PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với chức năng kết nối, là sợi
dây liên kết các chủ thể trong nền kinh tế. Cùng với sự phát triển kinh tế và công
nghệ, hệ thống ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh: đa dạng về loại hình,
phong phú về các hình thức hoạt động, trong đó tín dụng là hoạt động quan trọng
nhất bởi nó mang lại phần lớn thu nhập cho tổ chức này đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều
yếu tố rủi ro nhất, có thể gây ra tổn thất cho bản thân ngân hàng, cho khách hàng và
uy tín của ngân hàng. Những rủi ro này là không thể tránh khỏi mà chỉ có thể giảm
thiểu bằng việc nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng. Một trong những
biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng là nâng cao chất lượng công tác phân tích
tín dụng.
Ngân hàng Phương Nam ( Southern Bank- SB) là một tổ chức tài chính được
biết đến với việc phát triển tín dụng rộng rãi đặc biệt phục vụ các đối tượng là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể và nhu cầu cá nhân. Trong điều kiện các tổ
chức tài chính phát triển như hiện nay, để đứng vững trên thị trường, ngân hàng
Phương Nam không những không ngừng nỗ lực tìm kiếm, mở rộng các hoạt động
chăm sóc khách hàng mà bản thân ngân hàng cũng không ngừng đẩy mạnh công tác
nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Đây luôn được coi là mục tiêu chiến lược của ngân hàng
Phương Nam.
Do vậy, vấn đề “Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng tại ngân hàng
Phương Nam –chi nhánh Hà Nội” được người viết hết sức quan tâm và chọn làm đề
tài nghiên cứu cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu chất lượng phân tích tín dụng tại các NHTM nói chung
- Xem xét thực trạng phân tích tín dụng tại SB – Hà Nội, đưa ra ví dụ điển
hình từ đó đánh giá lại toàn bộ thực trạng này.
- Đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng phân tích tín
dụng.
1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đứng trên giác độ là nhân viên tín dụng của ngân hàng, người viết tập trung
vào:
- Đối tượng : Chất lượng phân tích tín dụng tại SB – Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu: là hoạt động phân tích tín dụng khi cho vay của SB
trong khoảng thời gian từ năm 2004 – 2007
4. Những đóng góp của luận văn
- Tổng hợp và phân tích các lý luận chung về phân tích tín dụng và chất lượng
phân tích tín dụng.
- Tìm hiểu, xem xét và đánh giá về thực trạng phân tích tín dụng và chất lượng
phân tích tín dụng tại SB – Hà Nội từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất
lượng của hoạt động này tại SB.
5. Nội dung của luận văn được khái quát thông qua các phần sau:
Chương 1: Chất lượng phân tích tín dụng của NHTM
Chương 2: Thực trạng và chất lượng phân tích tín dụng tại SB – Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tín dụng tại SB – Hà Nội.
CHƯƠNG 1: CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)
2
1.1. PHÂN TÍCH TÍN DỤNG CỦA NHTM:
1.1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM:
1.1.1.1 Khái niệm và phân loại tín dụng:
Khái niệm:
Hoạt động tín dụng ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất
hàng hóa, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cung cấp và lưu thông hàng
hóa. Tùy từng lĩnh vực mà người ta hiểu về hoạt động tín dụng khác nhau, tuy nhiên
có thể đưa ra khái niệm chung nhất về tín dụng như sau:
Tín dụng là một khái niệm chỉ mối quan hệ giữa các chủ thể, trong đó chủ thể này
chuyển cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị (có thể dưới hình thái hàng
hóa hoặc hình thái tiền tệ) với những điều kiện nhất định mà hai bên thỏa thuận.
Theo đó, tín dụng ngân hàng là mối quan hệ trong đó ngân hàng- chủ thể chuyển
quyền sử dụng cho cá nhân, hoặc doanh nghiệp- quyền sử dụng một lượng giá trị
(dưới hình thái tiền tệ) với những điều kiện mà hai bên thỏa thuận.
Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng chính là hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại, là một trong những hoạt động truyền thống và đặc trưng của NHTM.
Không chỉ thể hiện vai trò quan trọng ở việc chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản
mà tín dụng còn là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho các NHTM.
Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam thì hoạt động tín dụng được hiểu là “ việc
tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”
trong đó tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền nhất định với nguyên tắc có hoàn trả.
Trên khía cạnh xã hội, hoạt động tín dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông
qua việc lưu thông nguồn tiền trong nền kinh tế, nhờ hoạt động tín dụng, nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào phát triển các công trình, các dự án, các hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp, và điều này tạo nên sự phát triển của nền
kinh tế. Ở những quốc gia có nền tài chính còn chưa phát triển, kênh huy động vốn
trực tiếp thông qua thị trường chứng khoán chưa hoàn thiện thì tín dụng ngân hàng
vẫn là hình thức hiệu quả, tối ưu và phổ biến nhất đối với các doanh nghiệp có nhu
cầu về vốn. Với tầm quan trọng như vậy, hoạt động tín dụng cần được hoàn thiện và
đạt được một chất lượng đủ tốt để duy trì cho sự phát triển của không chỉ riêng bản
3
thân tổ chức tín dụng mà của cả nền kinh tế đất nước. Trên thực tế, nếu chất lượng tín
dụng kém, các ngân hàng phản ứng lại bằng cách cắt giảm các khoản tín dụng mới
mà họ có kế hoạch cung cấp đồng thời từ chối các yêu cầu gia hạn tín dụng. Cung tín
dụng giảm trong trường hợp này sẽ kéo theo hiệu ứng giảm trong cầu các khoản chi
cho đầu tư phát triển và chi cho tiêu dùng. Nếu quy mô cho vay của ngân hàng tiếp
tục giảm như vậy nền kinh tế tất yếu sẽ bị suy thoái.
Phân loại:
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục
tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại
* Phân loại theo thời gian: Có thể được phân thành tín dụng ngắn hạn, tín dụng
trung hạn và tín dụng dài hạn.
* Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
* Phân loại theo tài sản đảm bảo: gồm tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của
chính khách hang (tín chấp) hay tín dụng có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
* Phân loại theo rủi ro: căn cứ vào mức độ rủi ro, tín dụng được phân chia thành
các loại như tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề, hay các khiản nợ quá hạn có khả
năng thu hồi và các khoản nợ quá hạn khó đòi
Ngoài ra còn có các cách phân loại khác như phân loại theo ngành kinh tế (như
cho vay nông nghiệp, lâm nghiệp…), theo mục đích (cho vay sản xuất kinh doanh,
vay tiêu dung), …
1.1.1.2. Các nghiệp vụ tín dụng
+ Chiết khấu thương phiếu:
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và
dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ
thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua ( hoặc người phải trả) hoặc mang đến
ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất, thời hạn và lệ phí chiết khấu.
