Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận nội dung tư tưởng giáo dục của khổng tử rút ra ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới giáo dục việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100 KB, 18 trang )

BÀI TẬP MƠN TRIẾT HỌC
1.Trình bày nội dung tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Rút ra ý
nghĩa đối với công cuộc đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay
Khổng Tử (551-479TCN) là nhà tư tưởng vĩ đãi không chỉ của Trung Hoa
mà của cả nhân loại. Ông là nhà hiền triết, nhà chính trị và là nhà khoa học có
tầm khai sáng, có ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn hóa, giáo dục ở Châu Á trong
đó có Việt Nam. Những tư tưởng giáo dục của Khổng Tử không chỉ có giá trị ở
thời đại ơng sống mà các thời đại về sau, cho đến hiện nay người ta vẫn tìm thấy
những hạt nhân đúng đắn khoa học, có thể áp dụng một cách tích cực, hiệu quả
vào sự nghiệp trồng người. Bản thân cuộc đời và sự nghiệp Khổng Tử là tấm
gương sáng ngời mẫu mực về một người thầy đáng được tơn kính ngàn đời. Ơng
là một trong mười nhà giáo dục lớn của thế giới từ cổ đại cho đến bây giờ. Danh
hiệu cao quý mà người đời phong tặng cho ông là " vạn thế sư biểu" - ( là một
bậc thầy của muôn đời) đã nói lên điều đó.
Trong hệ thống triết học của Khổng Tử quan điểm về thế giới, về con
người, tư tưởng chính trị xã hội và tư tưởng luân lý đạo đức thống nhất với nhau.
Những tư tưởng đó đều tập trung phản ánh đời sống và bản chất con người thể
hiện những cố gắng và ước mong ổn định trật tự đẳng cấp danh phận trong xã
hội của Khổng Tử nhằm xây dựng một xã hội lý tưởng với mẫu mực người lý
tưởng lấy nhân nghĩa làm gốc. Để làm được điều đó Khổng Tử chủ trương phải
giáo dục con người. Ơng cho rằng đã là con người thì dù thiện hay ác đều có thể
bằng con đường giáo dục mà cảm hóa được. Đây là điểm cốt lõi trong tư tưởng
giáo dục của ơng, thể hiện tính nhân văn sâu sắc, ông đã đặt niềm tin con đường
giáo dục có thể làm cho con người tốt hơn. Cuộc đời và kinh nghiệm dạy học
của Khổng Tử cho thấy, Ơng nhìn thấy rõ vai trị của giáo dục đối với cuộc sống
của xã hội nói chung và đối với hình thành nhân cách nối riêng. Với xã hội, theo
ơng giáo dục có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi lẽ công bằng, đến tôn


ti trật tự, đến cuộc sống hồ hởi của cộng đồng. Nghĩa là ơng xác định được vai
trị của giáo dục trong mối quan hệ của nó với chính trị và đời sống tinh thần.


Đúng như ông đã nhận xét: bước chân vào một quốc gia có thể biết nền giáo
dục ở đó thế nào và nhìn vào nền giáo dục có thể biết quốc gia ấy sẽ ra sao. Với
cá nhân, Khổng Tử sớm nhận thấy nhân cách của con người bị quyết định không
chỉ đơn thuần tùy bởi điều kiện sống cho nên ông đã đến với giáo dục trong
niềm tin ở sức mạnh của nó đối với việc cảm hóa con người. Từ đó ơng đưa ra
quan điiển của mình về giáo dục với việc xác định mục đích, đối tượng, nơi
dung và phương pháp giáo dục một cách rõ ràng mang tính phổ quát.
1. Về mục đích giáo dục. Khổng Tử sống trong thời đại nhà Chu suy vong
đến cực độ, luân thường đạo lý bị đảo lộn, kỷ cương phép nước bị lung lay đến
tận gốc rễ. Do đó Khổng Tử mơ ước lập lại trật tự xã hội theo mẫu hình nhà Tây
Chu, biến xã hội từ “vơ đạo” trở thành “hửu đạo”. Ơng mong muốn thông qua
việc hướng dẫn con người thực hiện đức nhân. Chính vì vậy, mục đích giáo dục
của Khổng Tử là đào tạo nên những con người có đức, có tài, có nhân, có lễ,
nhằm duy trì đạo đức kỷ cương và phục vụ lợi ích tồn thể xã hội. Mẫu người
mà khổng tử hướng tới là người quân tử vừa trị đạo vừa phải biết hành đạo. Mục
đích cao nhất của học theo Khổng Tử là để nhận chức triều đình, tham gia gánh
vác cơng việc quốc gia và để biết kỷ cương của xã hội mà tuân theo. Trong lúc
xã hội rối ren không ra làm quan khơng phải là người trí, khơng ra giúp đời
khơng phải là người nhân. Vì vậy, ơng thường nói “đời xưa vì mình mà học cịn
đời nay vì người mà học”. Do quan niệm cho rằng học để làm quan trị vì thiên
hạ nên Khổng Tử khơng dạy làm ruộng, trồng trọt. Khi Phan Trì xin ơng dạy các
trồng cây thì ơng trách rằng: “gã Phan Trì chí nhỏ hẹp lắm thay. Người bề trên
chỉ cần học đủ lễ, nghĩa, tín thì dân chúng bốn phương sẽ đem con đến phục
dịch mình, cần chi phải học nghề cày cấy”. Ơng nói rằng nghề cày cấy là nghề
nghiệp tầm thường, của những bậc dưới. Ơng cũng thường giận dữ khi có người
cùng bàn về binh đao chiến trận nghĩa là ông cũng không dạy về binh đao chiến
tranh. Cũng xuất phát từ chổ phân chia vai trị vị trí xã hội của các hạng người


