Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Diện mạo văn học VIỆT NAM 1945 1975 nhìn từ góc độ thi pháp học-sưu tầm bài viết của GS.TS La Khắc Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.5 KB, 4 trang )

DIỆN MẠO VĂN HỌC VIỆT NAM 1945 – 1975 (NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP THỂ LOẠI)
24/04/2013 ·
Lã Nguyễn
1. Sau 1975, một quá trình văn học đã được khép lại. So với văn học trước và sau đó, văn học
1945-1975 có diện mạo riêng, với những đặc điểm và quy luật vận động riêng. Bài viết này chỉ
thử phác hoạ lại diện mạo của giai đoạn văn học ấy từ góc độ thi pháp.
Từ góc độ thi pháp, có thể hình dung diện mạo của văn học 1945-1975 qua hệ thống thể loại của
nó. Bởi vì thể loại văn học vừa là hiện tượng lịch sử, vừa là nhân tố loại hình.
Văn học Việt Nam 1945-1975 rất đa dạng và phong phú về thể loại. Ngay từ thời kì đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp, thơ đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Qua sáng tác của những
cây bút tiêu biểu như Tố Hữu, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung
Thông, Thôi Hữu, Hữu Loan…, thơ cách mạng đã tạo ra được một nội dung và hình thức thể loại
khác xa với thơ trữ tình của những năm ba mươi. Diện mạo của nền văn xuôi kiểu mới cũng
được hình thành qua những trang bút kí, kí sự, truyện ngắn của Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng,
Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân, Hồ Phương. Nhưng phải sau hoà bình lập lại, nhất là từ những
năm sáu mươi, các thể loại văn học mới phát triển rực rỡ. Có được sự phát triển rực rỡ ấy là nhờ
công sức của nhiều thế hệ cầm bút. Giai đoạn từ năm 1958 đến 1964 được gọi là thời kì hồi sinh
của hàng loạt nhà thơ “tiền chiến” như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh… Văn
xuôi phát triển mạnh mẽ với nhiều cây bút thuộc các thế hệ khác nhau: Nguyễn Tuân, Tô Hoài,
Bùi Hiển, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Thế Phương, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải,
Lê Khâm, Hữu Mai, Nguyễn Kiên, Đào Vũ, Vũ Thị Thường… Từ 1965 đến 1975, một cao trào
sáng tác phục vụ cuộc kháng chiến chống Mĩ được phát động. Đây là thời kì xuất hiện hàng loạt
nhà thơ trẻ có giọng điệu riêng của một thế hệ mới: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Thu Bồn,
Bùi Minh Quốc, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Trần Đăng Khoa, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mĩ Dạ… Về văn
xuôi, bên cạnh Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Lê Khâm (Phan Tứ), nổi lên Nguyễn Minh Châu,
Chu Văn, Đỗ Chu, Ma Văn Kháng (ngoài Bắc) và Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức
(trong Nam).
Có thể nói, ở giai đoạn 1945-1975, nền văn học Việt Nam không thiếu một thể loại nào: truyện
ngắn, truyện vừa, truyện dài, các loại kí, bao gồm kí sự, bút kí, tuỳ bút, truyện kí, các thể thơ: thơ
trữ tình, thơ trào phúng, truyện thơ, trường ca… Chỉ có phóng sự là thể loại từng phát triển mạnh


mẽ từ thời trước Cách mạng, nay bỗng thấy thiếu vắng trên văn đàn.
2. Tuy nhiên, diện mạo của một giai đoạn văn học không phải là sự cộng gộp giản đơn các thể
loại của tác phẩm. Bởi vì toàn bộ sáng tác của một giai đoạn văn học bao giờ cũng tạo thành một
chỉnh thể. Khái niệm chỉnh thể ở đây được sử dụng nhằm chỉ một hệ thống nghệ thuật mà các
yếu tố hợp thành luôn luôn tồn tại trong một quan hệ tương quan, tương thông vừa phụ thuộc,
vừa chế định lẫn nhau giống như một cơ thể sống. Cho nên, muốn nhận ra diện mạo của một giai
đoạn văn học, người ta không thể dừng lại ở việc liệt kê, tính đếm số lượng các thể loại lớn nhỏ,
mà phải khảo sát mối quan hệ cộng sinh tạo thành bản hoà tấu của cả một hệ thống thể loại.