Nghiệp vụ chiết khấu đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những
người ký tên trên thương phiếu. Nghiệp vụ này cũng có tính an toàn cao do thương
phiếu là loại tài sản có tính thanh khoản tốt, có thể thực hiện tái chiết khấu tại Ngân
hang Nhà nước với chi phí thấp.
+ Cho vay:
4
- Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong
khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Điều kiện để khách hàng được áp dụng hình thức thấu chi là cam kết thông
qua hợp đồng với ngân hàng khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Trong hợp
đồng này, khách hàng và ngân hàng sẽ thống nhất với nhau về lãi suất và hạn mức
thấu chi. Khi khách hàng gửi thêm tiền vào tài khoản của mình, ngân hàng sẽ thực
hiện nghiệp vụ trừ tiền từ tài khoản của khách hàng và số tiền mà khách hàng phải
trả:
Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi
Hình thức thấu chi tạo điều kiện cho khách hàng có thể thực hiện các thủ tục
thanh toán nhanh chóng, chủ động, kịp thời, hình thức linh hoạt, thủ tục đơn giản và
phần lớn là không có tài sản đảm bảo nên thường được áp dụng cho các khách hàng
thường xuyên, đáng tin cậy của ngân hàng. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn
có thể được áp dụng cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân trong vài ngày, vài tháng trong
một năm để đáp ứng kịp thời các nhu cầu của khách hàng.
- Cho vay trực tiếp từng lần:
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện
để được cấp hạn mức thấu chi.Đối với những khách hàng kinh doanh, sản xuất theo
mùa vụ, hoặc chu kỳ sản xuất có một vài giai đoạn cần được bổ sung vốn thì hình
thức này là phù hợp.
Cũng như bất kỳ mọi món vay, khách hàng buộc phải trình bày phương án sử
dụng vốn vay của mình. Nếu ngân hàng kiểm tra và đánh giá là phương án sử dụng
vốn hợp lý, ngân hàng sẽ tiến hành các bước ký hợp đồng và các điều khoản liên
quan đến việc giải ngân tiền vay, lãi suất, tài sản đảm bảo. Mỗi món vay được tách
biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Việc trả nợ theo hợp đồng được thực hiện theo chuỗi niên kim với thời hạn đã
quy định trong hợp đồng. Đến hạn, ngân hàng sẽ tiến hành thu gốc và lãi. Tuy nhiên,
nếu khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã cam kết hay vi phạm các
điều khoản khác của hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá
hạn.
5
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát
từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo. Với những
ưu thế như vậy, hình thức tín dụng này phù hợp với những hộ kinh doanh nhỏ lẻ và
nhu cầu tiêu dùng nên ngân hàng mất nhiều chi phí cho việc theo dõi các món vay.
- Cho vay theo hạn mức:
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn
mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối
đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không
được vượt quá hạn mức tín dụng . Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức
cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng
phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra
tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Hình thức cho vay này rất thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường xuyên.
Ưu điểm của hình thức tín dụng này là ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ,
khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo điều kiện cho khách hàng
chủ động trong quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên, do các lần vay không được chia thành
các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng gặp phải khó khăn trong việc kiểm soát hiệu quả
của các món vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo
tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
- Cho vay luân chuyển:
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.
Hình thức tín dụng này được áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp mua hàng nhưng
thiếu vốn.Để được vay luân chuyển, đầu năm hoặc quý, khách hàng phải làm đơn xin
vay, ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận về phương thức, hạn mức tín dụng có thể
trong 1 hoặc vài năm. Theo hợp đồng, khách hàng phải cam kết thu nhập từ việc bán
hàng phải được dùng vào việc trả nợ vay trước khi khách hàng thanh toán cho các đối
tượng khác. Do mối quan hệ trực tiếp như vậy nên khi khách hàng gặp phải khó
6
khăn trong quá trình bán hàng, ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ.
Khác với các hợp đồng tín dụng khác, trong hợp đồng cho vay luân chuyển, thời hạn
được nêu ra không phải là thời hạn trả nợ mà là thời hạn ngân hàng tiến hành xem xét
tình hình tài chính, mức độ tuân thủ hợp đồng, mối quan hệ của khách hàng và ngân
hàng để quyết định xem khách hàng có được vay nữa hay không.Việc cho vay dựa
trên luân chuyển của hàng hóa nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên
cứu kế hoạch luân chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian
tới.Các khoản phải thu và cả hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản
cho vay. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thị ngắn ngày, có quan hệ vay trả
thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần
thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì
vậy việc thanh toán cho người cung cấp cũng sẽ nhanh gọn.
- Cho vay trả góp:
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả
gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường
được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc
hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ
(thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của
người tiêu dùng).
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả
góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay
mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh
hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất
trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp:
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng
cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua
các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, hội nông dân,
hội cựu chiến binh, hội phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo
7
một mục đích riêng, song chủ yếu đều nhằm hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho
mỗi thành viên. Ngân hàng có thể giao một vài khâu của hoạt động tín dụng cho các
tổ chức nàu đứng ra thực hiện như thu nợ, phát tiền vay...hoặc các tổ chức này có thể
đứng ra bảo đảm cho các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay.
Điều này rất thuận tiện cho người vay không có tài sản thế chấp. Vì vậy, việc phát
triển kinh tế, làm giàu, xóa đói giảm nghèo luôn được các tổ chức này rất quan tâm.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ,
người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua
trung gian có thể tiết kiệm cho phí cho vay.
+ Cho thuê tài sản (thuê - mua):
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là cho vay để khách hàng mua tài
sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không đủ hoặc chưa đủ điều kiện
để vay. Để mở rộng tín dụng, NHTM đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng
để cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu của ngân hàng nên ngân
hàng nên ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê nếu người thuê
không trả nợ được. Điều này góp phần làm giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng.
