Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn tại Agribank Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.51 KB, 81 trang )

Hc Vin Ngõn Hng Khoỏ lun tt
nghip
LI NểI U

Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực đặc
biệt, kinh doanh (Tiền tệ). Nên ngân hàng nắm giữ một vai trò vô cùng quan
trọng trong quá trình phát triển đất nớc. Đó là góp phần giúp nhà nớc điều tiết
nền kinh tế vĩ mô, thông qua vai trò trung gian tài chính. Nghĩa là thực hiện
điều tiết nguồn vốn giữa các khu vực trong nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện
tốt vai trò này đòi hỏi ngân hàng phải có sự đầu t vốn lớn, có khả năng đảm bảo
việc thu hút và phân bổ có hiệu quả các nguồn tài chính
Một số nhà kinh tế học cho rằng: Ngân hàng là một trong những sản
phẩm kỳ vị nhất trong những phát minh của nhân loại. Ngân hàng ra đời nh
những đứa con u tú nhất của nền kinh tế hàng hoá và đến nay chính ngân hàng
đã dẫn dắt nền kinh tế đạt đợc những bớc tiến to lớn.
Trớc đây, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế kém
phát triển của nớc ta là sự thiếu vốn trầm trọng, nhng cái thiếu lớn nhất là sức
huy động vốn, thiếu thị trờng vốn cùng với môi trờng pháp lý phù hợp và các
điều kiện cần thiết để động viên, thu hút các nguồn vốn tiềm tàng trong nền
kinh tế, nhất là trong dân c. Vốn là điều kiện tiền đề cho mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh nói chung. việt nam hiện nay, vốn đang trở thành một vấn đề
cấp thiết cho quá trình tăng trởng và phát triển nền kinh tế đất nớc. Tuy nhiên
để huy động đợc khối lợng vốn lớn từ nền kinh tế trong nớc là một thách thức
lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và đối với hệ thống ngân hàng th-
ơng mại nói riêng. Vốn còn nhiều nhng cần phải tìm ra đợc phơng thức huy
động và lôi vốn ra khỏi những nơi nắm giữ nó. Quản lý và sử dụng tốt số vốn
huy động đợc để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế là một vấn đề đang đợc
nhiều ngời quan tâm, sự khơi thông các dòng vốn đang là nhiệm vụ quan trọng
trong việc hoạch định chính sách kinh tế.
Trn Th Yn-LTCD4E Khoa Ngõn hng
1


Hc Vin Ngõn Hng Khoỏ lun tt
nghip
Mặt khác, để có thể tồn tại và phát triển, đáp ứng nhu cầu vốn đầu t với
tốc độ nhanh, ổn định, hoà nhập vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế
giới, các ngân hàng thơng mại (NHTM) Việt Nam phải quan tâm nhiều hơn nữa
đến công tác huy động vốn.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chúng ta không thể thực hiện thành
công công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc nếu không huy động đợc nhiều
nguồn vốn và sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Vấn đề hình thành thị trờng
vốn ngày càng trở nên cp thit đối với nền kinh tế, nòng cốt của thị trờng này
phải là các NHTM. Vì thế, ngành ngân hàng đảm đơng nhiệm vụ nặng nề là tiếp
tục đổi mới, tuân thủ những nguyên tắc của cơ chế thị trờng và các thông lệ
quốc tế nhằm huy động và cho vay có hiệu quả đáp ứng vốn cho nhu cầu tăng
trởng cao của nền kinh tế quốc dân.
Nói tóm lại, phải huy động vốn nh thế nào - điều đó còn phụ thuộc vào
chính sách, cơ chế huy động vốn của mỗi nớc. Đối với nớc ta, vốn cho phát
triển kinh tế đã trở thành vấn đề thách thức trong nhiều năm nay.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của công tác huy động vốn cũng nh hoạt
động quản lý và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả của các NHTM. Vấn đề huy
động vốn là điều kiện quyết định kinh doanh trong giai đoạn hiện nay của các
NHTM. Trong hoạt động huy ng vn NHNo & PTNT H Ni cng gặp phải
những khó khăn, những hạn chế cần phải tháo gỡ v cn cú nhng giải pháp để
tăng cờng và mở rộng công tác huy động vốn, đặc biệt là huy động tiền gửi
trung và dài hạn.
Qua thời gian thực tập ở NHNo&PTNT H N i, nghiên cứu các mặt hoạt
động đa dạng, đặc biệt là công tác huy động vốn của ngân hàng, kết hợp với
phần lý luận đợc học tập tại Hc Vin Ngõn Hng em đã mạnh dạn chọn vn
đề Một số giải pháp nhằm ho n thi n công tác huy động vốn tại
NHNo&PTNT Hà Nội làm khúa lun tt nghip ca mỡnh.
Trn Th Yn-LTCD4E Khoa Ngõn hng

