghề đối với học sinh sau bậc
THCS [37].
Từ năm 2005- 2010, khái quát các kinh nghiệm hướng nghiệp của một số
nước trên thế giới, có những đánh giá về cơng tác hướng nghiệp cho HS ở trường
phổ thông và đã đưa ra những giải pháp về công tác tư vấn hướng nghiệp ở Việt
Nam. Những tác giả tiêu biểu trong giai đoạn này bao gồm giai đoạn 2005-2010 có
các tác giả Phạm Tất Dong, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Như Ất, Lưu Đình Mạc, Phạm

Huy Thụ, và sau này có Nguyễn Văn Lê, Trần Khánh Đức, Hà Thế Truyền, Bùi Văn
Quân [11], [23], [24]. Trong đó các tác phẩm này nhấn mạnh việc tạo ra nhân lực tốt
– mà cơ cở là tư vấn hướng nghiệp phù hợp là tiền đề để phát triển nguồn nhân lực
đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong luận án của các tác giả Nguyễn Thị Nhung (2009): “Biện pháp tổ chức
hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông miền núi Tây
Bắc” [27] và Phạm Văn Khanh (2012): “GDHN trong dạy học các môn học khoa
học tự nhiên ở trường trung học phổ thông KV Nam Trung Bộ” [22] đã tập trung
nghiên cứu những giải pháp để nâng cao chất lượng tư vấn hướng nghiệp trong nhà
trường phổ thông tại các địa phương khác nhau theo đặc thù kinh tế, văn hóa, xã
hợi. Ngồi ra, tác giả Bùi Việt Phú (2009) đã thực hiện luận án “Tổ chức GDHN
cho HS trung học phổ thơng theo tinh thần xã hợi hóa” nhấn mạnh phương pháp và
quy trình tư vấn hướng nghiệp cho học sinh [29].
Bên cạnh các cơng trình về mơ hình và lý luận của cơng tác hướng nghiệp, từ
thập niên 2010 đến nay, các cơng trình nghiên cứu về kỹ năng của chuyên viên
hướng nghiệp bao gồm chuyên viên tham vấn học đường và giáo viên bộ môn và
đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm cũng được thực hiện.

8


Theo tác giả Đặng Danh Ánh (2010) thì cán bợ thực hiện cơng tác tư vấn
hướng nghiệp phải có các kỹ năng sau: kỹ năng tổ chức cho học sinh làm quen với
các ngành nghề của nền kinh tế, đặc biệt với các nghề phổ biến và kỹ năng tìm hiểu
nhân cách của HS để giúp các em chọn nghề phù hợp [1]. Như vậy tác phẩm trên
nhấn mạnh đến kỹ năng đánh giá học sinh trong việc lựa chọn nghề nghiệp và tổ
chức các hoạt động hướng nghiệp cho học sinh
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Kim Hồng và Huỳnh Văn Sơn năm 2020 trên
352 GV được lựa chọn ngẫu nhiên ở 5 trường THPT tại TPHCM, gồm: Quang
Trung (Củ Chi), An Nhơn Tây (Củ Chi), Nguyễn Hiền (Quận 11), Trần Quang Khải

(Quận 11), Nguyễn Thị Minh Khai (Quận 3) đã liệt kê năng lực hướng nghiệp của
GV là khả năng thực hiện hoạt động hướng nghiệp theo các nhiệm vụ: giới thiệu
cho HS những ngành nghề có liên hệ trực tiếp với mơn học; tìm hiểu hứng thú về
nghề của HS; phối hợp với giáo viên chủ nhiệm tư vấn cho HS lựa chọn nghề; tổ
chức nhóm ngoại khóa, xây dựng phịng bợ mơn, tổ chức tham quan hướng nghiệp
kết hợp với tham quan môn học [19].
Trong tác phẩm “Kĩ năng tư vấn cá nhân về lựa chọn và phát triển nghề
nghiệp” của tác giả Hồ Phượng Hoàng và Trần Thị Thu nhấn mạnh đến 6 kỹ năng
giao tiếp cơ bản khi tư vấn nghề nghiệp bao gồm: hành vi quan tâm, kĩ năng đặt câu
hỏi, kĩ năng phản hồi cảm xúc, kĩ năng đối mặt, kĩ năng tập trung, kĩ năng phản hồi
ý tưởng [28].
Nhìn chung, các cơng trình trên đều khái qt được kỹ năng tư vấn
hướng nghiệp của giáo viên. Có thể thấy, các nhà nghiên cứu đã đi sâu vào những
vấn đề lý luận chung về công tác hướng nghiệp bao gồm khái quát các mục tiêu, nội
dung và các kỹ năng cần thiết trong cơng tác hướng nghiệp; khẳng định vị trí và vai
trị của GVCN trong cơng tác hướng nghiệp tại nhà trường THPT. Các nghiên cứu
trên là tiền đề lý luận, thực tiễn cho việc thực hiện tư vấn hướng nghiệp trong nhà
trường phổ thông hiện nay.
Trong bài báo “Trạng thái thất nghiệp sau đào tạo nghề” của tác giả Hoàng
Trung Học, nghiên cứu cho thấy có “hơn 75% người lao động đang phải đối mặt với