+ Bảo lãnh (hoặc tái bảo lãnh):Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân
hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên: bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo
lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng của
ngân hàng là người được bảo lãnh; và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
Phân loại theo mục tiêu bảo lãnh, có các loại như sau: bảo lãnh tham gia dự thầu,
bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh
đảm bảo hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
KẾT LUẬN: thông qua nghiệp vụ tín dụng gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh,
cho thuê, ngân hàng góp phần tài trợ cho nhu cầu vốn của khách hàng. Các nghiệp vụ
tín dụng đa dạng nhằm phù hợp với quá trình luân chuyển vốn và chu kỳ thu nhập
của khách hàng.
1.1.1.3. Rủi ro tín dụng
* Bản chất rủi ro tín dụng
8
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả hoặc không trả đúng hạn,
hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất
của ngân hàng thương mại- hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ
cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho khả năng xảy
ra rủi ro là thấp nhất. Tuy nhiên không thể có một nhà ngân hàng nào có thể dự đoán
được chính xác các rủi ro sẽ xảy ra. Nguyên nhân có thể từ phía khách hàng, khả
năng trả tiền vay của họ có thể thay đổi. Ngoài ra còn do cán bộ ngân hàng không có
khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Như vậy, rủi ro tín dụng là không
thể tránh khỏi, là khách quan, chỉ có thể hạn chế chứ không thể loại trừ.
* Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
- Nguyên nhân bất khả kháng.
Các nguyên nhân bất khả kháng ảnh hưởng đến người vay, làm họ mất khả
năng thanh toán cho ngân hàng: thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh hoặc những thay đổi
mang tầm vĩ mô… vượt quá khả năng kiểm soát của cả người vay và ngân hàng.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra và có những tác động khác nhau đến
người vay. Đối với những người vay có bản lĩnh, họ có khả năng dự báo, hạn chế
hoặc thích ứng với những biến cố thì việc trả tiền vay không còn là vấn đề khó khăn.
Trong những trường hợp khác, họ vẫn có thể trả nợ đúng hạn và đủ. Tuy nhiên, đối
với những trường hợp tổn thất nặng nề thì khả năng trả nợ của khách hàng bị suy
giảm là không thể tránh khỏi.
- Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay.
Những nguyên nhân thuộc loại này chủ yếu là do các tình huống sau: trình độ
yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ỳ…. Nhiều trường
hợp người vay mạo hiểm với món vay nhằm thu được lợi nhuận lớn, họ cung cấp
thông tin không trung thực, lệch lạc nhằm đối phó với cán bộ ngân hàng. Nhiều
người khác lại không tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra từ đó không có
khả năng thích ứng với những nguyên nhân bất khả kháng. Trường hợp còn lại là
những người vay làm ăn hiệu quả nhưng cố tình không trả nợ cho ngân hàng với hy
vọng có thể quỵt nợ hoặc muốn giữ món vay càng lâu càng tốt.
- Nguyên nhân thuộc về ngân hàng.
9
Nhóm nguyên nhân này bao gồm những yếu tố sau: chất lượng cán bộ kém,
không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai….Để
hạn chế những nguyên nhân này, đòi hỏi nhân viên của ngân hàng không những
thông thạo về chuyên môn mà còn phải hiểu biết về nhiều chuyên môn, ngành nghề,
môi trường mà khách hàng đang kinh doanh, sinh sống. Ngoài ra, vấn đề đạo đức
cũng cần chú trọng đến bởi làm việc trong môi trường “ nhạy cảm” nếu nhân viên
ngân hàng không đủ bản lĩnh có thể dẫn đến các hành vi rút ruột ngân hàng. Có thể
đạt được những tiêu chuẩn như vậy thì khả năng rủi ro tín dụng sẽ được hạn chế.
* Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Mặc dù rủi ro tín dụng mang tính khách quan nhưng ngân hàng vẫn cần phải
quản lý để hạn chế nó. Căn cứ vào những nguyên nhân nảy sinh rủi ro ngân hàng có
thể nhận biết được các dấu hiệu chính phát sinh làm xuất hiện rủi ro trong hoạt động
tín dụng như sau:
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
- Nợ có vấn đề
- Tính đa dạng hóa của tài sản
- Tình hình tài chính và phương án của người vay hoặc xếp hạng tín dụng
- Đảm bảo tiền vay
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng
- Môi trường hoạt động của người vay
1.1.1.4. Quản lý rủi ro tín dụng.
Hoạt động tín dụng bao gồm 2 mặt là sinh lời và rủi ro. Phần lớn thua lỗ của
ngân hàng là hậu quả của hoạt động này. Bên cạnh đó, tín dụng là hoạt động mang
tính khách quan. Do đó, ngân hàng cần phải chú trọng đến quản lý rủi ro để đảm bảo
cho các mục tiêu mà ngân hàng đã đặt ra trong quá trình kinh doanh của mình.
Quản lý rủi ro bao gồm:
- Hạn chế các khoản vay tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi.
Nội dung này đòi hỏi khi cho vay và đặt giá ngân hàng phải cẩn thận, thực
hiện đa dạng hóa.
+ Thực hiện các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong luật các tổ chức
tín dụng và trong các quy định của ngân hàng Nhà nước.
10
+ Xác định danh mục các khoản danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi
ro khác nhau.
+ Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng.
+ Xác định dấu hiệu của các khoản vay có vấn đề, giới hạn các khoản tín dụng
và đa dạng hóa.
- Quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề: bao gồm các nội
dung:
+ Ngân hàng phân loại nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề. Phân tích
nguyên nhân, thực trạng, khả năng giải quyết.
+ Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời song vẫn có khả
năng và ý chí trả nợ, ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ cho vay thêm, gia hạn nợ,
giảm lãi….
+ Trong trường hợp người vay lừa đảo, chây ỳ, không có khả năng trả, ngân
hàng áp dụng các chính sách thanh lý như bán tài sản thế chấp, phong tỏa tiền gửi
trên tài khoản.
+ Xây dựng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất. Dựa trên tỷ lệ rủi ro chấp nhận
và danh mục các khoản cho vay rủi ro, ngân hàng xây dựng quỹ dự phòng. Quỹ này
không có tác dụng làm giảm rủi ro mà để chống đỡ cho vốn của chủ khi tổn thất xảy
ra.
1.1.2 Phân tích tín dụng của NHTM:
1.1.2.1. Khái niệm, mục tiêu và yêu cầu:
Khái niệm.
Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn và có khả năng sinh lời cao nhất và
hàm ẩn nhiều rủi ro trong toàn bộ hoạt động của NHTM. Từ những nguyên nhân làm
xuất hiện nảy sinh rủi ro đã nêu lên ở phần trước, để quyết định có chấp nhận cho vay
hay không, nhà ngân hàng phải cân nhắm và cố gắng ước lượng được rủi ro không
hoàn trả của khách hàng. Rủi ro này được ước lượng, đánh giá thông qua một quy
trình bằng phương pháp phân tích tín dụng.