quân tử và tiểu nhân mà mục đích giáo dục của hai hạng người này theo Khổng

Tử cũng không giống nhau, quân tử thì giáo dục để quản lý xã hội cịn tiểu nhân
thì để phục tùng xã hội, phục tùng người quân tử. Khổng Tử viết “tiểu nhân
cũng phải học, nhưng cái học của tiểu nhân là để họ phục dịch và tuân lệnh kẻ
cầm quyền .
2. Về đối tượng giáo dục. Là một nhà giáo dục lớn, một mặt Khổng Tử
chủ trương dạy cho tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp giàu nghèo,
chủng tộc, “hữu giáo vô loại”. Khổng Tử là người đầu tiên làm một cuộc cách
mạng thực sự trong tư tưởng giáo dục cổ đại. Ơng là người đã mở trường tư với
quy mơ lớn đầu tiên, mở rộng cửa học đường để thu nhận tất cả các đối tượng,
tầng lớp có nhu cầu học tập, khơng hề phân biệt q tộc hay bình dân, tiểu nhân
hay quân tử, người giàu sang hay kẻ nghèo hèn…Khổng Tử là người đầu tiên đã
bình dân hóa, tồn dân hóa giáo dục. Nhưng mặt khác ơng lại chủ trương đối với
dân việc gì cần thiết thì sai khiến chứ khơng nên giảng giải vì dân khơng có khả
năng hiểu ý nghĩa cơng việc mình làm. Chủ trương giáo dục này xuất phát từ
quan điểm cho rằng nhân cách không phải bẩm sinh bởi bản chất ban đầu của
mọi người đều giống nhau, song do tác động của mơi trường , của điều kiên
sống nên thói quen đem lại cho người tính lành, kẻ tính ác. Vì vậy, giáo dục có
thể cải hóa tất cả, trừ những người gọi là thượng trí và những kẻ hạ ngu. Như
vậy, về đối tượng giáo dục Khổng Tử rất tiến bộ khơng có sự phân chia đẳng
cấp. Điều này cũng xuất phát từ niềm tin sức mạnh của giáo dục có thể cảm hóa
được con người và niềm tin vào con người có thể được giáo dục tốt hơn thơng
minh hơn. Chính vì vậy, mà học trị của ơng rất đơng có đến hơn ba ngàn người.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử quy định mà đối tượng giáo dục của khổng tử có
điểm hạn chế đó là nữ giới khơng được đến trường. Có thể coi đây là một trong
những hạn chế lớn nhất trong tư tưởng giáo dục của Ông.
3. Về nội dung giáo dục. Nội dung giáo dục của Khổng Tử tập trung vào
ngũ thường - 5 phẩm chất của người quân tử: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín và xoay
quanh 6 nghành: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số và 4 khoa: Đức hạnh, chính trị, ngơn



ngữ, văn hoc. Mặc dầu những nội dung giáo dục này chưa thật phong phú và đầy
đủ song trong bối cảnh xây dựng một xã hội “vô đạo” thành “hữu đạo” thì nó lại
phát huy tác dụng rất to lớn và rất đáng được ghi nhận. Giáo trình cơ bản Khổng
Tử dùng để khai sáng là: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Ông cho rằng:
bước chân vào một quốc gia có thẻ biết được nền giáo dục của nước đó như thế
nào. Nếu dân ơn, nhu, đơn, hậu thì đó là nền giáo dục đã theo tinh thần của thư;
nếu dân khiêm nhường trang trọng thì đó là nền giáo dục đã theo tinh thần của
lễ; nếu dân cởi mở sinh hoạt nhẹ nhàng thì đó là nền giáo dục đã theo tinh thần
của nhạc; nếu dân sống thuận theo đạo trời thì đó là nền giáo dục đã theo tinh
thần của dịch và nếu dân biết phán xét thì dó là nền giáo dục đã theo tinh thần
của xn thư. Học trị của ơng cũng ghi lại về vai trị của những sách này. Theo
ơng những cuốn sách này sẽ giúp người diễn đạt tư tưởng của mình, biện luận
với người. Khơng học thì khác nào người đứng quay mặt vào tường chỉ thấy bế
tắc của đường đi chứ không thấy cái sống động mênh mang của cuộc sống. Lễ
giúp con người nắm được các quy tắc cư xử. Ngày nào mà mình khắc kỷ, phục
lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ cảm hóa mà theo về đức nhân. Vì vậy, nhất
thiết phải theo lễ, cái gì hợp với lễ thì khơng nghe, khơng nhìn, khơng nói và
khơng làm. Nhạc thì giúp con người điều hịa tính khí, di dưỡng tinh thần…vv.
Để xây dựng mẫu người lý tưởng của xã hội, Khổng Tử đã đưa ra quan niệm về
người quân tử - khái niệm quân tử không xa lạ với người trung hoa cổ đại, nó có
từ thời chu (khoảng 1100 TCN) nhằm chỉ những người nắm quyền hành trong xã
hội. Đối lập với quân tử là tiểu nhân - khái niệm chỉ nhân dân lao động. Khổng
Tử đã dùng khái niệm quen thuộc này để xây dựng mẫu người lý tưởng của
mình. Là người sáng lập ra học thuyết chính danh và khát khao người vươn đến
nhân. Để thực hiên được thuyết chính danh ấy nên mẫu người lý tưởng của
Khổng Tử chịu sự chi phối của chính danh nói chung và của đức nhân nói riêng.
Theo Khổng Tử quân tử và tiểu nhân cũng đối lập với nhau, song quân tử không
thuần túy chỉ địa vị xã hội mà chủ yếu chỉ phẩm chất đạo đức mà người đó đạt
được. quan điểm giáo dục của Khổng Tử dựa trên cơ sở học thuyết về đạo nhân
cho nên giáo dục con người phải dựa trên cơ sở nền tảng giáo dục đạo đức. Điều



