Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN đấu TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA cơ hội và ý NGHĨA đối với CUỘC đấu TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA cơ hội và xây DỰNG ĐẢNG TA TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.84 KB, 22 trang )

ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CUỘC
ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI VÀ XÂY DỰNG,
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trong quá trình bảo vệ, phát triển và hiện thực hóa tư tưởng khoa học của Mác-
Ăng-ghen, V.I.Lê-nin đã nêu lên một kiểu mẫu về sự kiên định nguyên tắc tính đảng
mác-xít trong mọi hoạt động lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa giáo điều và những khuynh hướng cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Giờ đây, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, cuộc đấu tranh
trên bình diện lý luận và tư tưởng trở nên rất gay gắt, thực sự chiếm vị trí hàng đầu trong
đấu tranh giai cấp, đồng thời xuất hiện nhiều trào lưu cơ hội, xét lại dưới nhiều màu sắc
rất phức tạp. Trong bối cảnh lịch sử đó, đối với chúng ta, những tư tưởng của V.I.Lê-nin
về chủ nghĩa cơ hội và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội không những vẫn giữ nguyên
giá trị lịch sử, mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối ổn
định và hoà bình, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản không gay gắt như
trước nữa. Phong trào công nhân phát triển theo bề rộng và có xu hướng thiên về đấu
tranh nghị trường trong điều kiện cùng tồn tại hoà bình với giai cấp tư sản. Giai cấp tư
sản lợi dụng điều kiện hoàn cảnh đó để tìm mọi cách lũng đoạn phong trào công nhân.
Đó cũng là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa cơ hội ra đời và phát triển nhanh chóng
trong phong trào công nhân. Do sự phát triển của phong trào công nhân có nhiều chính
đảng của giai cấp công nhân được thành lập như ở Đức, Anh, Pháp. Các đảng ra đời
vẫn thiên về đấu tranh nghị trường. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của phong
trào công nhân và Quốc tế I được thành lập năm 1864 và kết thúc hoạt động năm
1876. Tiếp theo là Quốc tế II được thành lập năm 1889 ở Paris. Trong giai đoạn đầu
khi Ăng ghen còn sống và lãnh đạo (1889-1895) đã kiên quyết đấu tranh chống xu
hướng cải lương, thỏa hiệp, cơ hội và kiên trì bảo vệ chủ nghĩa Mác, cho nên Quốc tế
II hoạt động ổn định. Nhưng sau khi Ăng ghen mất 1895, ban lãnh đạo Quốc tế II đã
1
rơi vào tay chủ nghĩa cơ hội, các phần tử cơ hội chiếm phần lớn trong ban lãnh đạo
Quốc tế II, chúng câu kết với nhau chống lại chủ nghĩa Mác, lũng đoạn phong trào
công nhân mưu toan biến Đảng dân chủ xã hội ở Tây Âu thành các Đảng cơ hội cải


lương và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân cũng theo chiều hướng cải
lương. Điều đó làm cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị phân hoá sâu sắc
chia thành các trào lưu tư tưởng khác nhau.
Trào lưu cơ hội cánh hữu đại biểu là Bécstanh đứng đầu chúng công khai đòi
xét lại chủ nghĩa Mác một cách toàn diện. Chúng phủ nhận cách mạng vô sản, chuyên
chính vô sản, cho rằng chủ nghĩa Mác là một học thuyết giáo điều và đã lạc hậu. Thực
chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Trào lưu phái giữa đại biểu là Cauxky đây chính là chủ nghĩa cơ hội dấu mặt, họ
khoác áo chủ nghĩa Mác nhưng chống lại chủ nghĩa Mác. Tư tưởng của họ là thoả hiệp cải
lương phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Nhưng còn một phái tả do V.I.Lê nin đứng đầu
kiên trì đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
Đối với nước Nga vào cuối thế kỷ XIX dưới chế độ Nga hoàng, bước vào con
đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhất là từ năm 1881 khi Nga Hoàng bãi bỏ chế độ
nông nô đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng ở Nga, làm cho
giai cấp công nhân phát triển mạnh. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Nga diễn ra rất mạnh mẽ. Nhưng những cuộc đấu tranh đó đều bị
Nga Hoàng thẳng tay đàn áp dã man, nên các cuộc đấu tranh đó đều thất bại. Vì chưa
có lý luận soi đường và chưa có lãnh tụ chính trị lãnh đạo phong trào cách mạng. Mặc
dù vậy nhưng phong trào công nhân vẫn không ngừng phát triển, đến đầu thế kỷ XX
nước Nga đã trở thành trung tâm cách mạng của thế giới. Nhiệm vụ cách mạng xã hội
trực tiếp đặt ra ở nước Nga là phải có một chính đảng cách mạng để lãnh đạo phong
trào cách mạng.
Thực tế do ảnh hưởng của Quốc tế II và sự phát triển của phong trào công
nhân, chủ nghĩa Mác được truyền bá vào nước Nga dẫn đến một loạt các tổ chức Mác
xít ra đời. Năm 1883 nhóm “Giải phóng lao động” do Plê Kha nốp lãnh đạo được
2
thành lập ở Thuỵ sĩ, nhóm này đã tích cực dịch và truyền bá lý luận Mác vào Nga. Vai
trò tích cực của họ là tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác vào Nga để nâng cao trình độ
nhận thức giác ngộ công nhân và nhân dân lao động ở Nga và đánh một đòn mạnh và
phái “dân tuý”. Nhưng hạn chế của họ là chỉ dừng lại dịch sách và truyền bá đơn