2
Hc Vin Ngõn Hng Khoỏ lun tt
nghip
Ngoài lời nói đầuvà kết luậnnội dung của đề tài đợc trình bày theo 3
chơng:
Chơng I : Nhng vn c bn v cụng tỏc huy ng vn ti NHTM
Chơng II : Thực trạng cụng tỏc huy động vốn tại NHNo&PTNT H N i Ch-
ơng III : Giải pháp hon thin cụng tác huy động vốn tại NHNo&PTNT
H N i
Trn Th Yn-LTCD4E Khoa Ngõn hng
3
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTM VÀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NHTM
1.1. Khái quát về NHTM
1.1.1. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm NHTM
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của kinh tế là điều kiện và đòi
hỏi sự phát triển của ngân hàng, đến lượt mình sự phát triển của hệ thống
ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sản xuất phát triển dẫn đến lưu thông hàng hoá ngày càng được mở
rộng, khối lượng lưu thông ngày càng lớn, không chỉ trong mỗi địa phương,
trong mỗi quốc gia mà còn được lưu thông giữa các Quốc gia trong khu vực,
giữa các khu vực trên toàn thế giới. Tuy nhiên, ở mỗi Quốc gia lại sử dụng
những đồng tiền khác nhau, với giá trị khác nhau, điều này đã gây rất nhiều
khó khăn trong quá trình lưu thông, trao đổi hàng hoá. Trước thực tế đó một
số Thương gia đã chuyển sang kinh doanh hàng hoá đặc biệt (từ bỏ kinh

doanh hàng hoá thông thường), đó là đổi tiền và kinh doanh tiền tệ. Công việc
của các thương gia này đã góp phần quan trọng trong việc thu hẹp khoảng
cách giữa các đồng tiền khác nhau, giúp quá trình lưu thông hàng hoá thuận
tiện, tiết kiệm thời gian cho các nhà buôn, các thương gia. Mặt khác, để đáp
ứng nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các thương gia, những người này
kiêm luôn việc giữ hộ và thanh toán hộ tiền, và trong trường hợp cần thiết họ
còn tiến hành cho các nhà buôn vay tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán (với
chi phí thoả thuận- hay còn gọi là lãi suất).
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
4
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
Ngày nay, hệ thống ngân hàng (bao gồm ngân hàng Nhà nước và hệ
thống các ngân hàng Thương mại) phát triển hiện đại hơn, có nhiều loại hình
dịch vụ hơn rất nhiều so với thủa sơ khai, tuy nhiên một số nghiệp vụ vẫn
không thay đổi về bản chất, mà chỉ đa dạng hóa về hình thức phục vụ và
thuận tiện hơn trong giao dịch. Hoạt động của hệ thống ngân hàng ngay từ khi
ra đời đã giữ vai trò quan trọng là huyết mạch và còn là thước đo sự hưng
thịnh, suy thoái, hay trì trệ của một nền kinh tế.
Tóm lại, có thể thấy rằng sự ra đời của hệ thống ngân hàng là kết quả
của sự phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực lưu thông hàng hoá nói riêng.
Sự ra đời đó có thể ví như một trong những phát kiến vĩ đại của loài người.
Mặc dù trải qua lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay, việc đưa
ra một khái niệm cụ thể về ngân hàng thương mại thì vẫn còn là điều gây
nhiều tranh cãi của các nhà Kinh tế, bởi tại mỗi một thời điểm khác nhau thì
khái niệm lại có những thay đổi, đây lại cũng là một đặc thù của lĩnh vực
ngân hàng tài chính.
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một
loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín
dụng”.[ 4 ] Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà

ngân hàng cung cấp thì “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tổ
chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất,
đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền kinh tế”.[ 4 ] Theo luật các
tổ chức tín dụng của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc
hội khoá X (kỳ họp thứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 12 tháng 12
năm1997) thông qua thì “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền
tệ, và các dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử
dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.[ 5 ]
1.1.1.2. Chức năng của NHTM trong nền kinh tế.
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
5
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
Một là, chức năng là trung gian tín dụng: trong nền kinh tế thị trường các
giao dịch kinh tế diễn ra rất sôi động đã tạo ra những khoản thu nhập, chi tiêu
và tích luỹ bằng tiền của các tầng lớp trong xã hội. Quá trình đó hình thành
nên những người có tiền tích luỹ có khả năng cung cấp tín dụng và những
người có nhu cầu tín dụng để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Nhưng
làm thế nào để họ tìm gặp được nhau và làm sao có thể cùng thoả mãn những
nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiền tiết kiệm đang nằm
phân tán trong xã hội mà mỗi khoản tiết kiệm lại theo đuổi một mục đích
riêng.
Nhờ có thị trường tài chính và cơ chế chuyển giao vốn năng động của
thi trường tài chính mà trong đó hệ thống NHTM giữ vai trò chủ đạo, NHTM
hoạt động như một chiếc cầu nối giữa khả năng cung ứng vốn và nhu cầu về
vốn tiền tệ trong xã hội. Là trung gian tín dụng, ngân hàng đóng vai trò là
người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là những
người có nhu cầu chi tiêu cần đi vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường, bằng
những biện pháp, chính sách và áp dụng những phương pháp kỹ thuật theo