này được thể hiện trong câu nói “tiên học lễ, hậu học văn”. Cũng khi nói về
nhân, đề cập đến mẫu người quân tử ở mỗi lúc với mỗi người Khổng Tử đưa ra
những tiêu chuẩn khác nhau song chung quy lại qn tử phải dạt được chín điều
đó là: 1- khi nhìn thì phải nhìn cho minh bạch; 2-khi nghe thì phải nghe cho rõ
ràng; 3-sắc mặt thì phải dữ cho ơn hịa; 4-tướng mạo thì phải dữ cho trang
nghiêm; 5- nói năng thì phải dữ bề trung thực; 6-làm việc thì phải trọng sự kính
cẩn; 7-điều gì cịn nghi hoặc thì phải hỏi han; 8-khi tức giận thì phải nghĩ đến
hậu họa; 9-khi thấy lợi thì phải nghĩ đến điều nghĩa. Bằng chín điều mà Khổng
Tử đã đặt ra những yêu cầu từ hình dạng đến thân tâm, từ cách ứng xử với mình
đến cách ứng xử với người của người quân tử. Những yêu cầu này theo Khổng
Tử phải có sự trung hịa mà ơng gọi là trung dung, trung thứ. Khổng Tử cho rằng
trung dung rất gần gủi với con người “dẫu cho hạng ngu phu, ngu phụ cũng biết
chut ít về đạo ấy…dẫu cho đàn ông, đàn bà tầm thường và lười biếng cũng thi
hành được ít phần trong đạo ấy”. Khổng Tử khẳng định “đạo trung như cái ăn,
cái uống, với cuộc sống, ai mà chẳng ăn ai mà chẳng uống nhưng ăn uống mà
nhận được mùi vị thật chẳng được mấy người, đạt được đỉnh cao của trung dung
thật chẳng được mấy kẻ”. Theo Khổng Tử mỗi vật đều có gốc có ngọn, mỗi việc
đều có đầu có đi mới mong thành đạt được. Trở về với đất quay lại đạo trung
dung là phải biết tường tận cái tính thiên nhiên của mình cái tính do trời đất phú
cho rồi, ráng sức học tập để mở mang tinh ấy, tức là phải biết về đạo trời đất mà
người Trung Hoa gọi là đạo trời. Người quân tử trước tiên phải tu thân học tập,
khơng tự tu được thân thì khơng thể giúp được đời, khơng thể làm trịn bổn phận
của mình với thiên hạ. Bởi vậy, ông chủ trương người quân tử phải “tu thân tề
gia trị quốc bình thiên hạ”. Ơng nói “ những vị vua những vị thánh xưa muốn
cho đức của mình tỏa sáng trước hết phải lo sửa trị nước mình, muốn sữa trị
nước mình trước hết phải sữa trị nhà mình. Muốn sữa trị nhà mình trước hết phải
tu tập lấy mình bằng cách thấu suốt đâọ trời để cho lịng ngay thẳng”. Để xét
một người nào đó thuộc quân tử hay tiểu nhân Khổng Tử đòi hỏi phải quan sát

hành động của người đó có phù hợp với lời nói của họ hay khơng và để đánh giá
con người ơng khun phải nhìn vào cơng việc của họ, phải xét lý do làm việc


của họ và phải xem thái độ của họ nữa. Người qn tử thì có nhân – trí - dũng
cịn tiểu nhân thì khơng có.
4. Về phương pháp giáo dục: Nói đến quan điểm giáo dục của Khổng Tử
khơng thể không nhắc đến hệ thống phương pháp giáo dục của ông. Đây là một
hệ thống khá phong phú, đa dạng và sâu sắc thể hiện trên ba phương diện:
phương pháp dạy của thầy; phương pháp học của trò và sự kết hợp biện chứng
của hai quá trình dạy và học.
+ Về phía thầy: Khổng Tử đã nêu một tấm gương về sự ham học và ham
dạy của mình. Với ơng người thầy phải có một nhân cách cao cả và một kiến
thức un thâm. Theo ơng con người ít có kẻ sinh ra tự biết. Ơng cũng tự nhận
mình là: "Học nhi tri chi" (Do học mà biết) do đó trong sách Luận ngữ ơng nói:
"Ta 15 tuổi chí thú ở việc học, 30 tuổi lập thân, 40 tuổi không sai...". Do đó lứa
tuổi để học vấn là từ 30 trở xuống. Đây là thời điểm tích lũy kiến thức, tích lũy
kinh nghiệm sống để rồi cống hiến cho đời. Ơng địi hỏi người Thầy phải có mối
quan hệ chan hòa, gần gủi, sâu sát đối với học trò, phải nắm bắt được đặc điểm
nhân cách của hoc trò. Đồng thời phải biết khuyến khích hay răn đe học trị đúng
lúc trong suốt q trình dạy học. Ơng chủ trương ứng dụng các phương pháp
như: nêu gương, gắn học với hành …để kích thích gợi mở nhằm phát huy tính
năng động tự chủ của học trò. Đã coi trọng việc học như vậy nên người học phải
biết phương pháp học. Theo Khổng Tử, người học phải: Nghe - Nghĩ - Làm.
Ơng nói: "Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi" (Học mà khơng nghĩ
thì mất hết, nghĩ mà khơng học thì mỏi mệt). Đã nghe, nghĩ việc đang học phải:
"Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?" (học mà thực hành theo điều mình học
há chẳng vui sao?). Điều này rất phù hợp với tư tưởng, phương pháp học của
Phật giáo là phải: "Văn-Tư-Tu". Cách học của ông là: "Mặc nhi thức tri, học nhi
bất yếm" (Lặng lẽ mà ghi nhớ lấy, học mà không chán). Người học phải tạo

được hứng thú trong việc học thì sự học mới khơng chán. Người học phải: "Ơn
cố nhi tri tân, khả vi sư hỹ" (Ôn cũ biết mới, đáng làm thầy vậy). Theo ông
người học phải học nữa, học mãi, nhà bác học không ngừng học. Học điều xưa