Ở những thời đại khác nhau, các thể loại văn học có những kiểu quan hệ cộng sinh hết sức khác
nhau. Chẳng hạn, trong văn học cổ – trung đại, mỗi tác phẩm thường được sáng tác theo một thể
loại, có một chức năng đời sống, chức năng nghệ thuật và một cấu trúc hình thức cố định. Cho
nên, hệ thống văn học trung đại là một chỉnh thể thống nhất của những thể loại song song cùng
tồn tại, thể loại này tồn tại bển cạnh thể loại kia. Bởi thế, tiếp xúc với văn học trung đại, ấn tượng
nổi bật của người nghiên cứu là ấn tượng về sự phong phú, đa dạng, chứ không phải là ấn tượng
về sự phức tạp của hệ thống thể loại. Dĩ nhiên, trong văn học trung đại, không phải tất cả các thể
loại đều có quyền tồn tại bình đẳng với nhau trên một mặt bằng nghệ thuật. Tương ứng với xã
hội đẳng cấp, thể loại văn học cũng phân chia thứ bậc trên – dưới, thấp – cao. Nằm ở vị trí trung
tâm của hệ thống văn học trung đại là những thể loại văn học chức năng, những chính kinh, liệt
truyện, ngôn chí, thuật hoài… Văn thơ châm biếm, trào phúng và những thể loại phản ánh đời
sống bằng hư cấu nghệ thuật đều là những thể loại hạ đẳng, nằm ở khu vực ngoại vi của hệ thống
văn học ấy.
Bước sang thời kì hiện đại, chỗ dựa sáng tác của nhà văn là cá tính sáng tạo, kinh nghiệm cá
nhân, chứ không phải là những phạm trù quy phạm, kinh nghiệm cộng đồng. Cho nên, các công
thức, luật lệ của hệ thống thể loại văn học trung đại bị phá vỡ. Các thể loại văn học hư cấu
chuyển vào vị trí trung tâm của hệ thống văn học hiện đại. Giờ đây, mỗi tác phẩm có thể dung
nạp nhiều hạt nhân cấu trúc của toàn bộ hệ thống thể loại trung đại. Cho nên, tiếp xúc với văn
học hiện đại, ấn tượng nổi bật của người nghiên cứu không phải chỉ là ấn tượng về sự đa dạng,
mà chủ yếu là ấn tượng về sự phức tạp của hệ thống thể loại. Nhìn lại hệ thống thể loại của văn
học Việt Nam 1930 – 1945, ta sẽ nhận ra điều đó. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan,
Nam Cao, thấy hoá ra cái hài vừa là cái xấu, cái đáng cười, đáng chế giễu, lại vừa là cái ác, là sự

tàn nhẫn của cuộc đời. Cho nên, đằng sau cái hài là cái bi, và vì thế, bi kịch và hài kịch dường
như không còn ranh giới phân chia. Có cơ sở để chứng minh, cấu trúc truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan rất gần gũi với cấu trúc kịch. Sự kiện, biến cố không còn là nền tảng tự sự trong sáng
tác của Nam Cao. Thuật lại, kể lại các sự kiện, biến cố không phải là quan điểm tự sự của nhà
văn này. Có thể xem tác phẩm tự sự của Nam Cao là cuộc đối thoại mở rộng với các ý thức xã
hội – nghệ thuật đương thời về con người và đời sống. Lời trần thuật của Nam Cao vì thế đầy
chất giễu nhại. Cấu trúc trần thuật của Nam Cao là sự kết hợp của nhiều mạch văn: mạch kể,
mạch tả, mạch phân tích, giải thích và cả mạch trữ tình ngoại đề, triết lí nhân sinh.