Phân tích tín dụng là quá trình đánh giá toàn diện về nhu cầu vay vốn của
khách hàng phù hợp với những quy định của ngân hàng, có khả năng hoàn trả cho
ngân hàng hay không, đồng thời qua phân tích đó ngân hàng xác định mức độ rủi ro
có thể chấp nhận được trong quá trình cho vay.
11
Mục tiêu.
Mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý muốn trả nợ của
người vay trong việc hoàn trả tiền vay, phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín
dụng. Ngân hàng phải xác định và ước lượng được mức độ rủi ro và mức cho vay có
thể chấp nhận được đối với mỗi khách hàng. Hay nói cách khác, mục tiêu của phân
tích tín dụng là xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro. Từ mục tiêu như vậy,
nội dung phân tích tín dụng là thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định uy tín,
tư cách pháp lý, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay... trong
quá khứ, hiện tại và tương lai, hiệu quả của dự án....
Yêu cầu
Phân tích tín dụng là công việc nghiêm túc, không thể làm một cách chiếu lệ.
Trong môi trường cạnh tranh với sự phát triển của nhiều ngân hàng , khách hàng, đòi
hỏi bản thân các ngân hàng phải không những nâng cao chất lượng phân tích tín dụng
nhằm bảo vệ cho chính mình mà còn phải triển khai công tác phân tích một cách
nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm chi phí; đây là trách nhiệm không thuộc về một cá
nhân hay một bộ phận riêng biệt nào mà nó phải được thực hiện dựa trên sự phối hợp
của nhiều phòng ban, của nhiều cán bộ của ngân hàng. Do vậy, quy trình phân tích tín
dụng đòi hỏi những yêu cầu sau:
- Được xây dựng và thống nhất trong toàn ngân hàng, tránh những hành vi
tuỳ tiện, duy ý chí. Quy trình này phải được Ban lãnh đạo ngân hàng thông
qua và phổ biến cho các phòng, ban, các cán bộ có liên quan đến hoạt động
tín dụng.
- Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung, lý
thuyết. Mỗi phòng chức năng cũng như mỗi cán bộ có liên quan phải biết
được cụ thể công việc của mình là gì, đến mức nào, làm vào thời điểm nào
trong quy trình để đảm bảo một quy trình hiệu quả, nhanh chóng, và khoa
học nhất.
- Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện các nguyên tắc tín dụng ngân hàng.
1.1.2.2.Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong thời gian đã xác
định. Tín dụng ngân hàng có nguồn gốc là các khoản tiền gửi của khách
hàng và các khoản này cũng được ngân hàng cam kết trả trong thời hạn
12
nhất định. Do vậy, chỉ khi khách hàng của ngân hàng hoàn trả các khoản
tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng thì ngân hàng mới có thể hoàn trả
cho người gửi tiền theo cam kết. Bất kỳ một sự vi phạm nào trong việc
người vay trả tiền không đúng thời hạn cũng có thể làm ngân hàng gặp khó
khăn trong khâu đối ứng với tài khoản tiền gửi của khách hàng. Đây là
điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận
với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định
khác của ngân hàng cấp trên. Pháp luật quy định những phạm vi mà ngân
hàng có thể hoạt động. Ngoài ra mỗi ngân hàng cũng có phạm vi và mục
đích hoạt động riêng. Theo những tiêu chí này, hoạt động tín dụng của
ngân hàng buộc phải tài trợ cho những mục đích mà pháp luật và tiêu chí
mà ngân hàng đã đưa ra.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên những phương án hoặc dự án có hiệu quả. Việc
đảm bảo nguyên tắc này là điều kiện để ngân hàng thực hiện nguyên tắc
thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả thể hiện được khả năng trả nợ
của khách hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc
hình thành tài sản của người vat. Trong trường hợp ngân hàng thấy phương
án cho vay kém an toàn thì ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản
bảo đảm nhằm làm giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.2.3.Qui trình phân tích tín dụng:
Quy trình tín dụng được mỗi ngân hàng lập ra dựa trên những nguyên tắc
chung và những quy định riêng phù hợp với đặc điểm của từng ngân hàng. Quy trình
này bao gồm nhiều bước có quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi bước bao gồm nhiều giai
đoạn được xây dựng một cách khoa học, hợp lý nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu
của ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người vay và hạn chế những rủi ro có
thể xảy ra với ngân hàng.
- Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng.
Nghiệp vụ này chủ yếu áp dụng cho việc thu thập và xử lý thông tin có liên quan đến
khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận
13
và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên
quan đến người vay.
+ Phương pháp áp dụng:
- Phỏng vấn trực tiếp: bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người
vay vốn, tham quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao
động, xem xét vật thế chấp.... Phương pháp này giúp cán bộ ngân hàng loại trừ các
báo cáo “ma”, kiểm chứng lại những thông tin trên giấy tờ mà ngân hàng đã được
khách hàng trình trong hồ sơ xin cấp tín dụng.
- Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian như cơ quan quản lý,
các bạn hàng chủ nợ khác của người vay, các trung tâm thông tin hoặc tư vấn.
Phương pháp này được áp dụng cho những khách hàng lần đầu tiên xin cấp tín dụng
tại ngân hàng. Rất khó để ngân hàng có thể đạt được những hiểu biết đầy đủ, chính
xác về họ. Thông qua việc mua hoặc tìm kiếm thông tin từ các nguồn trung gian,
ngân hàng có thể phân tích người vay qua các mối liên hệ của họ, cho thấy uy tín,
tình trạng rủi ro, phát triển hay suy thoái.
+ Nội dung phân tích:
- Đánh giá tài sản khách hàng: các thông tin về quy mô, chất lượng tài sản,
khả năng quản lý của khách hàng rất quan trọng với quyết định cho vay vì tài sản của
khách hàng được xem là vật đảm bảo cho các khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ cho
ngân hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán. Đối với các khách hàng là các
hộ, hoặc người tiêu dùng, thông tin về tài sản cần được phân tích là tình hình kinh
doanh, lương và các khoản thu nhập ngoài lương, tài sản cá nhân. Đối với các khách
hàng là các doanh nghiệp thì việc xem xét, đánh giá tài sản được thực hiện thông qua
việc xem số dư của các tài khoản tài sản tại một thời điểm hay số dư trung bình của
kỳ. Các số dư này này được xem tại: ngân quỹ, các chứng khoán có giá, hàng hoá
trong kho và tài sản cố định.