9


trạng thái thất nghiệp ở các mức độ khác nhau”, từ kết quả nghiên cứu, tác giả chỉ
một trong những nguyên nhân cơ bản của trạng thái thất nghiệp sau đào tạo nghề là
“hạn chế trong công tác hướng nghiệp, chọn nghề, từ đó tác giả cũng nhấn mạnh
vấn đề quan trọng cần đặt ra đó là “cần nghiên cứu nâng cao hiệu năng của công tác
hướng nghiệp cho người lao đợng hướng đến mục tiêu chọn đúng nghề, hình thành
được những phẩm chất, năng lực nghề phù hợp. Công tác hướng nghiệp cần được

thực hiện đồng bộ cả trước khi chọn nghề (trong giai đoạn học sinh), trong giai đoạn
học nghề (trong giai đoạn sinh viên) và khi hành nghề (giai đoạn đầu, thích ứng với
nghề) [17].
2.2. Đánh giá chung về hướng nghiên cứu
Phân tích, tổng hợp các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước về vấn đề
tư vấn hướng nghiệp, chúng tơi nhận thấy có những điểm chính sau:
Thứ nhất: Các cơng trình nghiên cứu được thực hiện bằng nhiều hình thức,
trong đó, các tác giả nhấn mạnh đến việc hướng nghiệp cho học sinh thông qua các
hoạt động lao động nghề nghiệp giúp các em hiểu rõ hơn về lao đợng, để từ đó giúp
các em nhận thực thức rõ hơn về nghề, có hứng thú với nghề.
Thứ hai: Các cơng trình nghiên cứu trên đều khẳng định vai trò quan trọng
của nhà trường và các cán bộ liên quan trong việc tư vấn hướng nghiệp cho HS, từ
đó cho thấy việc tư vấn hướng nghiệp cho học sinh là vơ cùng cần thiết và địi hỏi
nhà trường, cũng như các cán bộ liên quan, các giáo viên cũng cần có trách nhiệm
trong việc trau dồi thêm các kiến thức, kỹ năng và các thông tin hướng nghiệp để
giúp các em học sinh có định hướng nghề tốt hơn trong tương lai.
Thứ ba: Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã xây dựng được hệ
thống các khái niệm, mục tiêu, nợi dung, hình thức tổ chức hướng nghiệp. Bên cạnh
đó các cơng trình nghiên cứu đã đưa ra được những thực trạng hướng nghiệp. Đây
chính là những thành tựu về cơ sở lý luận và thực tiễn giúp cho công tác hướng
nghiệp trong nhà trường phổ thông được thực hiện một cách khoa học và hiệu quả.
Thứ tư: Các nhà nghiên cứu đều coi tư vấn hướng nghiệp là một hoạt động
chuyên nghiệp và thể hiện vai trò quan trọng nhằm giúp cho HS - những người đang

10


gặp khó khăn trong việc định hướng sau khi tốt nghiệp tìm được mợt nghề phù hợp
và giúp cho HS lựa chọn được nghề phù hợp.
Thứ năm: Các tác giả đều tương đồng nhau về các kỹ năng cơ bản trong hoạt

đợng tư vấn hướng nghiệp bao gồm:
- Tìm hiểu đặc điểm của HS đồng thời giúp cho HS tự nhận thức và đánh giá
các đặc điểm của bản thân từ đó trợ giúp HS liên hệ đặc điểm của bản thân với
những nghề tương ứng;
- Cung cấp cho HS những thông tin về nghề, về thị trường lao động đồng thời
hướng dẫn HS các cách để tìm kiếm thơng tin, phân tích và lựa chọn thơng tin;
- Tổ chức các chương trình hướng nghiệp dưới hình thức các hoạt động thực tế
hoặc lồng ghép với nội dung học tập tại trường THPT. Tuy nhiên các nội dung về
việc kiểm tra và đánh giá kết quả của công tác tư vấn hướng nghiệp cho HS lại
không được nhắc đến.
Thứ sáu: Khơng thấy sự phân chia vai trị và nhiệm vụ rõ ràng giữa các cán bộ
trong trường học trong công tác hướng nghiệp. Khơng có nhiều nghiên cứu nhấn
mạnh về nhiệm vụ và các kỹ năng cần thiết của một khách thể quan trọng là Giáo
viên chủ nhiệm. Đó là về kỹ năng tư vấn hướng nghiệp ở nhóm khách thể là giáo
viên chủ nhiệm tại THPT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng đối với kỹ năng tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh THPT của giáo viên chủ nhiệm, đưa ra kết luận và kiến nghị
góp phần hình thành và phát triển kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho giáo viên chủ
nhiệm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận về kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung
học phổ thông của giáo viên chủ nhiệm;
- Khảo sát thực trạng kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ
thông của giáo viên chủ nhiệm tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang;