Dĩ nhiên, dù phức tạp bao nhiêu, ta vẫn có thể nhận ra kiểu quan hệ của các thể loại tác phẩm
trong hệ thống văn học 1930-1945. Quan hệ giữa các thể loại giờ đây không còn là quan hệ song
song cùng tồn tại theo trật tự đẳng cấp, thứ bậc, mà là quan hệ thống nhất biện chứng giữa các
mặt đối lập, thường xuyên phủ định và chuyển hoá lẫn nhau. Ta hiểu vì sao, văn học 1930 – 1945
vận động mau lẹ và tạo được nhiều cách tân nghệ thuật về phương diện thể loại đến thế. Chẳng
hạn, thơ và văn xuôi là hai mặt đối lập của nghệ thuật ngôn từ. Vào đầu những năm ba mươi, văn
xuôi thâm nhập vào thơ, phá phách lãnh địa của nó. Nhưng cũng nhờ thế, “thơ mới” đã chuẩn bị
cơ sở và mở đường cho sự phát triển của văn xuôi nghệ thuật. Vào gĩưa những năm ba mươi, các
cây bút của nhóm Tự lực văn đoàn đã tạo ra một loại văn xuôi nghệ thuật ở dạng cân bằng giữa
văn xuôi và thơ. Liền sau đó, khi trường phái “tả chân” chiếm ưu thế trên văn đàn công khai, văn
xuôi lập tức phát triển theo hướng đối lập với thơ.
Sau năm 1945, hệ thống thể loại của văn học Việt Nam từng bước khắc phục các phương diện
mâu thuẫn, đối lập để tạo ra sự thống nhất tuyệt đối. Đó là sự thống nhất dựa trên cơ sở nhất thể
hoá tất cả các hạt nhân cấu trúc của thể loại văn học. Chẳng hạn, các loại hình nội dung là nền
tảng cấu trúc của thể loại. Trước năm 1945, mỗi thể loại có thể chứa đựng ở bên trong rất nhiều
nội dung thể loại. Sau năm 1945, tất cả các thể loại văn học đều tập trung thể hiện một loại hình
nội dung cơ bản, ấy là trạng thái sử thi của thế giới. Thể hiện trạng thái sử thi của thế giới là nội
dung cơ bản của mọi tác phẩm tự sự và trữ tình, kịch và kí được sáng tác trước năm 1975.
Không phải văn học 1945 – 1975 không đặt ra những vấn đề đời tư và thế sự. Nhưng những câu
chuyện thế sự và đời tư tồn tại trong hệ thống thể loại của văn học 1945 – 1975 như những mô
típ phụ trợ, góp phần soi sáng trạng thái sử thi của thế giới. Cho nên, nghiên cứu văn học 1945 –
1975, ta rất dễ dàng nhận ra các mô típ chủ đề giống nhau ở những thể loại văn học rất xa nhau.

Trong mối quan hệ với nội dung, thể loại văn học là một cấu trúc chức năng. Hệ thống văn học
1930-1945 đã tạo nên sự đa dạng hoá chức năng của từng thể loại. Quan hệ cộng sinh của các thể
loại văn học ở giai đoạn 1945 – 1975 lại được thiết lập trên cơ sở nhất thể hoá chức năng xã hội
– nghệ thuật. Về phương diện xã hội, tất cả các thể loại đều được sáng tạo, đổi mới để phục vụ
những nhiệm vụ chính trị của thời đại. Cho nên, thơ trữ tình giờ đây chủ yếu là tiếng nói trữ tình
chính trị. Các tác phẩm truyện, kịch, kí cũng theo sát những vấn đề chính trị – xã hội được đặt ra
ở từng giai đoạn lịch sử. Về phương diện nghệ thuật, tất cả các thể loại văn học giai đoạn 1945 –
1975 đều tập trung thể hiện kinh nghiệm cộng đồng. Cho nên, đây là giai đoạn văn học diễn ra
những thay đổi sâu sắc tư thế chứng nhân của tác giả kí, tư thế trần thuật của nhân vật người kể
chuyện trong tác phẩm tự sự và tư thế trữ tình của cái tôi trữ tình trong thơ.