Trong đó:
+ Ngân quỹ: bao gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải
thu. Đây là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất trong các tài sản của doanh
nghiệp, cho phép ngân hàng có thể thu hồi một phần nợ một cách nhanh nhất. Do đó,
ngân hàng cần xem xét kỹ các khoản này để loại trừ rủi ro cho mình. Tiền mặt và tiền
gửi ngân hàng là tài sản có thể chi trả ngay, song chúng lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong
14
tổng tài sản của khách hàng. Các khoản phải thu, chủ yếu là tiền bán hàng hoá, dịch
vụ chưa thu được tiền, luôn có khả năng chuyển thành tiền mặt hoặc tiền gửi. Tuy
nhiên, ngân hàng cần phải xem xét kỹ khoản này để phòng ngừa trường hợp các
khoản phải thu khó đòi. Các khoản cho vay ngắn hạn có liên quan chặt chẽ đến tình
hình ngân quỹ của khách hàng, đặc biệt thời hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số
ngày của kỳ thu tiền.
+ Các chứng khoán có giá : là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Loại tài
sản này cho phép doanh nghiệp tăng thu nhập và có thể chuyển đổi thành tiền để chi
trả khi cần.
+ Hàng hoá trong kho: nhiều món vay ngắn hạn của ngân hàng được sử dụng
trong việc hình thành hàng hoá trong kho. Do đó, ngân hàng cần xem xét kỹ tình
trạng của các hàng hoá trong kho: số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo hiểm,
rủi ro đối với hàng hoá trong kho không chỉ trên các sổ sách, chứng từ kế toán mà
phải trên cả thực tế.
+ Tài sản cố định: các tài sản loại này thường được tài trợ bởi các nguồn vốn
trung và dài hạn do đó, ngân hàng cũng cần phải chú ý xem xét.
- Đánh giá các khoản nợ: các khoản vay của khách hàng được phân chia theo
nhiều tiêu chí khác nhau để xem xét:
+ Theo thời gian, nợ có thể được chia thành nợ ngắn hạn và nợ trung và dài
hạn, ngoài ra ngân hàng còn xem xét các khoản nợ đến hạn trong tương lai gần.
Thông thường, các khoản vay ngắn hạn thường dùng để tài trợ cho tài sản lưu động
còn các khoản vay trung và dài hạn là nguồn hình thành tài sản cố định. Do đó, tính
tương quan của chúng là đối tượng phân tích của ngân hàng. Tuỳ theo thời hạn vay
mà ngân hàng phân tích các khoản nợ đến hạn và ngân quỹ của khách hàng. Ngoài ra,
các khoản nợ quá hạn và nguyên nhân cũng là đối tượng của ngân hàng.
+ Ngân hàng quan tâm đến tất cả các chủ nợ của khách hàng. Việc đánh giá về
tất cả các chủ nợ của khách hàng cho phép ngân hàng biết được vị trí của mình trong
thứ tự ưu tiên trả nợ của khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán.
+ Ngân hàng cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có bảo đảm và nợ khác.
- Phân tích luồng tiền: Việc trả nợ cho ngân hàng phụ thuộc vào tình hình
ngân quỹ của doanh nghiệp. Trong khi lợi nhuận được coi là chỉ tiêu quan trọng phản
ánh khả năng sinh lời thì tỷ lệ dòng tiền trên tổng các khoản nợ lại là chỉ tiêu quan
15
trọng nhất đối với việc dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Có nhiều khách
hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí cả trong tương lai, do đó đòi hỏi ngân
hàng khi phân tích yếu tố này phải dựa vào đồng thời việc xem xét các khoản mục đã
được phản ánh vào sổ sách kế toán lẫn việc đánh giá các kế hoạch chi tiêu và dự án
trong tương lai.
- Sử dụng các tỷ lệ: Để đạt được mục tiêu phân tích tín dụng trong thời hạn
nhanh nhất và chính xác nhất có thể, ngân hàng đã áp dụng các tỷ lệ phản ánh năng
lực tài chính của khách hàng có liên quan đến khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này được
xây dựng là tích số của các con số của các chỉ tiêu mang bản chất khác nhau do đó
đòi hỏi chúng phải có mối liên hệ với nhau để giúp đưa ra một nhận xét chính xác.
Tuy nhiên, các con số được sử dụng lại là các số dư trên các bảng báo cáo tài chính
của quá khứ và hiện tại trong khi cái mà ngân hàng tìm kiếm lại là khả năng trả nợ
trong tương lai. Như vậy, kết luận dựa vào các tỷ lệ này không phải là những quyết
định đúng đắn nhất mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác mà ngân hàng phải đánh
giá thông qua các phương pháp khác.
+ Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
Tình hình tài chính của doanh nghiệp được phản ánh rõ nét qua các chỉ tiêu về
khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng này phản ánh mối quan hệ tài chính
giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong
kỳ. Các chỉ tiêu chủ yếu:
Hệ số thanh Tài sản lưu động
toán ngắn hạn Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh Tiền + các khoản phải thu
toán nhanh Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh Tiền
toán tức thời Nợ đến hạn
Tuỳ thuộc vào tình hình, đặc điểm loại hình kinh doanh của khách hàng mà
ngân hàng đưa ra một ngưỡng tối ưu cho các hệ số trên. Với hệ số thanh toán ngắn
hạn, chỉ tiêu lớn hơn 2 là tốt. Còn đối với hệ số thanh toán nhanh là 1, hệ số thanh
toán tức thời là 0.5. Tuy nhiên, còn tuỳ thuộc vào ngành nghề kinh doanh của khách
hàng mà điều chỉnh những chỉ tiêu này cho hợp lý hơn, chẳng hạn đối với những
16
khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ thì khác đối với những
khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp nặng.
+ Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính:
Hệ số nợ
∑
Nợ phải trả
tổng tài sản
∑
Tài sản
Hệ số nợ
∑
Nợ phải trả
vốn cổ phần
∑
Vốn chủ sở hữu
Hệ số khả năng Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
thanh toán lãi vay Lãi vay
Hệ số cơ TSCĐ hoặc TSLĐ
cấu tài sản
∑
Tài sản
Hệ số cơ cấu
∑
Vốn chủ sở hữu
nguồn vốn
∑
Nguồn vốn
Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Những doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay có tỷ lệ vào khoảng 0.3-0.4 hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải
thận trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay.