11



- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của
giáo viên chủ nhiệm cho học sinh tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ
thông của giáo viên chủ nhiệm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của giáo viên chủ
nhiệm ở các trường trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang gồm: Trường
Trung học phổ thông chun Huỳnh Mẫn Đạt, Trung học phổ thơng Phó Cơ Điều,
Trung học phổ thông Nguyễn Trung Trực.
Nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi trên 117 giáo viên chủ
nhiệm và 137 học sinh lớp 12 tại 3 trường: THPT chuyên Huỳnh Mẫn Đạt, THPT
Phó Cơ Điều, THPT Nguyễn Trung Trực.
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu 2 thành viên ban giám hiệu, 5 GVCN và
5 HS.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan như các cơng trình
nghiên cứu trong và ngồi nước, các tạp chí chun ngành, các văn bản hướng dẫn
của ngành, Bợ Giáo dục và đào tạo nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Nhằm mục đích khảo sát các nhóm đối tượng là cán bợ quản lý, giáo viên phụ
trách hướng nghiệp của các trường trung học phổ thông tại tỉnh Kiên Giang.
5.3. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn các đối tượng liên quan đến đề tài nghiên cứu: cán bộ quản lý của
trường trung học phổ thông; giáo viên chủ nhiệm; giáo viên dạy hướng nghiệp ở
trường; học sinh lớp 12; đánh giá tính khả thi và cần thiết của các giải pháp được đề
xuất.


12


5.4. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được thực hiện qua quan sát qua các hoạt động hướng
nghiệp cho học sinh lớp 12 ở một số trường trung học phổ thông tại tỉnh Kiên
Giang.
5.5. Phương pháp thống kê và xử lý số liệu
Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dựa vào kết quả điều tra, người
nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu thống kê.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần:
- Phát triển những vấn đề lý luận có liên quan đề tài nghiên cứu, đưa ra góc
nhìn tổng quan hơn về kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ
thông của giáo viên chủ nhiệm.
- Phân tích thực trạng về kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học
phổ thông của giáo viên chủ nhiệm hiện nay.
- Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng, luận văn góp phần đưa ra kết
luận và kiến nghị nhằm nâng cao kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của giáo viên chủ
nhiệm hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho học sinh của giáo
viên chủ nhiệm
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực trạng kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho
học sinh Trung học phổ thông của giáo viên chủ nhiệm tại thành phố Rạch giá, tỉnh
Kiên Giang.


13


Chương 1.
LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
1.1. Lý luận về kỹ năng trong tâm lý học
1.1.1. Khái niệm về kỹ năng
Theo từ điển Oxfort “kỹ năng” là khả năng để làm tốt một công việc nào đó,
thường có được thơng qua đào tạo hoặc kinh nghiệm. Theo đó, kỹ năng được hiểu là
sự thành thạo, tinh thơng về các thao tác, đợng tác trong q trình hồn thành mợt
cơng việc cụ thể nào đó [58].
Theo Từ điển Giáo dục học, kỹ năng được phân chia thành 2 bậc: Kỹ năng bậc
thấp (bậc I) và kỹ năng bậc cao (bậc II). Kỹ năng bậc thấp là khả năng thực hiện
đúng hành động, phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể. Ở bậc này có
những kỹ năng hình thành khơng cần qua luyện tập, nếu biết tận dụng hiểu biết và
kỹ năng tương tự đã có để chuyển sang các hành đợng mới. Kỹ năng bậc cao là khả
năng thực hiện hành động, hoạt động một cách thành thạo, linh hoạt, sáng tạo phù
hợp với những mục tiêu trong những điều kiện khác nhau. Để đạt tới kỹ năng này
cần trải qua giai đoạn luyện tập các kỹ năng đơn giản, sao cho mỗi khi hành đợng,
người ta khơng cịn bận tâm nhiều đến thao tác nữa vì nhiều thao tác đã tự đợng hóa
[15].
Theo tác giả Phạm Thị Diệu Vân dịch từ sách của Lêvitơv đã định nghĩa: “Kỹ
năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp
hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có tính đến những
điều kiện nhất định”. Theo ơng, người có kỹ năng hành đợng là người phải nắm
được và vận dụng đúng đắn các cách thức hành đợng nhằm thực hiện hành đợng có
kết quả. Người có kỹ năng khơng chỉ nắm lý thuyết về hành động mà phải vận dụng
vào thực tế [39].
Theo tác giả Thái Duy Tuyên, “Kỹ năng là sự ứng dụng kiến thức trong hoạt