hướng hiện đại ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn tiền tệ
nhàn rỗi trong xã hội để phân bổ vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Như
vậy có nghĩa là ngân hàng đã biến những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi thành
những đồng tiền hoạt động, biến những đồng tiền tệ nằm phân tán thành
nguồn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, qua dó phát
triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hai là, chức năng làm trung gian thanh toán: trong đời sống hàng ngày
diễn ra hàng tỷ lượt giao dịch, thanh toán bằng tiền mặt. Nếu như mọi khoản
thanh toán đều bằng tiền mặt trao tay thì sẽ kéo theo hàng loạt các công việc
phức tạp và tốn kém mà nhiều khi còn gặp rủi ro không lường trước được.
Khi NHTM ra đời và phát triển, trong quá trình làm trung gian tín dụng ngân
hàng đã thu hút được hầu hết các nhà kinh doanh có quan hệ buôn bán với
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
6
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
nhau mở tài khoản tại ngân hàng tạo cơ sở cho các ngân hàng đứng ra làm
trung gian thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản bằng cách trích số dư tiền
gửi trên tài khoản của người mua chuyển sang tài khoản của người bán, tiến
hành các nghiệp vụ này ngân hàng trở thành người thủ quỹ và là bộ máy kế
toán đáng tin cậy của các nhà kinh doanh trong việc làm trung gian nhận và
trả tiền theo yêu cầu của họ. Do đó, quá trình thực hiện chức năng này hệ
thống NHTM đã góp phần quan trọng làm giảm bớt khối lượng lưu thông tiền
mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông thuần tuý, giúp cho việc thanh toán tiền hàng
hoá dịch vụ được thuận lợi, nhanh chóng, an toàn. Đối với ngân hàng thực
hiện chức năng này tạo cho ngân hàng có thể duy trì và nâng cao khả năng
thanh toán, quản lý được tình hình thu chi của các đơn vị qua đó có các quyết
định kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và an toàn tài sản cho
khách hàng và ngân hàng.
Ba là, chức năng tạo phương tiện thanh toán: quá trình tạo tiền của NHTM

bắt nguồn từ quá trình phát triển hoạt động tín dụng gắn liền với việc mở rộng
thanh toán qua ngân hàng. Qua việc thực hiện hai chức năng trên ngân hàng
đã thu hút được một lượng khách hàng và số lượng tiền gửi khá lớn tại ngân
hàng, bằng cách dùng tiền gửi của người này để cho người khác vay và người
này lại tạo nên tiền gửi của người khác nằm trong cùng hệ thống ngân hàng.
Quá trình đó NHTM đã tự tạo được khối lượng tiền gửi tăng thêm nhiều lần
từ số tiền gửi đầu tiên (Tiền gửi sử dụng Sec), khối lượng tiền đó sẵn sàng
cung ứng cho nhu cầu thanh toán vì người ta có thể viết Sec để rút tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ, Séc được sử dụng làm phương tiện thanh toán thay thế
cho tiền trong việc mua bán hàng hoá và chi trả dịch vụ khác.
1.1.1.3. Vai trò của NHTM
Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, từ khi ra đời và phát
triển NHTM đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
7
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
triển nền kinh tế thế giới. ở tất cả các nước, hệ thống NHTM đã không ngừng
phát triển, đóng vai trò tập trung những khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế
để cung ứng vốn cho các nhà đầu tư cần vốn - Đó chính là quá trình huy động
vốn và sử dụng vốn của các NHTM. Bằng hoạt động của mình NHTM đã
đóng góp một lượng vốn đáng kể và hàng loạt các dịch vụ ngân hàng khác
cho nền kinh tế.
Một là, ngân hàng thương mại là nơi cung cấp tín dụng cho nền kinh tế,
là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Là một trung gian tín dụng, NHTM đã tích tụ và tập trung được một khối
lượng lớn tiền tạm thời nhà rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn và thực
hiện các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó tiến hành cấp
phát tín dụng cho các thành phần kinh tế, những tổ chức và cá nhân cần vốn
để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Tức là ngân hàng đóng vai trò là

người môi giới giữa một bên là những người có tiền nhàn rỗi có thể cho vay
và một bên là những người cần vay vốn. Thực hiện chức năng này tức là ngân
hàng đã trở thành người khơi thông và kích hoạt các nguồn vốn, làm cho
nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh lời. Những hoạt động đó của NHTM đã
thực sự tác động điều hoà cung cầu tiền tệ, biến những đồng tiền nhàn rỗi
thành những đồng tiền hoạt động có ích, tập trung vốn vào việc tài trợ cho các
ngành kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động và bằng
những khoản tín dụng nhỏ thích hợp giúp người lao động có thêm điều kiện
ổn đinh và cải thiện đời sống.
Hai là, ngân hàng giúp cho các nhà kinh doanh trong việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn. Ngân hàng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp trên cơ sở
phải tuân thủ các điều kiện do ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng
mà doanh nghiệp nhận được đều phải trả lãi và khi hết thời gian sử dụng phải
hoàn trả gốc. Vì vậy để đảm bảo hoạt động có hiệu quả thì trước khi cho vay,
ngân hàng cần phải thẩm định phương án sử dụng vốn vay của doanh nghiệp,
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
8
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
xem xét tính khả thi của dự án và các yếu tố liên quan đến doanh nghiệp (Uy
tín, trình độ nhân viên, tài sản đảm bảo…) một cách chính xác rõ ràng, chi
tiết, qua đó cán bộ tín dụng giúp doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất
kinh doanh có hiệu quả. Sau khi cho doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng vẫn
tiếp tục tiến hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp và
thông qua hoạt động thanh toán hộ thì ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp
quản lý tốt hơn về vốn và sử dụng vốn.
Ba là, ngân hàng khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế. Bất kỳ đối tượng
nào trong nền kinh tế gửi tiền vào ngân hàng đều được hưởng lãi, điều đó có
nghĩa là thu nhập của người gửi tiền sẽ tăng lên. Người gửi tiền có thể gửi
theo bất kỳ phương thức nào, bất kỳ thời hạn nào, Các cá nhân có số tiền nhàn