Tuỳ theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập trung
sự chú ý vào tỷ lệ tài trợ cho tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay ngắn
hạn, ngân hàng xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp. Một khoản xin vay
ngắn hạn có thể được ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ
của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn thì khấu hao và thu
nhập sau thuế là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng.
Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động:
Vòng quay Giá vốn hàng bán
hàng tồn kho Hàng tồn kho bình quân
Vòng quay Doanh thu thuần
vốn lưu động TS lưu động bình quân
Hiệu suất sử Doanh thu thuần
dụng TSCĐ TSCĐ bình quân
Hiệu suất sử Doanh thu thuần
dụng tổng tài sản
∑
Tài sản bình quân
17
Kỳ thu tiền Các khoản phải thu
bình quân Doanh thu bình quân 1 ngày
+ Nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận và phân phối lợi nhuận:
Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi:
Hệ số sinh Lợi nhuận sau thuế
lợi doanh thu Doanh thu thuần
Hệ số sinh lợi Lợi nhuận sau thuế
tài sản (ROA)
∑
Tài sản
Hệ số sinh lợi Lợi nhuận sau thuế
vốn CSH (ROE) Vốn chủ sở hữu
Nhóm chỉ tiêu về phân phối lợi nhuận:
Thu nhập Lợi nhuận sau thuế
cổ phiếu Số lượng cổ phiếu thường
Lợi nhuận đem chia
Số lượng cổ phiếu thường
Tỷ lệ Cổ tức Lãi đem chia
trả cổ tức Thu nhập cổ phiếu LN sau thuế
Nhóm tỷ lệ này đo lường khả năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai của khách
hàng- yếu tố tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng. Các chỉ tiêu được tính
toán dựa trên thu nhập ròng, doanh thu, vốn lưu động, vốn cố định hoặc tổng nguồn
vốn. Sở dĩ như vậy là vì khả năng trả nợ thực chất bắt nguồn từ khả năng tạo ra thu
nhập, tức là người vay có khả năng thu về lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
+ Nhóm chỉ tiêu về rủi ro: rủi ro của người cho vay rất đa dạng và phức tạp
nên tuỳ vào từng đối tượng khách hàng mà ngân hàng có cách tiếp cận rủi ro khác
nhau:
Sản xuất: doanh nghiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên vật liệu?
Tác động trong thay đổi chi phí là gì? Cái gì là yếu tố chi phí quan trọng nhất?
lao động? vốn? Có thay đổi nhanh trong kỹ thuật? Chi phí là bao nhiêu? Tính
phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác như thế nào? Tác động của nghiên cứu
18
Cổ tức
và phát triển? Tác động của thay đổi cơ cấu chi phí là gì? Rủi ro tác động tới
việc sử dụng trang thiết bị là gì?
Tiếp thị: các nhân tố tác động tới việc bán hàng? Cầu co dãn với giá?
Thu nhập là co dãn? Sản phẩm thay thế là gì? Nhập khẩu có lớn không? Chiến
lược cạnh tranh là gì? Những gì cản trở việc đối thủ khác gia nhập vào ngành?
Thay đổi trong nhu cầu của khách? Người bán có quyền lực hơn người mua?
Rủi ro thua lỗ của khách hàng chính là gì?
Nhân sự: cái gì làm tăng năng suất lao động? Cái gì khuyến khích
người lao động? Rủi ro của đình công? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào
những cá nhân đặc biệt?
Tài chính: sức chịu đựng của doanh nghiệp đối với lãi suất? Có bao
nhiêu cách huy động tiền? sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào một dự án?
Việc đa dạng nguồn thu?
Chính sách của Chính phủ: Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thể
tác động tới khách hàng như thế nào? Chính sách kinh tế? bảo vệ nhập khẩu?
Trợ cấp xuất khẩu? Hợp đồng với Nhà nước? Giấy phép đối với sản phẩm
mới?
- Các điều kiện kinh tế:
Các điều kiện kinh tế: thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính
trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành... làm thay đổi
các tính toán của ngân hàng từ đó làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng, giảm
khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Nguyên nhân là do các tính toán theo các chỉ tiêu
trên chỉ dựa vào những thông tin trong quá khứ và hiện tại của khách hàng, trong khi
điều ngân hàng quan tâm là khả năng trả nợ trong tương lai của khách hàng. Như
vậy, thời hạn vay càng dài, càng khó dự đoán chính xác tình hình của khách hàng.
- Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ
và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một
khoản tín dụng hoặc một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian và lãi suất
nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và
nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều khoản
của các Luật, quy định. Do vậy, cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cần cân nhắc kỹ
19
lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng bao gồm những nội
dung chính sau:
+ Khách hàng: họ, tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân (nếu có)
+ Mục đích sử dụng: khách hàng phải ghi rõ vay để làm gì
+ Số lượng tín dụng: là số tiền ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng. Số
lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời gian khác nhau và dưới
hình thức tiền tệ khác nhau.
+ Lãi suất: hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng trả đồng thời
xác định tính chất của lãi suất (là lãi suất cố định hay biến đổi trong suốt kỳ hạn tín
dụng). Nếu lãi suất có thay đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó.
+ Phí: là số tiền mà khách hàng trả cho ngân hàng khi thực hiện cam kết tín
dụng. Mức phí này được tính trên tỷ lệ phần trăm của hạn mức cam kết và cũng được
ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.
+ Thời hạn tín dụng: là thời hạn ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một
khoản tín dụng, thời hạn này thường được xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng tín
dụng.Thời hạn tín dụng được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân hạn và thời
gian trả nợ, trong đó thời gian trả nợ có thể được chia thành nhiều kỳ hạn nợ nhỏ.
Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên được phát ra đến lúc
đồng vốn và lãi cuối cùng được thu về. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi
kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng. Có khoản cho
không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển, khách hàng thoả thuận với
ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán
để thu nợ khi tài khoản có tiền. Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại
của thương phiếu. Thời hạn bảo lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh, được ghi
trong hợp đồng bảo lãnh.Nếu là cho thuê, thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao
tài sản cho khách hàng đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê.
+ Các loại đảm bảo: hợp đồng tín dụng phải ghi rõ các loại đảm bảo ( nếu có)
cho các khoản tín dụng (kèm theo các hợp đồng phụ) như hợp đồng bảo lãnh, vật tư
hàng hoá trong kho, tài sản cố định hoặc các chứng khoán có giá... Các nội dung quan
trọng có liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc
bán, định giá, bảo hiểm, người bảo quản, quyền sử dụng đối với các đảm bảo... đều
phải được xác định và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.