động”. Mỗi kỹ năng bao gồm mợt hệ thống thao tác trí tuệ và thực hành, thực hiện

14


trọn vẹn hệ thống thao tác này sẽ đảm bảo đạt được mục đích đặt ra cho hoạt đợng.
Điều đáng chú ý là sự thực hiện một kỹ năng luôn luôn được kiểm tra bằng ý thức,
nghĩa là khi thực hiện bất kỳ một kỹ năng nào đều nhằm vào mợt mục đích nhất
định [38].
Theo tác giả Đặng Thành Hưng, kĩ năng là dạng hành động tự giác, được thực
hiện có kĩ thuật, dựa và những điều kiện sinh học, tâm lý và xã hợi ở cá nhân, và có
kết quả nhất định, đáp ứng mục tiêu hay chuẩn đã định trước. Có kĩ thuật tức là
khơng tùy tiện, mà tuân theo trình tự, qui tắc và yêu cầu kĩ thuật [20].
Tác giả Hoàng Anh Phước (2012) trong luận án tiến sĩ “Kỹ năng tham vấn của
cán bộ tham vấn học đường” đã định nghĩa: “Kỹ năng là sự vận dụng tri thức, kinh
nghiệm vào hoạt động hay hành động thực tiễn trong điều kiện cụ thể để thực hiện
hành động hay hoạt động đó có kết quả theo mục đích đã đề ra” [30]. Đây cũng là
định nghĩa về kỹ năng mà chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu của mình.
1.1.2. Quá trình hình thành kỹ năng
Theo tác giả Vũ Xuân Hùng (2011), kỹ năng được hình thành qua 05 giai đoạn
[21]:
- Giai đoạn bắt chước: Chỉ hành động theo mẫu.
- Giai đoạn làm được: Hiểu nhiệm vụ, quy trình làm việc nhưng cịn có những
sai sót, thời gian hồn thành chậm và đơi khi cịn cần có sự chỉ dẫn.
- Giai đoạn làm chính xác: Làm việc theo quy trình, chính xác và hồn thiện
cơng việc nhanh chóng.
- Giai đoạn hình thành kỹ xảo: Kỹ năng được tự đợng hố, trên cơ sở đó hình
thành nên kỹ xảo.
- Giai đoạn làm biến hóa. Thể hiện khả năng di chuyển kỹ năng sang các tình
huống mới hoặc hình thành các kỹ năng phức tạp.


15


Biểu đồ 1.1. Các giai đoạn hình thành kỹ năng
Theo K.K.Platonov và G.G.Golubev (1963) thì kỹ năng được hình thành và
phát triển qua năm giai đoạn [13].
- Giai đoạn 1: Kỹ năng sơ đẳng. Ở giai đoạn này, con người ý thức được mục
đích hành đợng và tìm kiếm cách thức thực hiện hành động dựa trên vốn hiểu biết
và kỹ năng sinh hoạt đời thường, hành động bằng thử và sai.
- Giai đoạn 2: Biết cách làm nhưng không đầy đủ. Con người có hiểu biết về
phương thức hành đợng, sử dụng các kỹ xảo đã có, nhưng chưa phải là kỹ xảo
chuyên biệt dành cho hoạt động này.
- Giai đoạn 3: Có những kỹ năng chung nhưng cịn mang tính chất riêng lẻ.
Các kỹ năng này cần thiết cho các dạng hoạt động khác nhau.
- Giai đoạn 4: Giai đoạn này có kỹ năng phát triển cao, con người biết sử dụng
vốn hiểu biết và kỹ xảo đã có. Họ khơng chỉ ý thức được mục đích mà cịn ý thức
được đợng cơ, lựa chọn cách thức để đạt được mục đích.
- Giai đoạn 5: Kỹ năng khác nhau. Có nghĩa là con người khơng sử dụng các
kỹ năng đã được hình thành ở mức đợ thuần thục, điêu luyện mà còn sáng tạo trong
khi thực hiện.
Các quan điểm chung của các nhà Tâm lý học hoạt động thì các giai đoạn hình
thành kỹ năng là:
16


1. Nhận thức mục đích của hành đợng và kế hoạch hành động
2. Làm thử
3. Luyện tập
Theo tác giả Nguyễn Phụ Thơng Thái, kỹ năng được hình thành qua 2 giai

đoạn [34]. Đây chính là cách phân chia các giai đoạn hình thành kỹ năng được
chúng tơi lựa chọn làm công cụ đo của đề tài, bao gồm:
+ Giai đoạn 1: Có tri thức về hành đợng (mục đích, cách thực hiện, các điều
kiện hành động) và các kinh nghiệm cần thiết.
+ Giai đoạn 2: Vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có vào hành đợng và thực
hiện hành đợng có kết quả.
Như vậy, cần phải nắm được các giai đoạn hình thành kỹ năng để tổ chức và
điều khiển hoạt đợng giáo dục sao cho hình thành được ở giáo viên những kỹ năng
là điều cần thiết và quan trọng. Các kỹ năng của người giáo viên được hình thành và
hồn thiện trong q trình hành nghề. Đối với người giáo viên nói chung và giáo
viên chủ nhiệm THPT nói riêng khi bước vào thực hành, dù ít hay nhiều, kỹ năng
của họ phải đạt ở mức hoàn thiện mới có thể đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên, trên
thực tế, kỹ năng trong các lĩnh vực đặc biệt ngồi chun mơn giảng dạy ví dụ như
tư vấn hướng nghiệp vẫn chưa được đưa vào chương trình đào tạo sư phạm chính
thức, do đó địi hỏi GV tại các trường THPT cần phải được đào tạo thêm về lĩnh vực
này.
1.2. Lý luận về kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của giáo viên chủ nhiệm
1.2.1. Khái niệm giáo viên chủ nhiệm
1.2.1.1. Định nghĩa giáo viên chủ nhiệm
Thông tư 15/2017/TT-BGDĐT sửa đổi Quy định chế độ làm việc đối với giáo
viên phổ thông kèm theo Thông tư 28/2009/TT-BGDĐT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành đã định nghĩa: “Giáo viên chủ nhiệm là giáo viên giảng dạy ở
các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục khác, giảng dạy
trình độ sơ cấp, trung cấp được cơ sở giáo dục đó phân cơng trực tiếp quản lý, điều
hành, theo sát quá trình học tập của học sinh để báo cáo với nhà trường và gia
đình.” [4].
17