rỗi chưa sử dụng đến thì có thể gửi vào ngân hàng khi cần thì có thể rút ra bất
cứ lúc nào. Thông qua chính sách lãi suất ngân hàng đã khuyến khích khách
hàng tiết kiệm tiêu dùng hiện tại để có thể tăng tiêu dùng trong tương lai.
Bốn là, hoạt động ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển của
vốn đầu tư dẫn đến bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và phát triển vùng.
Trong hoạt động tài trợ của mình, ngân hàng có thể tài trợ đối với tất cả
các đơn vị và cá nhân trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Với hệ
thống các ngân hàng chuyên doanh cùng với mạng lưới chân rết của mình,
NHTM có mặt ở hầu hết các địa bàn trong phạm vi cả nước. Thông qua đó
ngân hàng sẽ tiến hành cho vay đối với những ai cần vốn mà đáp ứng được
các điều kiện của ngân hàng thì ngân hàng sẽ tiến hành cho vay. Ngoài ra khi
có sự ưu tiên của nhà nước về phát triển ngành nghề hoặc vùng kinh tế nào đó
thì Chính phủ đưa ra những chính sách riêng cho từng vùng và thông qua hệ
thống NHTM sẽ tiến hành cung ứng vốn cho những vùng đó. Hoạt động tín
dụng ngân hàng ngày càng phát triển đã làm cho việc di chuyển vốn diễn ra
một cách dễ dàng, tập trung duy trì lực lượng bình quân từ tất cả các ngành.
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
9
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
Đồng thời với sự tác động của ngân hàng vốn được dịch chuyển từ vùng thừa
vốn sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa các ngành,
xoá dần sự khác biệt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định.
Năm là, hoạt động của ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Với đặc điểm của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các hoạt
động chủ yếu là huy dộng vốn, cho vay và thực hiện chức năng trung gian
thanh toán. Lượng tiền trong lưu thông được ngân hàng kiểm soát. Thông qua
các khoản mục của NHTM, Ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ xác định được
lượng tiền mặt đang lưu thông trong nền kinh tế, từ đó để có các biện pháp

kiểm soát nhằm đề phòng và hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xảy ra.
Trường hợp nếu xảy ra lạm phát thì bằng các nghiệp vụ của mình, NHTW sẽ
tiến hành điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu hoặc
tái chiết khấu, tham gia vào thị trường mở để tác động tới NHTM để qua đó
làm thay đổi lượng tiền trong lưu thông.
Sáu là, ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu- thúc đẩy
phát triển thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực
hoá và toàn cầu hoá thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia
đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Cùng hoà chung với xu thế đó NHTM cũng đóng vai trò rất
quan trọng trong việc đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội nhập vời nền
kinh tế thế giới. Bằng các hoạt động của mình như tài trợ xuất nhập khẩu,
thực hiện các hình thức thanh toán, bảo lãnh…đã góp phần thúc đẩy việc chu
chuyển hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia với nhau một cách thuận lợi và
nhanh chóng.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM
1.1.2.1 Huy động vốn.
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
10
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho
NHTM - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của
ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn nhằm thực hiện cho vay và thực hiện các
dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) bao gồm:
những khoản mà nhân dân gửi vào, những khoản ngân hàng đi vay các đối
tượng khác trong nền kinh tế như NHTW, các ngân hàng hay các tổ chức tài

chính khác, vay trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ…
1.1.2.2. Tài trợ cho nền kinh tế.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM,
phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục
tiêu chủ yếu của ngân hàng là kiếm được lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các
nhu cầu tín dụng của cộng đồng.
NH cung cấp cho các đối tác những điều kiện cần thiết để họ thực hiện
các hoạt động theo mục tiêu của họ và trên cơ sở đó tìm kiếm thu nhập. Đối
tác của NH có thể là: các doanh nghiệp, các hộ gia đình, chính phủ…có nhu
cầu sẽ nhận được sự tài trợ của ngân hàng nếu đáp ứng được đầy đủ các yêu
cầu của ngân hàng.
1.1.2.3. Thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: các tiện ích
của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết
kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập
cho khách hàng.
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: các cá nhân và doanh nghiệp nhờ
ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ, tư vấn đầu tư,
quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
11
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
- Dịch vụ bảo lãnh: ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng của mình mua
chịu hàng hoá trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức
tín dụng khác.
- Cho thuê tài chính: nhằm đáp ứng nhu cầu thuê dài, tài sản thuê có giá
trị lớn, ngân hàng cho khách hàng thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông
qua hợp đồng thuê mua.
- Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ khác như: Cung cấp dịch vụ