để áp dụng cho thời nay, đó là người khéo vận dụng tri thức. Đạo lý của việc học
là: không phải chỉ đọc sách chết mà phải chú trọng trong hiện thực xử thế con
người. Đối với người học phải học tất cả các tầng lớp người trong xã hội, ai
cũng có điều hay điều dở, vậy ta hãy học điều hay của họ thậm chí phải học kể
cả kẻ dưới mình: "Học bất xỉ hạ vấn" (Khơng thẹn học người dưới). Khổng Tử
rất coi trọng nguyên tắc làm gương, ông cho rằng cha phải làm gương cho con,
thầy phải làm gương cho trò, chồng phải làm gương cho vợ, anh phải làm gương
cho em. Những buổi đàm đạo về chính sự với quan triều đình, những lời khun
học trị đã đề cập đến phần nào đã phán ánh được điều ấy. Sử sách ghi chép về
thân thế và sự nghiệp của Khổng tử cũng đã chứng minh rằng trong khi dạy
người đời “khắc kỷ phục lễ vi nhân” ông đã trọn đời theo nó. Trong Tứ thư và
những tài liệu đáng tin cậy khác Khổng Tử không xuất hiện như một hiền triết
siêu phàm mà là một người bình dị dễ hiểu. Ơng cũng có những lúc mền yếu
cũng đầy những thành kiến và tham vọng nhưng ông kiềm chế để tn theo phép
tắc mà chính ơng truyền giảng. Khổng Tử cũng rất coi trọng nguyên tắc “thuyết
giáo tùy nghi”- coi trọng việc xác định đối tượng giáo dục qua ngôn ngữ và hành
vi của họ để xác định nội dung giáo dục cho phù hợp. Ơng cũng tìm cách xóa bỏ
sự thụ động của người tiếp thu tri thức. Ơng nói “kẻ nào khơng cố cơng tìm
kiếm ta chẳng vẽ, kẻ nào không bộc lộ được tư tưởng của mình ta chẳng khai
sáng cho, kẻ nào mà ta dạy một mà chẳng biết hai ta chẳng dạy nữa”. Ông cho
rằng, ai không biết tự hỏi ta phải làm sao? Thời chẳng thế dạy cho thành đạt.
Ông bắt học trị phải suy nghĩ nghiền ngẫm “học mà khơng suy nghĩ thì vơ ích,
suy tư mà khơng học thì kết quả cũng chỉ bằng khơng. Ơng thường tâm sự
“trước đây ta thường trầm tư mặc tưởng đến trọn ngày quên ăn, trọn đêm quyên
ngủ mà cái lợi chẳng đáng là bao” . Khổng Tử cũng rất đề cao việc ứng dụng

vào cuộc sống những điều đã học. Ơng nói “như có ai đã đọc thực hết 300 thiên
trong kinh thi được bậc quốc trưởng trao quyền hành cho mình, nhưng cai trị
chẳng xuôi, được phải đi sứ đến ở các nước 4 phương, nhưng tự mình chẳng có
tài ứng đối, người ấy dẫu học nhiều cúng trở nên vơ ích”(luận ngữ, tử lộ).


+ Về phía trị: Khổng Tử đề ra một số phương pháp, nguyên tắc học tập
như học đi liền với tập, phải học ở mọi người mọi lúc mọi nơi, học phải kiên trì
chăm chỉ. Có suy nghĩ độc lập và nắm bắt chiếm lĩnh tri thức một cách nhất
quán. Ơng khuyến khích học trị phải biết học việc đặt câu hỏi, hay là dùng
phương pháp đàm thoại, phải biết tạo ra niềm vui hứng thú trong học tập. Trong
quá trình giáo dục, Khổng Tử khun học trị nên tự tin ở mình “khơng ốn trời,
khơng trách người, về đạo lý thì khởi học từ mức thấp đến mức cao”, và phải
biết nghe nhiều học nhiều qua đó tìm những điều hay để học, thấy những điều
dỡ để tránh. Khổng Tử đòi hỏi sự nổ lực của người học đi theo hướng của thầy
đã vạch ra. Về đòi hỏi này thông thường trong khi dạy Khổng Tử giảng dạy từng
bước một, trả lời cho những câu hỏi từ chung đến cụ thể tùy theo sự hiểu biết
của người học. Chính điều này tạo điều kiện cho người học phát huy được khả
năng suy lý của mình, như lời bình trong lễ ký viết “thầy dạy chỉ thúc đẩy, chỉ
mở lối soi đường nhưng sự không bức bách, không dẫn đến cùng ấy lại làm cho
học trò thư thái và biết nghĩ biết suy”, ơng địi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp
của người học để nắm những phần quan trọng nhất của vấn đề đặt ra. Lời giảng
“này, Tứ, sự thông suốt mọi nhẽ của ta chẳng phải ở nhẽ ta học nhiều mà ở chổ
ta để tâm tìm ra đầu mối”, không phải chỉ dành riêng cho Tử Cống mà là yêu
cầu đối với tất cả những ai muốn “thơng suốt mọi nhẽ ” như ơng.
+ Thầy - trị phối hợp đồng bộ: Việc học không chỉ là học cho trò mà còn
là cơ hội để thầy cũng học nên Khổng Tử đưa ra học thuyết: "Giáo học bán"
(Việc dạy và việc học, mỗi người một nửa). Người thầy đưa ra một vấn đề, học
trò phải lật ngược vấn đề trở lại thành 3 vấn đề (Cử nhất phản tam). Người thầy
đưa ra 1 mệnh đề người học phải ít nhất suy ra 3 vấn đề để nhận thức, học như

vậy, mới sâu sắc. Theo quan niệm của Khổng Tử, người dạy học phải thật tâm
huyết với sự nghiệp giáo dục nên mới: "Hối nhân bất quyện" (dạy người không
chán). Khổng Tử được tôn xưng là: "Vạn thế sư biểu" nên những học thuyết về
giáo dục, học vấn trên đây cho đến ngày nay vẫn cịn có nhiều điều rất phù hợp
để chúng ta áp dụng học theo. Như vậy, triết học nho gia đặc biệt là triết học