1.2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm về hướng nghiệp

Căn cứ Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT và Điều 31 của Thông tư số
12/2011/TT-BGDĐT do Bộ giáo dục và đạo tạo ban hành ngày 28 tháng 3 năm 2011
về điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thơng và trường phổ thơng
có nhiều cấp học đã quy định giáo viên trường trung học có những nhiệm vụ sau
đây [5]:
- Dạy học và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục, kế hoạch dạy học
của nhà trường theo chế độ làm việc của giáo viên do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo quy định; quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ
chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng,
hiệu quả giáo dục; tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng;
- Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương;
- Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để
nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục; vận dụng các phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo, rèn luyện phương
pháp tự học của học sinh;
- Thực hiện Điều lệ nhà trường; thực hiện quyết định của Hiệu trưởng, chịu sự
kiểm tra, đánh giá của Hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục;
- Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh;
thương yêu, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh, bảo vệ các quyền và
lợi ích chính đáng của học sinh; đồn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; tạo dựng môi
trường học tập và làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác, an toàn và lành mạnh;
- Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên khác, gia đình học sinh,
Đồn Thanh niên Cợng sản Hồ Chí Minh, Đợi Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
trong dạy học và giáo dục học sinh;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
- Giáo viên làm công tác tư vấn cho học sinh là giáo viên trung học được
đào tạo hoặc bồi dưỡng về nghiệp vụ tư vấn; có nhiệm vụ tư vấn cho cha mẹ học
sinh và học sinh để giúp các em vượt qua những khó khăn gặp phải trong học tập

18



và sinh hoạt.
Ngồi ra, giáo viên chủ nhiệm cịn có nhiệm vụ:
- Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với
hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học
sinh;
- Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng;
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bợ mơn, Đồn
thanh niên Cợng sản Hồ Chí Minh, Đợi Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ
chức xã hợi có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng
nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy đợng các nguồn lực trong
cộng đồng phát triển nhà trường;
- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị
khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng,
phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp;
hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh;
- Báo cáo thường kỳ hoặc đợt xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
Trên thế giới, các cơng trình nghiên cứu cũng ghi nhận vai trị của giáo viên
trong hoạt đợng hướng nghiệp. Nghiên cứu phân tích tổng hợp của tác giả Jiahong
Zhang (2018) đã ghi nhận vai trò của giáo viên trong cơng tác hướng nghiệp cho
học sinh. Các vai trị đó bao gồm hoạt đợng tương tác xã hợi và giáo dục giữa giáo
viên và học sinh; mối quan hệ giữa hỗ trợ của giáo viên, hỗ trợ của phụ huynh.
Thông qua hoạt động giao tiếp và hỗ trợ, giáo viên sẽ nắm được những đặc điểm cơ
bản của học sinh và đưa ra các gợi ý, chỉ dẫn về lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp
[64]. Ngoài ra các cơng trình nghiên cứu của Patrick Akos và cợng sự cịn cho rằng
việc theo sát học sinh do mình quản lý và trong bối cảnh lớp học các hoạt động tư
vấn hướng nghiệp do giáo viên thực hiện còn hiệu quả hơn [41].
Như vậy, GV nói chung và GVCN nói riêng đóng vai trị quan trọng khơng chỉ