môi giới đầu tư chứng khoán, Dịch vụ bảo hiểm, Bảo quản tài sản hộ…
1.2. Công tác huy động vốn tại NHTM
1.2.1.Vai trò của vốn đối với hoạt động của NHTM
1.2.1.1. Khái niệm vốn của NHTM
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thực chất, vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ
sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay
đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền dử dụng vốn cho ngân hàng,
để ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập.
Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại
vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại
quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động của NHTM
a. Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh
được thì phải có : Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
12
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh.
Riêng đối với NHTM, vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt động kinh
doanh, ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không
có vốn. Đặc trưng của hoạt động ngân hàng là kinh doanh vốn, một loại hàng
hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường

chứng khoán (thị trường vốn dài hạn).
Vốn vừa là phương tiện kinh doanh, vừa là đối tượng kinh doanh, các
NHTM thực hiện kinh doanh loại “hàng hoá đặc biệt” - tiền tệ - trên thị
trường tiền tệ. Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành lập theo qui định của pháp
luật, các ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi biện pháp để tăng trưởng vốn
trong quá trình hoạt động kinh doanh.
b. Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạch tranh của Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trưòng, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt
động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều trọng
yếu. Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán,
chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của
ngân hàng là vốn tiền gửi và đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách
hàng khi họ có yêu cầu rút tiền. Với một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi
nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn, một mặt ngân hàng không đáp ứng
đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ, ngân hàng nếu cho vay tối đa
nguồn vốn huy động đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán.
Trong khi đó, với một ngânh hàng trường vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả
năng thanh toán đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh
tế, do đó sẽ tạo được uy tín ngày càng cao.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của
ngân hàng càng lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh
toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
13
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể
hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt
động cạnh tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ tín, vừa nâng cao vị thế của ngân
hàng.

c. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh
khác của ngân hàng:
Vốn của ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thông thường, các ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh,
khoản mục đầu tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh
hưởng đến khả năng thu hút vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư,
thậm chí không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất
khách hàng và không tận dụng được cơ hội kinh doanh. Nếu là ngân hàng lớn,
nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp ứng được nhu cầu về vốn, có điều
kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị
trường tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều
loại hình khác nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh
doanh chứng khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và
tạo thêm vốn cho ngân hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh
tranh trên thị trường. Vì vậy, vốn có vai trò quyết định trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
d. Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ
thuật của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả
năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín
dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi
suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
14
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân
hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ

xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và
quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng
tổng hòa các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó, sẽ giúp ngân hàng có đủ khả
năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là
cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch
vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ (phactoring), kinh doanh trên thị trường
chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân
tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng đồng
thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra, vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm
bảo khả năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ,
đảm bảo cân đối tiền – hàng trong nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng và của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói
riêng phải thường xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô,
nâng cao hiệu quả của vốn là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát
triển của hoạt động kinh doanh ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì
vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động
của NHTM ở tất cả các quốc gia.
1.2.2. Nội dung và tính chất của các loại vốn trong NHTM
1.2.2.1. Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được
thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu
dài để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
15
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt

buộc khi thành lập một ngân hàng.
Do tính chất ổn định của nó, ngân hàng có thể sử dụng vào các mục
đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu
tư hay góp vốn liên doanh… vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh
toán khi ngân hàng gặp rủi ro. Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định
năng lực và sự phát triển của NHTM. Vốn tự có của ngân hàng được hình
thành căn cứ vào hình thức tổ chức của NHTM là: NHTM quốc doanh,
NHTM cổ phần hay NHTM liên doanh…
Vốn tự có gồm các thành phần: vốn tự có cơ bản, vốn tự có bổ sung.
1.2.2.2. Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm
vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm
hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu
rút.Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành
phần kinh tế trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở
rộng tín dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh
doanh, còn phải dự trữ một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn
huy động gồm có: Vốn tiền gửi và phát hành những giấy tờ có giá.
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
16
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
1.2.2.3. Vốn đi vay
Vốn đi vay: là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả

khi khả năng huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro
thanh khoản của ngân hàng.
Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết quả dư gia tăng
bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các
ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ lại có nhu cầu vay mượn tức thời
để đảm bảo thanh khoản
Ngân hàng nào có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều
hơn. Ngược lại, các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp họ phải
thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của các ngân hàng đầu tư.
1.2.2.4. Vốn khác
Vốn khác là toàn bộ giá tị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông
qua việc cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác
đầu tư. Bao gồm nguồn ủy thác, nguồn thanh toán và các nguồn khác.
1.2.3.Các hình thức huy động vốn trong NHTM
1.2.3.1 Tiền gửi của khách hàng
A. Tiền gửi của tổ chức kinh tế
a) Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân
hàng nhưng khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải luôn
đảm bảo yêu cầu này.
Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn và
hưởng các dịch vụ ngân hàng, tạo mối quan hệ với ngân hàng. Tỷ trọng tiền
gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
cao và nguồn vốn này có tính ổn định tương đối cao vì bao giờ các tổ chức
kinh tế cũng duy trì ít nhất ở một số dư nhất định. Đối với nguồn vốn này
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
17
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
ngân hàng chỉ phải trả lãi thấp nhưng chi phí phi lãi rất cao. Đó là chi phí mua