Khổng Tử là triết học bàn về về con người. Vì những quan niệm về thế giới, về
chính trị- xã hội, về luân lý đạo đức cũng đều tập trung phản ánh dời sống và
bản chất con người, thể hiện những cố gắng và ước mong ổn định trật tự đẳng
cấp danh phận trong xã hội thời đó nhằm xây dựng một xã hội lý tưởng lấy nhân
nghĩa làm gốc. Để làm được điều đó Khổng tử chủ trương phải giáo hóa con
người, phải giáo dục con người để con người sống với nhau tốt hơn, khơng cịn
áp bức, chiến tranh để ai ai cũng được sống trong một xã hội bình đẳng, an nhàn
hạnh phúc. Từ quan điểm đức trị như vậy và cùng với niềm tin vào sự giáo hóa
con người mà Khổng Tử đưa ra quan điểm của mình về giáo dục. Ơng chủ
trương mọi người đều phải học, phải tự học mà trước hết là học đạo đức. Phải
“tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ”.
Có thể nói những tư tưởng của ơng về mục đích, đối tượng, nội dung, và
phương pháp giáo dục khơng những có ý nghĩa đối với xã hội đương thời mà
cho đến ngay nay vẫn cịn có nhiều điều rất phù hợp để chúng ta áp dụng học
theo. Tất cả những gì mà Khổng Tử đã làm xứng đáng để ông trở thành nhà giáo
dục lớn của xã hội đương thời và kinh nghiệm giáo hóa dân của ơng ln là
những bài học để mọi thế hệ quan tâm. Song quan điểm giáo dục của Khổng Tử
chủ yếu dừng lại ở giao tiếp, lễ nghi chứ chưa hẳn mở mang dân trí nói chung.
Khổng Tử cũng đã bứt tri thức ra khỏi lao động sản xuất- lĩnh vực quan trong
nhất của đời sống xã hội và nhất là mục đích giáo dục của ơng đã bộc lộ hồn
tồn quan điểm của một ông thầy chủ nô quý tộc đang truyền đạo để cũng cố địa
vị thống trị của giai cấp mình. Nghiên cứu hệ thống triết học Khổng Tử ta thấy
sỡ dĩ có những hạn chế đó là do bị điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp chi phối.

Vì tồn bộ hệ thống triết học của Khổng Tử ln chứa đựng những mâu thuẩn
và tính chất hai mặt đan xen giữa yếu tố duy vật vô thần với yếu tố duy tâm tôn
giáo, giữa tư tưởng tiến bộ và quan điểm bảo thủ lạc hậu. Điều đó phản ánh tâm
trạng giằng xé của ông trước sự chuyển biến của thời cuộc. Khi phản ánh đúng
xu thế phát triển của lịch sử phát triển của lịch sử và vượt qua được giới hạn
đẳng cấp danh phận, tư tưởng của Khổng Tử hàm chứa cái nhân hợp lý mang giá


trị nhân loại phổ qt, đó là mặt tích cực, tiến bộ trong triết học của ông. Nhưng
khi bị ràng buộc bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp, tư tưởng của ơng lại lộ
rõ tính bảo thủ, lạc hậu. Chẳng hạn, một mặt ông cho rằng tri thức bẩm sinh là
tri thức cao nhất nhưng mặt khác ông lại khẳng định tri thức bắt nguồn từ học
tập, quan sát và suy lý. Khổng Tử vừa thể hiện tính chất của chũ nghĩa duy tâm
vừa thể hiện quan điểm của chũ nghĩa duy vật tầm thường và khi ông công nhận
cả hai loại tri thức trên cùng song song tồn tại thì ơng rơi vào tính chất của chủ
nghĩa nhị ngun. Tính khơng nhất qn ấy trở thành cơ cho các thế hệ sau khai
thác phát triển theo hai khuynh hướng khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử
mới và quyền lợi của họ. Nhưng dù sao với những đóng góp của mình, nhất là
trong lĩnh vực chính trị, đạo đức, luân lý giáo dục, Khổng Tử vẫn xứng đáng với
lịng suy tơn của nhân dân Trung Hoa là “vạn biểu thế sư”.
Nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử nói chung và tư tưởng về giáo dục
của ông nói riêng trên tinh thần “gạt đục khơi trong” chúng ta thấy có những giá
trị hợp lý cho đến ngày nay vẫn cịn có nhiều điều rất phù hợp để chúng ta áp
dụng học theo. Như Hồ Chí Minh đã từng nói “tuy Khổng Tử là phong kiến và
tuy trong học thuyết Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng song những điều hay
trong đó thì chúng ta nên học”. Trước hết, Khổng Tử rất coi trọng giáo dục, ông
coi giáo dục là động lực phát triển xã hội. Thông qua giáo dục ông ước mong ổn
định trật tự đẳng cấp danh phận trong xã hội và đó cũng là biện pháp để đào tạo
những mẫu người lý tưởng như quân tử nhằm xây dựng một xã hội lý tưởng mà
ở đó con người sống với nhau bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa. Có lẽ ước mơ này

khơng chỉ riêng Khổng Tử mà còn là ước mơ ngàn đời của mỗi con người, của
toàn thể nhân loại. Bác Hồ chúng ta đã từng nói “ Học thuyết Khổng Tử là tu
dưỡng đạo đức cá nhân, tơn giáo Giê-su có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả, chủ
nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng, chủ nghĩa Tơn Dật
Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử,
Giê-su, Mác, Tơn Dật Tiên chẳng phải có điểm chung đó sao? Họ đều muốn


“mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội... . Tơi cố gắng làm
làm người học trị nhỏ của các vị ấy”.
Tiếp thu quan điểm giáo dục của Khổng tử có điều trước tiên mà chúng ta
khơng thể xem thường là cùng với việc khẳng định vai trị của giáo dục thì
Khổng Tử đặc biệt đề cao giáo dục đạo đức, coi đạo đức là nền tảng xã hội. Tư
tưởng này được thể hiện qua câu nói “tiên học lễ, hậu học văn”. Điều này có
nghĩa là trước khi giáo dục tri thức thì trước hết phải giáo dục đạo đức đã. Tư
tưởng này lại càng có ý nghĩa biết bao với tình hình nước ta hiện nay khi mà nền
đạo đức con người đang bị xói mòn băng hoại bởi những tác động tiêu cực của
nền kinh tế thị trường. Một thời kỳ nền giáo dục của chúng ta vẫn xem nhẹ việc
giáo dục đạo đức cho học sinh, thể hiện ở chổ môn GDCD được xem là môn
phụ trong hệ thống giáo dục phổ thông. Giáo viên dạy môn này đều không đúng
chuyên nghành đào tạo mà chủ yếu là là bố trí xen ghép từ nhiều bộ môn khác
nhau. Môn GDCD vốn không thi lại cịn thêm phương pháp kiểm tra đánh giá
mang tính hình thức, chiếu lệ. Các kỹ năng sống khơng được chú trọng giáo dục,
lại thêm chương trình giáo dục mang nặng tính lý thuyết và thiếu đi sự trải
nghiệm của cuộc sống nên hậu quả là khơng ít người trong nhiều thế hệ học trò
thiếu kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử, kỹ năng chung sống,... chưa nói đến rất
nhiều thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên “vô đạo”, phạm pháp.
Thứ 2, một tư tưởng nữa mà chúng ta cần chú ý khi nghiên cứu quan điểm
của ông về giáo dục đó là: từ quan niệm về tính người là thiện (mặc dù Khổng
Tử khơng trực tiếp nói như vậy nhưng chúng ta cũng hiểu được Khổng Tử cho

rằng bản tính tự nhiên của con người là thiện) nhưng dù thiện hay ác thì con
người đều có thể bằng con đường giáo dục mà cảm hóa. Có thể coi đây là điểm
cốt lõi trong tư tưởng giáo dục của nho giáo, tin vào con người dù thế nào, thiện
hay ác, giàu sang hay nghèo, thông minh hay ngu dốt đến đâu, dù có lầm đường
lạc lối thì đều có thể giáo dục được, đều có thể làm cho họ thơng minh hơn tốt
hơn. Mỗi khi mà tin vào sự biến đổi của con người thơng qua giáo dục, có thể đó
cũng là một giai đoạn mở đầu cho việc tự ý thức, tự rèn luyện trở thành phương


châm quan trọng trong nền giáo dục chung của thế giới. Thực tế giáo dục của
nước ta có một lỗ hổng rất lớn đó là: giáo dục theo kiểu áp đặt, bắt buộc, chưa
xem việc học là tự giác của con người. Mỗi khi việc học mà bị bắt buộc thì hiệu
quả sẽ khơng cao lắm chứ chưa nói là làm ảnh hưởng đến sự phát triển năng
khiếu của cá nhân. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, ở bậc đại học lại xuất hiện
lối đào tạo theo tín chỉ, số lượng mỗi lớp học rất đông nên cũng xuất hiện một
hiện tượng dạy theo kiểu mít tinh - giáo viên mắc loa nói một mạch, sinh viên ở
dưới thì cứ thoải mái tán gẫu hết giờ là về. Dạy theo kiểu này thì hiệu quả thấp
lắm nếu chúng ta không xem việc học là tự giác, không gây được niềm say mê,
hứng thú cho người học.
Tư tưởng xem đạo đức và giáo dục đạo đức là tiêu chí hàng đầu và cơ bản
nhất trong việc rèn luyện nhân cách con người là tư tưởng có ý nghĩa thời đại
sâu sắc. Phương châm “đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc để” nghĩa là giáo dục phải
xuất phát từ gia đình và lấy gia đình làm trường học đầu tiên để giáo dục. Khổng
Tử quan niệm “tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ”, như vậy có nghĩa là giáo
dục chủ yếu ở hai khâu tu thân và tề gia, trong đó gia đình là trường học đầu tiên
để con người rèn luyện và trưởng thành. Do vậy, chúng ta phải xây dựng kiểu
gia đình có cơ cấu phù hợp đảm bảo sự kết dính giữa các thành viên, xây dựng
gia đình trở thành một mơi trường mang tính giáo dục cao, kết hợp giữa gia đình
nhà trường và xã hôi trong công tác giáo dục và tổ chức hoạt động giáo dục trên
địa bàn dân cư.

Thứ 3, Trong các phương pháp giáo dục mà Khổng Tử đưa ra, có thể nói
rằng phương pháp nêu gương rất tiến bộ, nó có ý nghĩa đối với nền giáo dục của
nước ta hiện nay. Bằng các tấm gương điển hình trong cuộc sống hằng ngày
chúng ta có thể đưa họ ra làm gương giáo dục, đây là phương pháp mang tính
hiệu quả nhanh nhất. Phương pháp kết hợp giữa học với hành, đây là phương
pháp giúp người học cảm thấy việc học khơng mơ hồ, khơng nặng nề…ngồi ra
cịn nhiều phương pháp khác mà giúp người học tự tin, chủ động trong quá trình
học, như người dạy chỉ đặt câu hỏi cho người học suy nghĩ, gợi ý nữa lời cho


người học phát triển theo cách hiểu của họ. Có lẽ đây là lý do mà khi nói về
phạm trù “nhân” lại được các học trò ghi lại theo nhiều cách khác nhau…
Thứ tư, về giáo dục tri thức mặc dù Khổng Tử chưa hề đề cao, thậm chí
xem thường tri thức sản xuất và kỉ thuật, cái trí mà ông muốn hướng đến là sự
quanh quẩn trong vòng đạo lý để cũng cố xã hội vương đạo. Tuy nhiên cái hay
của ông là phương pháp biết truy cầu chân lý. Từ tư tưởng đó của ơng chúng ta
thấy rằng muốn nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo thì phải đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên, loại bỏ những người khơng có tâm
huyết với nghề nghiệp. Tiến hành đổi mới một cách liên tục và đồng bộ toàn
diện và triệt để từ Sở đến trường, từng bộ môn đến từng giáo viên.
Thứ năm, về giáo dục lý tưởng thời khổng tử việc giáo hóa bao giờ cũng
gắn với lý tưởng. Cái lý tưởng họ hi sinh phấn đấu “mài chẳng khuyết, nhuộm
chẳng đen” thủy chung son sắt là lý tưởng làm cho xã hội hữu đạo. Trong xã hội
ngày nay lý tưởng đó được thắp sáng dưới ánh sáng của chũ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là lý tưởng cộng sản, lý tưởng cách mạng, lý tưởng xã
hội chủ nghĩa. Do vậy, cùng với việc giáo dục tri thức thì chúng ta cần coi trọng
việc giáo dục lý tưởng sống cho học sinh, sinh viên thông qua việc tăng cường
giáo dục các mơn Mác- Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực trạng thanh
niên của nước ta hiện nay cho thấy hiện tượng sống thiếu lý tưởng, thiếu ý chí
phấn đấu, mất phương hướng ngày càng một tăng lên. Cái tinh thần “dạy không