trong cơng tác giảng dạy mà cịn cả trong những cơng tác ngồi giảng dạy, bao gồm

19


tư vấn cho HS, phụ huynh HS. Thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT do Bộ giáo dục và
đạo tạo ban hành ngày 28 tháng 3 năm 2011 là cơ sở pháp lý cho GVCN thực hiện
công tác tư vấn hướng nghiệp cho HS, đặc biệt là HS THPT.
1.2.2. Khái niệm tư vấn hướng nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm tư vấn
Tư vấn là việc chủ thể xác định phương hướng, đưa ra những gợi ý cho hoạt
đợng nào đó trên cơ sở cân nhắc những điều kiện, khả năng của từng đối tượng
nhằm đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề phù hợp với mọi điều kiện, hoàn cảnh
khách quan, chủ quan của chủ thể. Trong nghiên cứu này, tác giả quan tâm đến việc
GVCN tại các trường THPT dựa trên cơ sở, điều kiện, kỹ năng sẵn có của bản thân
như thế nào để hỗ trợ HS chọn cho mình mợt ngành nghề phù hợp cho bản thân.
1.2.2.2. Khái niệm nghề nghiệp
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Nghề” là công việc chuyên làm theo sự phân
công của xã hội. Nghề nghiệp trong xã hội khơng phải là cái gì cố định cứng nhắc
mà phải coi nghề nghiệp như mợt cơ thể sống có sự hình thành, phát triển và thay
đổi. Nghề là mợt lĩnh vực hoạt đợng lao đợng mà trong đó, nhờ được đào tạo, con
người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất
hay tinh thần nào đó [40].
Theo tác giả Nguyễn Văn Hợ, “nghề nghiệp như một dạng lao động vừa mang
tính xã hội (sự phân cơng xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân)”.
Trong đó, con người với tư cách là chủ thể hoạt đợng địi hỏi để thỏa mãn những
nhu cầu nhất định của xã hội và của cá nhân [16].
Nghề nghiệp của con người có thể do được đào tạo chính thức, địi hỏi mợt
trình đợ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Cũng có nghề được hình thành tự phát
do tích lũy kinh nghiệm xã hội hoặc do truyền và học nghề theo cách kèm cặp giữa

người biết nghề và chưa biết nghề. Các nghề này chưa có q trình đào tạo rõ rệt.
Nghề được đào tạo có đặc trưng là người làm nghề phải được cung cấp trình đợ tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, làm ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường và thu nhập của
người lao đợng chính là nguồn sống của họ. Chính vì vậy mà họ trở thành đối tượng

20


hoạt động cơ bản, lâu dài của lý tưởng nghề nghiệp từ đó hình thành nhân cách nghề
nghiệp. Nghề được đào tạo địi hỏi người học nghề phải có trình độ học vấn, sức
khỏe, yêu cầu tâm lý phù hợp với nghề. Sau q trình đào tạo, người đó phải đạt
được tiêu chuẩn cơ bản về kiến thức, kĩ năng, kỹ xảo, tay nghề theo mục tiêu xã hợi
địi hỏi, được cấp bằng hay chứng chỉ về nghề.
1.2.2.3. Khái niệm tư vấn hướng nghiệp
Theo GS.TS Phạm Tất Dong thì khái niệm hướng nghiệp [10] được hiểu trên
hai bình diện:
- Về bình diện xã hợi: hướng nghiệp là mợt hệ thống tác động của xã hội về
giáo dục, y học, xã hội học, kinh tế học giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù
hợp với năng lực, nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng và vừa phải đáp ứng được nhu
cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
- Về bình diện trường phổ thơng: Thì hướng nghiệp được coi là cơng việc tập
thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục học sinh trong việc lựa chọn
nghề, giúp cho các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích
khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của xã hội.
Hội nghị lần thứ XI bao gồm những người đứng đầu cơ quan giáo dục nghề
nghiệp của các nước XHCN họp tại Cuba đã thống nhất về khái niệm hướng nghiệp
như sau: “Hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học,
sinh lý học, y học và nhiều khoa học khác để học sinh chọn nghề phù hợp với nhu
cầu của xã hội. Đồng thời thỏa mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với những năng
lực, sở trường và tâm sinh lý của cá nhân, nhằm mục đích phân bổ và sử dụng hợp

lý có hiệu quả lực lượng lao động dự trữ có sẵn của đất nước”.
Nhà tâm lý học K. Platônôp cho rằng: “Hướng nghiệp đó là hệ thống các biện
pháp tâm lý, giáo dục, y học nhằm giúp cho con người đi vào cuộc sống thơng qua
việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phù hợp
với hứng thú, năng lực của bản thân. Những biện pháp này sẽ tạo nên sự thống nhất
giữa quyền lợi của xã hội và quyền lợi của cá nhân” [7]. Theo quan điểm của tác
giả, tư vấn hướng nghiệp là các hoạt động trợ giúp của nhà tư vấn cho đối tượng,

21


giúp đối tượng định hướng và lựa chọn được nghề nghiệp phù hợp dựa trên năng
lực, sở thích, nhu cầu của bản thân.
Dựa trên hai khái niệm tư vấn và nghề nghiệp, trong nghiên cứu này, tác giả sử
dụng định nghĩa tư vấn hướng nghiệp như sau: “Tư vấn hướng nghiệp là hoạt động
chuyên môn nhằm giúp một cá nhân nâng cao nhận thức về đặc điểm nghề, nhu cầu
xã hội đối với nghề và hiểu biết về đặc điểm tâm lý của bản thân để lựa chọn nghề
phù hợp”. Theo định nghĩa này, hoạt động tư vấn hướng nghiệp được hiểu là họat
động chuyên môn do người được chỉ định, có trách nhiệm, được đào tạo và có kinh
nghiệm đảm nhận. Hoạt động này phải dựa trên những đặc điểm tâm lý cá thể cũng
như đặc điểm xã hội làm cơ sở, hướng tới mục tiêu chọn được nghề yêu thích, học
được nghề đã chọn.
1.2.3. Kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của giáo viên chủ nhiệm
1.2.3.1. Khái niệm kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của giáo viên chủ nhiệm
Các nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng GV muốn trở thành thực hành tư vấn
hướng nghiệp phải có kiến thức chuyên môn, kỹ năng và thực tiễn cần thiết để trợ
giúp một người phát triển kế hoạch nghề nghiệp suốt đời. Họ đáp ứng được những
yêu cầu về các mặt kiến thức, kỹ năng và thực tế về cơ sở ngành như các lý thuyết,
đạo đức nghề nghiệp, các chính sách pháp luật; về tư vấn, phịng ngừa và can thiệp;
sự đa dạng về văn hóa, xã hợi và các mối quan hệ có ảnh hưởng đến sự phát triển