20
+ Giải ngân: hợp đồng tín dụng thường được xác định các điều kiện và kỳ hạn
giải ngân. Thường các khoản cho vay nhỏ và trong thời gian ngắn, ngân hàng cấp tiền
vay một lần vào đầu kỳ. Đối với các khoản vay lớn và trong thời gian dài, ngân hàng
cấp tiền theo nhiều kỳ hạn và với các điều kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn.
+ Điều kiện thanh toán: bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng và
khách hàng thoả thuận về cách thức thanh toán gốc và lãi (ngày trả và cách trả).
+ Các điều kiện khác: bao gồm các thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng
về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay,
phong toả tài sản, điều kiện về phương thức phát mại tài sản, nộp các báo cáo định
kỳ, phạt vi phạm hợp đồng...
- Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Giải ngân là việc ngân hàng cấp tiền cho khách hàng như đã thoả thuận sau
khi ngân hàng và khách hàng đã ký hợp đồng tín dụng. Đồng thời ngân hàng cũng
tiến hành kiểm soát khách hàng trong việc sử dụng tiền vay đúng mục đích, đúng tiến
độ, quá trình sản xuất... Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm thông tin về
khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy khách hàng đang
tuân thủ hợp đồng. Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ, ngân hàng cần
có biện pháp xử lý kịp thời như thu hồi nợ trước thời hạn, ngừng giải ngân.... Ngân
hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay... khi cần
thiết để đảm bảo an toàn tín dụng.
- Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi vay. Các khoản
tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số
trường hợp các khoản tín dụng đã không được hoàn trả hoặc không hoàn trả theo
đúng hợp đồng tín dụng đã ký về thời hạn và mức tín dụng do đó buộc ngân hàng
phải xem xét và tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra các quyết định mới liên quan đến
tính an toàn của tín dụng.
Trường hợp khách hàng cố ý lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc
làm ăn yếu kém không còn phương thức cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án
thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ: phong toả,
bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi...
21
Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính song vẫn kiên quyết tìm
cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm
gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
1.1.2.4. Viết báo cáo tín dụng:
Sự cần thiết của báo cáo tín dụng:
Cán bộ tín dụng- người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, có trách nhiệm thẩm
định và theo dõi việc tài trợ cho khách hàng, sau khi kết thúc quá trình điều tra tín
dụng hoặc sau một giai đoạn cho vay phải viết báo cáo tín dụng trình bày kết quả
phân tích cho trưởng nhóm, trưởng phòng hoặc Ban giám đốc ngân hàng biết để ra
các quyết định tín dụng. Yêu cầu của báo cáo tín dụng là phải vừa chi tiết vừa tổng
hợp, cần tập trung vào phân tích rủi ro hơn là mô tả số liệu. Do đó, đây là cơ sở chính
để Ban giám đốc ngân hàng quyết định tín dụng và nội dung hợp đồng tín dụng.
Nội dung báo cáo tín dụng:
- Phân tích về khách hàng: gồm các nội dung sau
+ Người nhận tài trợ, mục đích xin tài trợ.
+ Nhu cầu xin tài trợ của khách hàng, khả năng tài trợ của ngân hàng.
+ Đối tượng tài trợ: tài trợ tài sản cố định hay tài sản lưu động.
+ Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ: xác định trên cơ sở thu nhập của người
vay: thu bán hàng, người khác trả nợ, thu khấu hao...
+ Phương pháp cho vay, nguồn thanh toán.
- Tóm lược các phân tích về rủi ro: các rủi ro mà khách hàng đang phải đối
đầu có nguy cơ gây ra rủi ro tín dụng, xếp người vay vào bậc rủi ro, các loại đảm bảo
rủi ro.
+ Phân tích tóm tắt ngành và lĩnh vực mà khách hàng đang hoạt động: tập
trung phân tích mối liên hệ, tác động trong ngành như cạnh tranh, thị phần, trình độ
quản lý chung, những thay đổi quan trọng đang diễn ra, rủi ro chung cho cả ngành,
quyền quyết định thuộc về người mua hay người bán...
+ Phân tích trình độ quản lý: các phòng ban chủ yếu, các lĩnh vực có chuyên
gia giỏi như tài chính, tiếp thị, sản phẩm...., cơ cấu tổ chức.
+ Các dòng tiền: phân tích các dòng tiền dự kiến bao gồm cả rủi ro đối với
dòng tiền.
22
+ Nguồn thông tin: phân tích chung về nguồn thông tin: các thông tin lấy từ
báo cáo tài chính của người vay, từ phỏng vấn trực tiếp, từ nguồn khác.... Độ tin cậy
và tính cập nhật của nguồn thông tin.
+ Hoạt động tín dụng đóng vai trò là một trong những hoạt động cơ bản của
ngân hàng, nó mang lại nguồn thu nhập lớn nhưng cũng hàm ẩn nhiều rủi ro. Do đó,
việc thẩm định và phân tích trước khi tiến hành giải ngân là rất quan trọng. Mặc dù
hiện nay nhiều ngân hàng đã xây dựng cho mình một hệ thống phân tích tín dụng
trước khi cho vay nhưng trên thực tế, các ngân hàng đều tồn tại nợ quá hạn, tiềm ẩn
rủi ro đối với hoạt động của ngân hàng. Có rất nhiều nguyên nhân để lý giải cho điều
đó và một trong các nguyên nhân là chất lượng phân tích tín dụng. Phạm trù này
được các nhà ngân hàng nhắc đến như một giải pháp để đảm bảo chất lượng tín dụng
và sự an toàn cho chính ngân hàng.
1.2.CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG CỦA NHTM:
1.2.1. Khái niệm về chất lượng phân tích tín dụng:
Chất lượng phân tích tín dụng được đánh giá thông qua việc thoả mãn được
yêu cầu của Ngân hàng và khách hàng đặt ra khi phân tích tín dụng .
Về phía Ngân hàng, phân tích tín dụng đối với một khoản vay phải đạt được
các yêu cầu sau :
- Ngân hàng cho vay được: việc xem xét, đánh giá khách hàng không phải
nhằm mục đích tìm ra điểm yếu của khách hàng để từ chối cho vay mà nhằm xác
định mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và để đưa ra quyết định có chấp nhận cho
vay hay không.