mỏi, học không chán” của Khổng Tử cần phải được thắp sáng trong thời đại
chúng ta. Muốn vậy, chúng ta cần biết tôn trọng thành quả giáo dục là những
người được đạo tạo. Những người làm giáo dục mà khơng biết tơn trọng thành
quả của mình thì đó là phản giáo dục. Giáo dục chỉ có ý nghĩa khi thành quả
giáo dục có điều kiện tốt nhất để đem những tri thức vào cải tạo thực tiễn, phục
vụ cho cuộc sống con người. Khi thành quả giáo dục có được điều kiện tốt nhất
thì có lẽ đó chính là động lực lớn nhất thúc đẩy sự đam mê của người học.


Thứ sáu, Khổng Tử cũng rất coi trọng việc giáo dục truyền thống, cũng
như vận dụng những giá trị truyền thống, quá khứ vào sự nghiệp của thời hiện
tại và tương lai mà theo cách nói của Khổng Tử đó là “ơn cố nhi tri tân”. Vì vậy,
trong q trình giáo dục chúng ta cần phải giáo dục truyền thống của dân tộc
như truyền thống yêu nước, hiếu học, nhân nghĩa..vv để lấy nó làm bàn đạp phát
triển trong tương lai.
Tóm lại, tư tưởng giáo dục của Khổng Tử khơng chỉ có giá trị ở xã hội
phong kiến, mà cịn có giá trị to lớn trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn của nền
kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, sự giao lưu mở cửa…việc nghiên cứu, vận
dụng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử sẽ có ý nghĩa đối với sự nghiệp trồng
người của nền giáo dục nước ta.
2. Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để lập luận quan
điểm sau và rút ra ý nghĩa cho bản thân.
“Khơng có hồn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có con người tuyệt vọng vì hồn
cảnh”. (khuyết danh)
Vận dụng phương pháp luận triết học Mác - Lênin mối quan hệ khách
quan chủ quan giúp ta có cơ sở để lập luận quan điểm “Khơng có hồn cảnh
tuyệt vọng, chỉ có con người tuyệt vọng hồn cảnh”, hồn cảnh ở đây là khách
quan hay khách thể còn con người ở đây là chủ quan hay chủ thể, luận giải mối
quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan có ý nghĩa quan trọng nó giúp
cho chủ thể, một mặt tránh chủ nghĩa chủ quan, mặt khác biết cách phát huy tính

chủ động của chủ quan hay chủ thể để khơng rơi vào hồn cảnh bị động.
Khách quan và chủ quan là hai mặt, hai yếu tố không thể tách rời trong
mọi hoạt động của mỗi chủ thể. Nhưng tính chất của hoạt động nhận thức và cải
tạo thế giới lại ln địi hỏi chủ thể phải giải quyết mối quan hệ giữa khách quan
và chủ quan sao cho phù hợp với vai trị, vị trí thực sự của con người trong thế
giới – nghĩa là phải phù hợp với lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.


Trong cuộc sống, con người gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau, có hồn
cảnh thuận lợi có hồn cảnh khó khăn, dễ mang lại cho người đến tuyệt vọng để
tìm cách vượt qua. Dựa vào mối quan hệ khách quan chủ quan, đặc biệt phát huy
tính chủ động chủ quan của con người giúp luận giải một cách đúng đắn quan
điểm “Khơng có hịan cảnh tuyệt vọng, chỉ có con người tuyệt vọng vì hồn
cảnh”. Nói đến vai trị của nhân tố chủ quan là nói đến vai trị của con người
trong hoạt động (nhận thức và thực tiễn) để cải biến và thống trị thế giới của họ.
Con người, do bản chất xã hội của họ quy định, nên luôn có nhu cầu và khả năng
tổ chức các hoạt động khám phá thế giới khách quan. Trên cơ sở đó, con người
nâng cao tri thức, phát triển ý chí, tình cảm của mình theo hướng ngày càng phù
hợp hơn với điều kiện, khả năng và quy luật khách quan của hiện thực. Cũng
nhờ đó mà đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ cũng như chủ trương, biện pháp mà
con người vạch ra ngày càng đúng đắn hơn, ít mang tính chất chủ quan duy ý chí
hơn. Nói cách khác, đó cũng chính là q trình nhân tố chủ quan của chủ thể
ngày càng được khách quan hóa. Đồng thời, chính điều đó lại góp phần nâng cao
quyền lực của con người trong việc làm biến đổi thế giới khách quan theo ý chí,
nguyện vọng và nhu cầu của họ. Điều đó cũng có nghĩa con người ngày càng trở
thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan, hay thế giới khách quan ngày
càng bị chủ quan hóa bởi hoạt động cải biến của con người. Mặc dù mọi hoạt
động của con người đều phải dựa vào những điều kiện khách quan nhất định,
nhưng con người không thụ động chờ đợi sự chín muồi của điều kiện khách

quan, mà trái lại, có thể dựa vào năng lực chủ quan của mình để phát hiện các
điều kiện khách quan và dựa vào các điều kiện đó để tổ chức, xúc tiến tạo ra
những điều kiện khách quan khác cần thiết cho những nhiệm vụ cụ thể của
mình. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến trình biến khả
năng thành hiện thực. Tương tự, trong một phạm vi, một sự vật hiện tượng cụ
thể, tiến trình khách quan có thể có nhiều con đường, nhiều khả năng phát triển.
Ở đây, vai trị của con người có thể dựa vào năng lực vốn có của mình để lựa
chọn, tác động sao cho chỉ một con đường, một khả năng khách quan nào đó phù
hợp nhất với tiến trình lịch sử cụ thể và nhu cầu của mình. Bằng cách đó, như