và vận hành ATM, chi phí phục vụ...
b) Tiền gửi có kỳ hạn: là khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng mà
có sự thoả thuận về thời hạn trong đó khách hàng không được rút trước hạn.
Đây là nguồn vốn mà khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích sinh
lời là chủ yếu và ngân hàng phải trả lãi cao hơn hơn tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là nguồn vốn có tính ổn định rất cao nhưng thường có thời hạn ngắn vì
đây là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và nguồn vốn này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng.
B, Tiền gửi của cá nhân và hộ gia đình
a) Tiền gửi không kỳ hạn: Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với
mục đích an toàn là chủ yếu và hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Đối với
nguồn vốn này chi phí trả lãi ngân hàng bỏ ra không đáng kể nhưng chi phí
trả lãi rất cao. ở các nước phát triển thì tỷ trọng nguồn vốn này rất cao nhưng
các nước đang phát triển thì tỷ trọng này lại rất thấp do người dân chưa có
thói quen sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Nguồn vốn từ tiền gửi không kỳ
hạn của cá nhân, hộ gia đình có tính ổn thấp do nhu cầu tiêu dùng của cá
nhân, hộ gia đình không ổn định, khi cần khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ
lúc nào do đó ngân hàng phải chuẩn bị sẵn một khoản tiền để đáp ứng nhu cầu
của khách hàng.
b) Tiền gửi có kỳ hạn:
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích sinh lời là chủ yếu.
Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và hộ gia đình chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng vốn huy động và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng cho vay. Nguồn
vốn này có tính ổn định cao nhất và ngân hàng phải trả lãi rất cao cho nguồn
vốn này.
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
18
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp

1.2.3.2. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Ngày nay trong hoạt động kinh doanh của các NHTM cạnh tranh là yếu
tố không thể thiếu được. Các NHTM cạnh tranh nhau về lãi suất huy động
đến lãi suất cho vay. Trong lĩnh vực huy động vốn các NHTM phải luôn luôn
tìm các biện pháp để có thể huy động được đủ nguồn vốn phục vụ cho nhu
cầu sử dụng vốn của mình. Các NHTM không chỉ sử dụng các công cụ truyền
thống để huy động vốn mà còn đưa ra các các công cụ mới có hiệu quả hơn để
huy động vốn một cách dễ dàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình và kỳ phiếu,
trái phiếu ngân hàng đã ra đời. Kỳ phiếu và trái phiếu là giấy tờ có giá xác
nhận khoản nợ của ngân hàng với người nắm giữ. Kỳ phiếu được phát hành
thường xuyên và có kỳ hạn ngắn: 3, 6...12 tháng. Trái phiếu thường có kỳ
hạn lớn hơn 1 năm.
Việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có ưu thế: giúp ngân hàng huy động
được đúng số lượng vốn cần thiết và có thời hạn đáp ứng nhu cầu sử dụng
vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, chi phí của nguồn vốn này tương đối cao do
ngân hàng phải trả lãi cao hơn các hình thức huy động truyền thống.
1.2.3.3. Huy động vốn qua đi vay
a. Vay TCTD khác
Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể vay TCTD khác thông qua
thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Chi phí của nguồn vốn này thường cao và
thời gian sử dụng thường ngắn. Các ngân hàng cho nhau vay dưới các hình
thức: vay qua đêm, vay kỳ hạn, hợp đồng gia hạn.
b. Vay NHTW
NHTW cho NHTM vay dưới hình thức chiết khấu giáy tờ có giá. Mục
đích cho vay của NHTW với NHTM là: thực thi chính sách tiền tệ, đảm bảo
an toàn hệ thống ngân hàng. Chi phí của nguồn vốn này cao hay thấp phụ
thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW: giả sử khi NHTW muốn tăng mức
cung ứng tiền thì NHTW sẽ giảm mức lãi suất chiết khấu từ đó sẽ kích thích
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
19

Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
các NHTM vay NHTW nhiều hơn do đó tăng khả năng cấp tín dụng cho nền
kinh tế thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hoàn thiện công tác huy động vốn trong
NHTM
1.3.1.Khái niệm hiệu quả công tác huy động vốn trong NHTM
Về phía xã hội: Để thực hiện được công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nước, cần một lượng vốn rất lớn làm tiền đề vật chất, vốn để xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, vốn để sản xuất kinh doanh.
Về phía ngân hàng, để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu quả, đa dạng
các hình thức kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận ngân hàng
cần có một lượng vốn lớn huy động từ các nguồn trong nước.
Vốn trong nước phần lớn nằm trong các hộ gia đình dưới dạng tiết
kiệm dự phòng. Hơn nữa vốn của các tổ chức kinh tế xã hội không phải lúc
nào cũng được sử dụng theo vụ mùa, theo chu kỳ kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp. Do đó lượng vốn nhàn rỗi trong khu vức này cũng rất là lớn. Nhiệm
vụ to lớn của mỗi ngân hàng là phải tập trung và thu hút các nguồn vốn lớn
này để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, các công trình kinh tế
xã hội biến chúng thành những đồng vốn mang lại hiệu quả kinh tế xã hội.
Để đạt được điều đó thì ngân hàng phải có công tác huy động vốn phù
hợp và có hiệu quả. Hiệu quả của công tác huy động vốn trong ngân hàng
phải được đánh giá qua các khía cạnh sau đây :
Vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy
động của ngân hàng phải có sự tăng trưởng, ổn định về số lượng để có thể
thoả mãn các nhu cầu cho vay, thanh toán cũng như hoạt động kinh doanh
khác ngày càng tăng của ngân hàng. Tuy nhiên vốn huy động phải được ổn
định về mặt thời gian. Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn mà
không ổn định về măt thời gian, thường xuyên có một dòng tiền lớn có khả
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng

20
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
năng bị rút ra thì lượng vốn dành cho vay, cho đầu tư sẽ không lớn. Như vậy
hiệu quả sử dụng sẽ không cao và ngân hàng phải thường xuyên đối đầu với
vốn để thanh khoản. Nhưng nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn ổn định
thì ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn vốn đó vào các hoạt động có thu
nhập cao. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là nếu ngân hàng thấy có nguồn
vốn ổn định thì sẽ huy động hết ngay hay ngựơc lại, mà việc huy động vốn
của ngân hàng phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của ngân hàng về vốn. Nếu
huy động được ít thì ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng, Không đa dạng hoá được các hoạt động kinh doanh, không nâng cao
được vị thế trong cạnh tranh và sẽ bị mất hết khách hàng. Còn nếu huy động
nhiều mà không sử dụng hết thì vốn sẽ bị “ đóng băng “ khiến lợi nhuận sẽ bị
giảm sút, do vẫn phải trả lãi và các chi phí kèm theo như chi bảo quản, kế
toán, kho quỹ... mà không có khoản nào bù đắp lại.
Nói tóm lại, huy động vốn có hiệu quả là huy động vốn ổn định, vừa đủ
đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng.
1.3.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn trong NHTM
Hiệu quả huy động vốn được đánh giá theo nhiều khía cạnh khác nhau
tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Vì vậy, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy
động vốn cũng có nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, có thể sử dụng một số chỉ
tiêu dưới đây để đánh giá hiệu quả huy động vốn dựa trên khả năng sử dụng
vốn và chi phí của đồng vốn.
* Nguồn vốn tăng trưởng ổn định về số lượng và thời gian :
Đánh giá qua mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động và số lượng vốn huy
động có kỳ hạn. Nguồn vốn tăng đều qua các năm ( 1 năm sau - trước > 0 )
đạt mục tiêu về nguồn vốn đặt ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn vốn tăng
trưởng ổn định.
Nguồn vốn có số lượng vốn kỳ hạn lớn chứng tỏ sự ổn định về thời gian của

nguồn vốn cao.
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
21
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
* Nguồn vốn có khả năng đáp ứng cho các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng: Đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu
tín dụng, thanh toán và các nhu cầu khác để thấy nguồn vốn huy động đã đáp
ứng bao nhiêu. Ngân hàng phải vay thêm bao nhiêu để thoả mãn nhu cầu đó.
* Chi phí huy động vốn: Đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân,
lãi suất huy động từng nguồn và chênh lệch lãi suất đầu ra, đầu vào.
- Mức độ hoạt động của vốn: Đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn.
- Mức độ thuận tiện cho khách hàng: Đánh giá qua việc thực hiện các thủ tục
gửi tiền, rút tiền.
1.3.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của NHTM
Mọi hoạt động kinh doanh diễn ra đều chịu sự tác động nhất định của
môi trường xung quanh. Công tác huy động vốn – một nghiệp vụ quan trọng
hàng đầu của NHTM cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong cơ chế thị
trường, các NHTM buộc phải cạch tranh để có thể thu hút được nguồn vốn
lớn với chi phí thấp để tồn tại và phát triển. Do đó, nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng, tìm giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn là rất cần thiết.
Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn có nhiều và rất đa dạng,
nhưng tập trung lại có hai nhóm nhân tố là: khách quan và chủ quan
1.3.3.1. Nhân tố khách quan.
a. Môi trường chính trị - pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt
chẽ của pháp luật và các cơ quan chức năng của chính phủ. Hoạt động ngân
hàng được điều chỉnh rất chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật. Môi trường
pháp lý đem lại cho ngân hàng hàng loạt các cơ hội và thách thức. Ví dụ như
việc dỡ bỏ các hạn chế về huy động vốn tièn gửi nội tệ sẽ mở đường cho các

ngân hàng nước ngoài phát triển các sản phẩm để huy động tiền gửi nội tệ và
các sản phẩm về cho vay nội tệ.
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
22
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
Ngoài ra ngân hàng còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều bộ luật : luật
dân sự, luật NHTW, các quy định của chính phủ...do đó hoạt động huy động
vốn của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật của nhà nước,
chính sách của NHTW như: chính sách tiền tệ, lãi suất, tài chính, tín dụng...
Sự thay đổi của những chính sách này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn
và chất lượng nguồn của NHTM.
b. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả
năng thu nhập, chi tiêu, thanh toán và nhu cầu về vốn và gửi tiền của dân cư
và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động của ngân hàng.
Sự thay đổi của các yếu tố: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát,
thu nhập bình quân đầu người thay đổi, chính sách đầu tư, tiết kiệm của chính
phủ... sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư và từ đó
ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của NHTM. Ví dụ khi thu nhập bình
quân đầu người tăng thì tiêu dùng và tiết kiệm tăng và người dân gửi tiền vào
ngân hàng tăng và ngược lại.
c. Môi trường dân số
Môi trường dân số là yếu tố rất quan trọng bởi nó không chỉ tạo thành
nhu cầu và kết cấu nhu cầu của dân cư về sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà
còn là căn cứ để hình thành hệ thống phân phối của ngân hàng. Đồng thời môi
trường dân số là cơ sở để xây dựng và điều chỉnh hoạt động huy động vốn của
ngân hàng. Môi trường dân số ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động vốn của ngân
hàng do đó ngân hàng phải nghiên cứu kỹ lưỡng môi trường dân số trước khi
đưa ra chiến lược huy động vốn để có hể huy động được nguồn vốn phù hợp