- Ngân hàng thu hồi được cả gốc và lãi theo đúng hợp đồng tín dụng: việc cho
vay là một trong những hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhưng cho vay được
chưa phải là mục tiêu cuối cùng mà quan trọng hơn là có khả năng thu hồi được cả
gốc và lãi khi đến hạn hay không. Thông qua phân tích tín dụng, ngân hàng xác định
được khách hàng có nguồn tiền trả nợ, nguồn thu vào thời điểm nào để phân kỳ trả
nợ và lãi vay cho hợp lý.
Về phía khách hàng, yêu cầu của họ khi đặt vấn đề vay vốn đối với ngân hang
đó là vay được vốn với lãi suất và thời hạn hợp lý, phương thức trả nợ phù hợp với
nguồn thu nhập.
23
Khi các ngân hàng tiến hành phân tích tín dụng đáp ứng được các yêu cầu trên
được coi là có chất lượng, tuy nhiên chất lượng phân tích tín dụng ở mức độ cao hay
thấp lại còn tuỳ thuộc vào nhiều tiêu chí khác.
1.2.2.Các tiêu chí để đánh giá chất lượng của phân tích tín dụng:
1.2.2.1.Tính chính xác:
Cơ sở để cán bộ tín dụng tiến hành phân tích là các số liệu từ các báo cáo tài
chính của khách hàng, thông tin từ việc nghiên cứu thị trường, điều tra từ các nguồn
thông tin khác có liên quan đến khách hàng. Như vậy, chất lượng phân tích tín dụng
phụ thuộc trực tiếp vào các nguồn thông tin này. Do đó, tính chính xác của thông tin
được đặt lên hàng đầu trong các tiêu chí ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tín
dụng. Các số liệu phải có thực, phải phản ánh chính xác tình hình hiện tại của khách
hàng thì kết luận phân tích tín dụng đưa ra mới chính xác, mới là cơ sở đáng tin cậy
cho các quyết định tín dụng. Muốn thẩm định một cách chính xác, cán bộ tín dụng
không thể chỉ dựa vào nguồn thông tin do khách hàng cung cấp mà còn phải tự thâm
nhập thực tế, giám sát, tìm hiểu các nguồn thông tin có liên quan, ngoài ra có thể
tham khảo các kết quả kiểm toán đáng tin cậy (nếu có).
Khi thông tin đã được thu thập đầy đủ, tính chính xác cao thì cán bộ tín dụng
tiến hành sử dụng các công cụ và phương pháp để phân tích. Quá trình phân tích đòi
hỏi cần tuân thủ theo các quy trình và đảm bảo đúng các nguyên tắc tài chính. Một
lần nữa, tính chính xác được yêu cầu trong nghiệp vụ phân tích nhằm nâng cao chất
lượng phân tích tín dụng. Kết quả phân tích chính xác được thể hiện thông qua năng
lực và khả năng trả nợ của khách hàng. Phân tích tín dụng đối với một khách hàng là
chính xác, là hiệu quả, chất lượng cao chỉ có thể kết luận sau khi kết thúc hợp đồng
tín dụng, khách hàng hoàn trả đúng và đủ toàn bộ nợ gốc và lãi đồng thời khách hàng
có thể có những nhu cầu vay mới và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng.
1.2.2.2.Tính toàn diện:
Phân tích tín dụng cần được thực hiện một cách tổng hợp trên cơ sở xem xét
các yếu tố liên quan đến khách hàng: phương án sản xuất kinh doanh, tình hình tài
chính, đảm bảo tín dụng, công nghệ, thị trường, con người, các chính sách, định
hướng của Chính phủ đối với các ngành, các lĩnh vực mà khách hàng đang dự định
đầu tư. Các vấn đề được xem xét một cách toàn diện như vậy giúp cho cán bộ tín
dụng có thể lường trước được những rủi ro có thể xảy ra đối với khách hàng, đối với
24
các khoản vay từ đó đưa ra sự tính toán và cân nhắc về tính hiệu quả của việc cho
vay.
Tính toàn diện đòi hỏi sự thể hiện rất cao đặc biệt trong phân tích dự án. Bản
thân dự án hàm chứa nhiều yếu tố rủi ro do quy mô và tính độc lập của nó. Quá trình
thẩm định phải đi từ tính hợp pháp của dự án, tức là từ khi dự án được đưa ra, được
triển khai và đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, các yếu tố khác như môi trường đầu tư,
các điều kiện kinh tế kỹ thuật của dự án, tính khả thi của dự án, nguồn trả nợ, những
rủi ro có hệ thống và không có hệ thống... cũng được xem xét và phân tích cặn kẽ
trong quy trình phân tích tín dụng cho dự án.
Tính toàn diện là yêu cầu cần phải thể hiện trong nội dung phân tích, nó chính
là biểu hiện đảm bảo cho phân tích tín dụng đạt ở mức độ nào.
1.2.2.3.Tính khách quan
Một kết luận phân tích tín dụng có chất lượng cao đòi hỏi tính khách quan cao
trong quá trình phân tích. Sự khách quan thể hiện trong việc thu thập số liệu, phân
tích các số liệu và quá trình đưa ra quyết định tín dụng.
Mặc dù quá trình phân tích mang yếu tố chủ quan của người phân tích nhưng
hoạt động cho vay và sự hoạt động của khách hàng lại chịu ảnh hưởng bởi các quy
luật khách quan của nền kinh tế. Do đó, các quyết định tín dụng phải gắn liền với
những quy luật đó; hành vi tự phán xét và đưa ra các quyết định hoàn toàn mang tính
chủ quan, đi trái quy luật thị trường là nguy cơ tiềm ẩn những rủi ro cho chính bản
thân ngân hàng.
Hơn nữa, nhà phân tích cũng cần phải có thái độ và hành động khách quan
ngay cả trong sự phân biệt lợi ích của ngân hàng và của bản thân mình, phải đặt vấn
đề xem xét rủi ro ảnh hưởng đến ngân hàng lên trên để từ đó có những đánh giá
khách quan về khách hàng. Tất cả những yếu tố này góp phần làm nên một quyết
định tài trợ đúng đắn
1.2.2.4. Thời gian phân tích tín dụng:
Với nhu cầu vốn khẩn thiết của người vay, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các
ngân hàng trong nền kinh tế, bản thân mỗi ngân hàng phải xác định một thời gian
thích hợp để tiến hành phân tích tín dụng sao cho có sự tương thích giữa mong muốn
các món vay nhanh chóng được giải ngân của khách hàng và chất lượng phân tích đạt
25