nghề nghiệp; đánh giá trong quá trình tư vấn; việc nghiên cứu và đánh giá tổng thể
quá trình tư vấn; chương trình xúc tiến quản lý và thực hiện, cũng như các thơng tin
về nguồn tài ngun hữu ích cho sự lựa chọn và thăng tiến trong nghề nghiệp [25].
Tại Việt Nam Tiếp tục triển khai “Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng
phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thơng giai đoạn 2018 - 2025”, trong đó tập
trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp: (1) Nâng cao nhận thức về giáo dục hướng
nghiệp và định hướng phân luồng học sinh phổ thông; (2) đổi mới nội dung, phương
pháp, hình thức giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông; (3) phát triển đội
ngũ giáo viên kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tư vấn, hướng nghiệp trong các trường
trung học; (4) tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học gắn với

22


giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông; (5) bổ sung, hoàn thiện văn bản
quy phạm pháp luật về giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh
phổ thông; (6) huy động nguồn lực xã hội trong và ngoài nước tham gia giáo dục
hướng nghiệp, định hướng phân luồng học sinh phổ thông; (7) tăng cường quản lý
đối với giáo dục hướng nghiệp, định hướng phân luồng học sinh phổ thông. Tăng
cường các hoạt động giáo dục khởi nghiệp, tạo môi trường hỗ trợ khởi nghiệp trong
trường phổ thông nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, lập nghiệp của học sinh phổ
thông [6].
Theo Nguyễn Thị Trường Hân (2011), hướng nghiệp ở trường THPT thường
tập trung vào những nội dung sau [14]:
- Giúp học sinh định hướng đúng đắn về nghề nghiệp tương lai bằng cách
cung cấp những thông tin về hệ thống ngành nghề và hệ thống các trường đào
tạo nghề trong xã hội; giới thiệu những ngành, nghề mà xã hợi, địa phương đang có
nhu cầu
- Giúp cho học sinh chọn nghề phù hợp, có căn cứ khoa học bằng cách:
+ Sử dụng các trắc nghiệm hướng nghiệp làm cơ sở khoa học khách quan để

đánh giá năng lực trí tuệ, xu hướng nghề nghiệp, tính cách… của học sinh, qua đó
giúp các em hiểu bản thân mình hơn.
+ Chỉ ra những đặc điểm, yêu cầu về phẩm chất, năng lực, điều kiện sức
khoẻ… của nghề, trên cơ sở đó học sinh đối chiếu với những đặc điểm của bản thân
để có thể tự mình đưa ra sự lựa chọn phù hợp.
+ Giúp học sinh nói lên những khó khăn của mình trong việc chọn nghề, giải
đáp những vướng mắc của các em và cho lời khuyên chọn nghề phù hợp.
Carrie Sanders và Laura E. Welfare (2017) trong cơng trình nghiên cứu về hoạt
đợng hướng nghiệp trong bối cảnh lớp học đã cho rằng người thực hiện cơng tác
này trước hết cần phải có kỹ năng tư vấn, tham vấn cơ bản và sử dụng hiệu quả.
Ngồi ra người làm cơng tác hướng nghiệp có kinh nghiệm giảng dạy hay vẫn đang
giảng dạy sẽ có điều kiện để thực hành công việc này tốt hơn và cịn cần phải có các
kỹ năng đánh giá và diễn giải nghề nghiệp, kỹ năng tiếp cận và tìm hiểu đặc điểm

23


riêng của học sinh (như văn hóa, tính cách, năng lực và sở thích), kỹ năng tìm hiểu
xu hướng hiện này trong thị trường nghề nghiệp [60].
Dựa trên những công trình trong và ngồi nước, chúng tơi xây dựng khái niệm
kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của giáo viên chủ nhiệm như sau: “Kỹ năng tư vấn
hướng nghiệp của giáo viên chủ nhiệm là hoạt động vận dụng tri thức, kinh nghiệm
nhằm trợ giúp học sinh trung học phổ thông nâng cao nhận thức về đặc điểm nghề,
nhu cầu xã hội đối với nghề và hiểu biết về đặc điểm tâm lý của bản thân để lựa
chọn nghề cho phù hợp”.
Như vậy, tư vấn hướng nghiệp là một kỹ năng chun mơn địi hỏi người thực
hiện kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp trong quá trình thực hành. Ngồi ra
khái niệm này cũng nhấn mạnh các hoạt đợng chính trong tư vấn hướng nghiệp mà
GVCN phải tuân thủ như kỹ năng tư vấn, cung cấp thông tin, đánh giá học sinh, tổ
chức hoạt động chuyên môn, v.v..