Mỗi thể loại văn học sở dĩ có loại hình nội dung, có chức năng nghệ thuật riêng, bởi vì bản thân
nó là hình thức quan niệm về thế giới, thể hiện một góc độ chiếm lĩnh, một thái độ định giá của
con người đối với đời sống hiện thực và bản thân mình. Cho nên, hoàn toàn có cơ sở để nói tới
thế giới quan thể loại và cảm hứng thể loại. Loại hình cảm hứng cũng là hạt nhân cấu trúc của
thể loại văn học. Thông thường, bi kịch có cảm hứng của bi kịch, hài kịch có cảm hứng của hài
kịch và tiểu thuyết cũng có cảm hứng riêng với tư cách là một thể loại. Toàn bộ hệ thống thể loại
văn học Việt Nam 1945 – 1975 rất thống nhất với nhau trong khuynh hướng cảm hứng. Từ
truyện cho tới thơ, từ kịch cho tới kí tất cả đều rưng rưng một cảm hứng trước cái đẹp và cái cao
cả hào hùng. Ta hiểu vì sao, những tác phẩm hay nhất viết về đề tài chiến tranh trong thời kì đánh
Mĩ thường nói rất ít tới cái dữ dội, ác liệt của bom đạn. Chiến tranh, bom đạn chỉ được miêu tả
như một cái nền để nhà văn dẫn độc giả vào một thế giới khác: thế giới của tình người, của đức
vị tha, lòng dũng cảm và nghĩa tình chung thuỷ. Nói cách khác, đó là thế giới của cái cao cả, cái
đẹp vượt lên trên sự tàn phá, huỷ diệt của bom đạn chiến tranh. Cho nên, tiếp xúc với bất kì một
thể loại nào của giai đoạn văn học này ta đều chứng kiến sự chiến thắng huy hoàng của chất thơ
đối với chất văn xuôi và ưu thế tuyệt đối của giọng trữ tình rưng rưng, hào sảng đối với tư duy
phân tích và giải thích.
Có thển nhận xét khái quát thế này: khuynh hướng nhất thể hoá các hạt nhân giữ chức năng cấu
trúc loại thể đã tạo ra cho hệ thống thể loại của văn học 1945 – 1975 một hình thức quan hệ cộng
sinh đặc biệt. Đó là kiểu quan hệ của một thể thống nhất nguyên khối, nguyên phiến, trong suốt.
3. Do đặc điểm lịch sử xã hội, do quy luật vận động nội tại được biểu hiện qua kiểu quan hệ cộng

sinh của hệ thống thể loại, mỗi thời đại văn học thường có những thể loại cái giữ vai trò chủ đạo
tạo nên diện mạo và những thành tựu cơ bản của nó. Chẳng hạn, có thể chia chín thế kỉ văn học
Hy Lạp (IX – I tr CN) thành ba giai đoạn tương ứng với sự xuất hiện của ba thể loại thống soái:
sử thi ở giai đoạn đầu, thơ trữ tình phát triển cực thịnh ở giai đoạn thứ hai và cuối cùng là sự
bùng nổ của bi kịch. Tiếp xúc với các nền văn học của nhiều dân tộc, ta cũng thấy tình hình diễn
ra tương tự như vậy. Nói tới văn học Nga thế kỉ XIX, người ta nghĩ ngay tới tiểu thuyết, trong
khi đó, kịch dường như là toàn bộ văn học Pháp ở thế kỉ XVII. Một nhà nghiên cứu người Nga
nhận xét như thế này: ở những nước thành thị kém phát triển, sự sống chủ yếu dựa vào kinh tế
nông nghiệp, nhất là ở những dân tộc du mục, kịch không có cơ may phát triển. Nhận xét ấy xem
ra phù hợp với nền văn học Việt Nam. Có thể kể tên nhiều tác giả, tác phẩm kịch xuất sắc thuộc
giai đoạn văn học 1945 – 1975. Nhưng những thành tựu của kịch không phải là toàn bộ thành tựu
của văn học Việt Nam ở giai đoạn này. Cũng như thế, nửa thế kỉ vừa qua, văn học đã để lại một
khối lượng khổng lồ những tác phẩm thuộc các thể kí. Nhưng vai trò của các thể kí đối với nền
văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam rõ ràng không nặng đồng cân giống như vai trò của
phóng sự đối với nền văn học hiện thực phê phán trước kia.