thực tế lịch sử cho thấy, con người có thể đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình phát
triển của sự vật mà vẫn bảo đảm tính lịch sử tự nhiên của nó. Cuối cùng, vai trị
to lớn của nhân tố chủ quan cịn thể hiện ở chỗ, mặc dù khơng xóa bỏ hoặc sáng
tạo ra bất cứ quy luật khách quan nào, nhưng bằng năng lực chủ quan của mình,
con người có thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết
hợp một cách khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục
vụ tốt nhất cho mục đích của mình. Sở dĩ như vậy là vì tính tất yếu về sự tác
động của quy luật khách quan khơng mâu thuẫn với tính phong phú về hình thức
và trật tự tác động của nó trong những điều kiện cụ thể khác nhau; mà việc làm
biến đổi những điều kiện này lại nằm trong khả năng thực tế của con người.
Tóm lại, “thế giới không thỏa mãn con người, và con người quyết định
biến đổi thế giới bằng hành động của mình” . Nhưng hành động biến đổi thế giới
của con người chỉ có hiệu quả khi nó được thực hiện bởi những cơng cụ, phương
tiện vật chất và phù hợp với quy luật vốn có của thế giới vật chất, nghĩa là hành
động ấy luôn là một thể thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn. Quá trình thực
tiễn – nhận thức – thực tiễn là một q trình vơ tận với sự chuyển hóa khơng
ngừng giữa khách quan và chủ quan theo hướng đứa con người trở thành chủ thể
thực sự của thế giới khách quan. Đó chính là q trình biện chứng “khách quan
hóa chủ quan và chủ quan hóa khách quan”, chống “khách quan chủ nghĩa” và

chống “chủ quan duy ý chí”.
Từ phân tích đó cho chúng ta thấy thực tế là khơng có hồn cảnh tuyệt
vọng mà chỉ có con người khơng biết vượt qua những khó khăn, trở ngại trong
cuộc sống nên ỷ lại, thụ động, buông xuôi phó mặc cho số phận; mặc khác dù
thực tiễn con người gặp khó khăn, hồn cảnh éo le…nhưng nhờ sự chủ động,
sáng tạo của con người, con người sẽ tìm cách để vượt qua.
* Ý nghĩa của bản thân:
Hoàn cảnh, suy đến cùng, là do con người tạo ra, vậy thì khơng có lí do gì
khiến con người chịu thua hồn cảnh. Con người có tư duy và trí tuệ, những


cơng cụ vạn năng giúp chúng ta có thể vượt qua mọi thách thức, chông gai trong
cuộc sống. Hơn nữa, con người khơng đơn độc, con người là tổng hồ của các
mối quan hệ xã hội. Ở đâu đó vẫn có những người thân, những người tốt, những
người quan tâm đến mình, vấn đề quan trọng là, con người có dám chấp nhận
nghịch cảnh, đương đầu với nó và đấu tranh để vượt qua nó hay khơng.
Con người ln phải đứng cao hơn hồn cảnh. Bởi dù hồn cảnh có trớ
trêu đến đâu nhưng cuộc sống luôn tiếp diễn và ở đâu đó vẫn có những người tốt
sân sàng giúp đỡ ta, Còn sự sống là còn hi vọng. Đã làm người và sống trên
cuộc đời này, bạn chắc chắn ít nhiều sẽ phải nếm trải đau khổ, đắng cay. Nhưng,
nói như Platon, chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất. Thay vì bi
quan, chán nản, tuyệt vọng, chúng ta hãy dũng cảm chấp nhận hoàn cảnh, đấu
tranh khắc phục nó. Đó là lựa chọn của những con người có nghị lực và ý chí.
* Rút ra ý nghĩa từ công việc của bản thân.
Việc nghiên cứu mối quan hệ khách quan chủ quan theo lập trường duy
vật biện chứng quan điểm “Khơng có hồn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có con
người tuyệt vọng vì hồn cảnh” có ý nghĩa lớn trong hoạt động con người nói
chung và công việc tại ngân hàng- nơi bản thân tôi đang cơng tác nói riêng. Cán
bộ, nhân viên ngân hàng trong công tác phải luôn tôn trọng khách quan, xuất
phát từ thực tế khách quan; đóng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo chủ quan

trong nhận thức thực tiễn công việc. Bởi cơng việc có lúc thuận lợi có lúc gặp
khó khăn nhất là bị tác động bởi đại dịch Covid-19. Nhận thức đúng đắn khách
quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện pháp phù hợp
làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn giúp cho chủ thể từng bước cải biến khách
quan theo mục đích đặt ra. Phải dựa vào thực tiễn kết quả hoạt động kinh doanh
ngân hàng, tác động đại dịch… để chủ động đề ra giải pháp đưa ngân hàng vượt
qua khó khăn. Do vai trò chủ động của nhân tố chủ quan nên nhận thức thực
tiễn phải biết dựa trên cơ sở tôn trọng khách quan để phát huy cao độ tính động
chủ quan. Trên cơ sở “cái” khách quan nhận thức để huy động, phát huy cao
phẩm chất năng lực chủ thể vào việc nghiên cứu, phát hiện, lựa chọn con đường,


biện pháp, hình thức, bước đi, cơng cụ phương tiện phù hợp nhất, đạt hiệu cao
trong hoạt động. Đối với ngân hàng phải phát huy tính chủ động, sáng tạo, đối
với cán bộ, nhân viên với kế hoạch cụ thể trong điều kiện dịch bệnh gây khó
khăn cho cơng việc kinh doanh, ảnh hưởng đến doanh thu cần phải hát huy hơn
nữa tính chủ động chủ quan, tính sáng tạo đồng thời bao hàm cả việc phê phán,
đấu tranh khắc phục tư tưởng thụ động, ỷ lại, bó tay, phó mặc trước khó khăn
thực của thưc tại cuộc sống. ...



×