với nhu cầu của ngân hàng về chất lượng, số lượng và thời hạn...
d. Môi trường địa lý
Môi trường địa lý được xác định bởi quy định của quốc tế để hình
thành quốc gia và quy định từng quốc gia trong việc hình thành các tỉnh,
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
23
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
huyện, xã, thành phố, nông thôn... tuỳ từng khu vực địa lý mà ngân hàng
quyết định đặt nhiều hay ít điểm huy động vốn và quyết định chiến lược huy
động ở mỗi khu vực vì mỗi khu vực có số dân và các điều kiện khác nhau.
e. Môi trường công nghệ
Sự thay đổi về công nghệ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và xã
hội. Hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động chịu sự tác động
mạnh mẽ của công nghệ, hoạt động ngân hàng là hoạt động không thể tách rời
khỏi sự phát triển của công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin.
Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của ngân hàng, nó
mang lại cho ngân hàng nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại hàng loạt những
thách thức mới. Công nghệ mới cho phép ngân hàng đổi mới quy trình nghiệp
vụ, cách thức phân phối sản phẩm, phát triển các sản phẩm mới... nhờ có công
nghệ mà hoạt động huy động vốn được cải tiến, phất triển, rút ngắn thời gian
giao dịch và thực hiện nghiệp vụ chính xác...giúp ngân hàng có khả năng
thu hút được nhiều vốn, nhiều khách hàng và tăng thu nhập và uy
tín của ngân hàng.
g. Môi trường văn hoá xã hội
Mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo
nên bản sắc của các dân tộc như: tập quán, thói quen, tâm lý...đối với ngân
hàng hoạt động huy động vốn là hoạt động chịu nhiều ảnh hưởng của môi
trường văn hoá. Cụ thể ở các nước phát triển người dân có thói quen gửi tiền
vào ngân hàng để hưởng những tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi và trong

tiềm thức họ ngân hàng là một phần không thể thiếu được, là một phàn tất yếu
của nền kinh tế. Do vậy ngân hàng gặp không mấy khó khăn trong việc huy
động vốn nhàn rỗi trong dân cư và tổ chức kinh tế. Ngược lại, ở những nước
đang phát triển như Việt Nam việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều
khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen sử dụng các dịch vụ
ngân hàng. Mặt khác ngân hàng chưa thực sự tạo được lòng tin đối với người
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
24
Học Viện Ngân Hàng Khoá luận tốt
nghiệp
dân sau hàng loạt sự kiện đã xảy ra như: đổi tiền 1985-1986, tỷ lệ lạm phát
600-700% làm nhiều người dân mất trắng, sự sụp đổ của 7500 quỹ tín dụng
nhân dân và hàng loạt sự kiên khác có liên quan đến ngân hàng : Dệt Nam
Định, Minh phụng EPCO làm cho các ngân hàng bị thiệt hại lớn.Ngân hàng
chưa chú trọng đến công tác marketing, tiếp thị, quảng cáo...người dân còn
thiếu hiểu biết về chủ trương chính sách của nhà nước, hoạt động của ngân
hàng vì vậy cho đến nay vẫn còn tình trạng có tiền nhưng không muốn gửi
ngân hàng vì không biết phải làm những thủ tục nào, người dân ngại mất thời
gian do thủ tục rườm rà...
1.3.3.2 Nhân tố chủ quan
a. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù
hợp. Trong chiến lược kinh doanh ngân hàng phải quyết định sẽ mở rộng hoặc
thu hẹp quy mô huy động vốn, thay đổi tỷ trọng các nguồn vốn trong tổng
nguồn vốn, lãi suất huy động. Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn ngân hàng
sẽ khai thác được nguồn vốn đáp ứng nhu cầu và đạt hiệu quả cao.
b. Chính sách lãi suất cạnh tranh
Chính sách lãi suất cạnh tranh bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động và
lãi suất cạnh tranh cho vay là một chính sách quan trọng của ngân hàng. Việc
duy trì lãi suất cạnh tranh huy động là đặc biệt quan trọng khi lãi suất thị

trường đang ở mức tương đối cao. Các NHTM không chỉ cạnh tranh giành
vốn với nhau mà còn cạnh tranh với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành
các công cụ khác nhau trên thị trường vốn. Đặc biệt trong thời kỳ khan hiếm
tiền tệ, dù cho sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy những
người tiết kiệm và đầu tư chuyển vốn từ công cụ mà họ đang có sang tiết
kiệm và đầu tư hoặc từ một tổ chức tiết kiệm này sang tổ chức tiết kiệm khác.
c. Chính sách khách hàng
Trần Thị Yến-LTCD4E Khoa Ngân hàng
25

×