1.2.3.2. Biểu hiện kỹ năng tư vấn hướng nghiệp của giáo viên chủ nhiệm
Tổng hợp từ các nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi phân chia kỹ năng
tư vấn hướng nghiệp của GVCN thành 4 kỹ năng thành phần bao gồm:
- Kỹ năng tiếp cận và đánh giá học sinh.
- Kỹ năng hỗ trợ học sinh tìm kiếm thơng tin.
- Kỹ năng tổ chức tư vấn, ra quyết định chọn nghề cho học sinh.
- Kỹ năng tự kiểm tra và đánh giá kết quả vấn hướng nghiệp.
Kỹ năng tiếp cận và đánh giá học sinh trong việc lựa chọn nghề nghiệp
Phạm Ngọc Linh (2013) liệt kê các kỹ năng cần có khi thực hành công tác
hướng nghiệp bao gồm [25]:
- Sử dụng các trắc nghiệm tâm lý tổng quát, bảng kiểm, bảng tự đánh giá cá
nhân. Trắc nghiệm được xem như là những công cụ đắc lực cho tư vấn hướng
nghiệp đã được các nhà tư vấn hướng nghiệp quan tâm từ lâu như lý thuyết của F.
Parsons tại Hoa Kỳ và việc áp dụng các trắc nghiệm nhân cách của F. Galton phục
vụ cho việc tư vấn nghề tại Anh. Việc sử dụng trắc nghiệm khách quan có thể giúp
người được tư vấn biết được về cơ bản cá nhân có hợp (hay khơng hợp) với nghề

24


định chọn. Kết quả trắc nghiệp là cơ sở khoa học để tư vấn hướng nghiệp, góp phần
hỗ trợ cho học sinh tự hiểu mình mợt cách khách quan hơn, từ đó biết chọn học
ngành nghề nào cho phù hợp, đồng thời tránh chọn lầm nghề. Một số trắc nghiệm
được các chuyên gia khuyên dùng là IQ (chỉ số trí tuệ ), EQ (đo chỉ số cảm xúc),
AQ (đo chỉ số vượt khó), CQ test (đo chỉ số sáng tạo)...
- Các trắc nghiệm chuyên biệt như: Trắc nghiệm nghiên cứu kiểu nhân cách
của Eysenck, trắc nghiệm khn hình tiếp diễn của Raven, trắc nghiệm đánh giá trí
tuệ tổng quát của Wechsler, trắc nghiệm giao tiếp Luscher.
- Các trắc nghiệm nghề nghiệp như: trắc nghiệm hứng thú học sinh của
Golomstoc, bản xác định kiểu nghề cần chọn trên cơ sở tự đánh giá của John Holland.


Như vậy kỹ năng đánh giá của GVCN trong công tác hướng nghiệp phải bao
gồm kỹ năng thực hiện 3 loại trắc nghiệm tâm lý: trắc nghiệm trí tuệ, trắc nghiệm
nhân cách và trắc nghiệm nghề nghiệp.
Tương tự, nghiên cứu của Trần Chí Vĩnh Long và Nguyễn Thị Diễm My
(2015) đã liệt kê GV khi thực hành hướng nghiệp cần phải có kỹ năng giúp học sinh
tự đánh giá phẩm chất, năng lực, hoàn cảnh cá nhân. Nghiên cứu này cũng chỉ ra
rằng GV cần phải có kỹ năng tư vấn cho học sinh khi các em nhờ giúp đỡ, kỹ năng
giao tiếp với HS [26].
Theo Phạm Hồng Quang, Nguyễn Thị Tính, Nguyễn Danh Nam, Nguyễn Vũ
Bích Hiền (2015) đã liệt kê kỹ năng tiếp cận học sinh bao gồm: kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng giải quyết tình huống giáo dục, kỹ năng truyền đạt và kỹ năng huy động các
thành phần khác [31]. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần có những kỹ năng tìm hiểu
học sinh bao gồm: tìm hiểu khả năng nhận thức, trình đợ tư duy của học sinh, tìm
hiểu khả năng giao tiếp của học sinh, tìm hiểu điều kiện sống, học tập của học sinh,
tìm hiểu nhu cầu, sở thích của học sinh, tìm hiểu các thói quen, hành vi của học
sinh, tìm hiểu phong tục tập qn cợng đồng địa phương.
Kỹ năng tìm kiếm thơng tin liên quan đến lĩnh vực chọn nghề của học sinh

Phạm Ngọc Linh (2013) cho rằng, GVCN thực hành hướng nghiệp cho học
sinh THPT, ngồi trình đợ nhận thức, chun mơn, kỹ năng thái đợ... thì họ cần có

25


×