Vậy đâu là thể loại cái của văn học Việt Nam 1945 – 1975? Không cần phân tích thì người ta vẫn
có thể nhận ra, khuynh hướng sử thi hoá loại hình nội dung văn học đã mở đường cho sự phát
triển của thể truyện. Truyện chẳng những là hình thức thể loại cơ bản của văn xuôi, mà còn thâm
nhập cả vào thơ, vào kí để tạo thành các hình thức thể loại như truyện kí, truyện thơ. Suốt một
thời gian dài, nhiều bài thơ trữ tình có cốt truyện đơn giản, ví như Màu tím hoa sim của Hữu
Loan, Quê hương của Giang Nam, Núi đôi của Vũ Cao từng được yêu thích đặc biệt. Mặt khác,
nếu như trước năm 1945, nhóm Xuân Thu Nhu Tập đã đẩy “thơ mới” vào ngõ cụt, thì suốt năm
mươi năm sau Cách mạng, khunh hướng cảm hứng hướng tới cái đẹp và cái cao cả lại tạo ra
mảnh đất mầu mỡ để trường ca và thơ trữ tình phát triển vô cùng rực rỡ. Giọng điệu trữ tình rưng
rưng, hào sảng không chỉ là giọng điệu chủ đạo của thơ, mà còn là gọng điệu chủ đạo của văn
xuôi, khiến cho khiến cho các tác phẩm văn xuôi thời ấy đầy ắp chất thơ và câu văn xuôi của hầu
hết các nhà văn luôn luôn ngân vang âm hưởng trữ tình. Nhưng cũng chính vì thế mà phóng sự
vắng bóng và tiểu thuyết không thể trở thành thể loại cái của hệ thống văn học 1945 – 1975. Từ
đầu những năm sáu mươi, trong đời sống văn học xuất hiện một số bộ tiểu thuyết nhiều tập, như
Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng, Vùng trời của Hữu Mai. Khoan hãy

bàn tới giá trị tư tưởng và nghệ thuật của những tác phẩm dài hơi ấy. Điều tôi muốn nói ở đây chỉ
là: nếu xuất phát từ những yêu cầu nghiêm ngặt của thể loại ở cả hai phương diện, loại hình nội
dung và cấu trúc hình tượng, thì ở tất cả những cuốn tiểu thuyết vừa trên, chất truyện vẫn lấn át
chất tiểu thuyết. Cho nên, truyện và thơ trữ tình là hai thể loại cơ bản, giữ vai trò thống soái tạo
nên sự kết tinh nghệ thuật và diện mạo của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
Dĩ nhiên, hệ thống thể loại của một giai đoạn văn học không bao giờ mang tính chất khép kín,
cứng nhắc. Bởi vì, việc sáng tác văn học vừa chịu sự tác động của những quy luật khách quan,
vừa là hành vi đầy ý thức của người cầm bút với tư cách là chủ thể sáng tạo luôn luôn có nhu cầu
đổi mới. Cho nên, ở giai đoạn phát triển cuối cùng, khi chất sử thi nhạt dần, trong nhiều tác phẩm
văn học trước năm 1975, bắt đầu xuất hiện những nhân tố chuẩn bị cho sự ra đời của một hệ
thống thể loại ở quá trình văn học tiếp theo. Nhưng nói tới diện mạo của văn học 1945 – 1975, ta
có thể hình dung, hệ thống thể loại của nó giống như một dàn nhạc, trong đó, bằng hai nhóm
nhạc cụ cơ bản là truyện và thơ trữ tình, với sự phụ trợ của kí, kịch, tất cả các bè bối đều hoà
điệu với nhau để tấu lên bản hợp xướng hùng tráng, tràn đầy niềm vui và tinh thần lạc quan trong
sáng của thời đại.
Thanh Xuân, 5 – 1995

×