thuần, không gắn bó với giai cấp công nhân Nga, không đả động gì đến vai trò của
giai cấp nông dân, chưa kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân.
Từ tình hình đó đặt ra cho V.I.Lê nin và những người bạn của ông là phải
truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga để tiến tới thành lập chính
đảng cách mạng ở Nga. Năm 1895 tại Pêtécbua, V.I.Lê nin đã thống nhất các tổ chức
của công nhân và lấy tên “Hội liên hiệp giải phóng giai cấp công nhân”. Đây là tổ
chức tiền thân của Đảng cách mạng dựa vào phong trào công nhân. Nhưng không
được bao lâu, tổ chức này bị Chính phủ Nga Hoàng đàn áp. V.I.Lênin và những người
lãnh đạo của Hội bị bắt đưa đi đầy ở Xibêri. Ban lãnh đạo mới của Hội được thành lập
do Máctưnốp đứng đầu, thực chất họ là phái kinh tế, quan điểm của họ đối lập hoàn
toàn với V.I.Lênin.Với đường lối chính trị sai lầm, cơ hội cải lương, chủ trương của họ
là đấu tranh kinh tế, phủ nhận đấu tranh chính trị. V.I.Lênin cho rằng phái kinh tế là
trung tâm của chính sách thoả hiệp và chủ nghĩa cơ hội. Cho nên muốn thành lập
chính đảng của giai cấp công nhân phải đánh bại phái kinh tế.
Năm 1898 một nhóm Mác xít đã tiến hành đại hội lần thứ nhất của Đảng dân
chủ xã hội Nga, tuyên bố thành lập Đảng bầu ra được ban chấp hành Trung ương,
nhưng không thông qua được cương lĩnh và điều lệ. Đại hội vừa kết thúc thì Ban chấp
hành Trung ương bị bắt. Cho nên các tổ chức Mác xít và phong trào công nhân Nga
rơi vào tình trạng dao động về tư tưởng, phân tán về tổ chức. Trong khi đó phái kinh tế
lại chiếm số đông trong các ban chấp hành ở địa phương và có tờ báo riêng để tuyên
truyền những quan điểm cơ hội, xét lại, làm cho Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga
khủng hoảng trầm trọng, phong trào công nhân phát triển theo chiều hướng cải lương,
chủ nghĩa Mác đang bị đe dọa.
3
Từ những lý do đó V.I.Lê nin đã có quan điểm dứt khoát là phải chống những
tư tưởng của chủ nghĩa cơ hội. Tư tưởng đó của V.I.Lê nin được tập trung viết trong
các tác phẩm: "Những người bạn dân ", "Làm gì?" "Một bước tiến, hai bước lùi"
1. Tư tưởng của V.I. Lê nin về chủ nghĩa cơ hội và đấu tranh chống chủ
nghĩa cơ hội
Trong các tác phẩm: "Những người bạn dân ", "Làm gì?" "Một bước tiến,

hai bước lùi" V.I.Lê nin đã đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cơ hội.
V.I.Lê nin đã chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, đặc điểm và những luận điểm xuyên tạc
phản động, phản khoa học của chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác và tiến tới thành lập một đảng kiểu mới để lãnh đạo cách mạng Nga.
Để chống lại chủ nghĩa cơ hội trước hết V.I.Lê nin đã chỉ ra bản chất của chủ
nghĩa cơ hội: "Ai không cố ý nhắm mắt lại thì không thể không thấy rằng khuynh
hướng "phê bình" mới trong chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là một hình loại mới của
chủ nghĩa cơ hội mà thôi. Và nếu xét người, không căn cứ vào bộ áo hào nhoáng họ tự
khoác cho họ hoặc vào cái tên khá kêu họ tự đặt cho họ mà căn cứ vào cách họ hành
động, vào những tư tưởng mà họ thực tế truyền bá, thì thấy rõ rằng "tự do phê bình" là
tự do của khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong Đảng dân chủ - xã hội"
1
.
V.I.Lê nin khẳng định khẩu hiệu"tự do phê bình" mà phái kinh tế giương lên là hình
thức mới của chủ nghĩa cơ hội quốc tế, khuynh hướng này hình thành vào nửa cuối thế
kỷ XIX và phát triển mạnh vào đầu thế kỷ XX trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Đó là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản. Vấn đề nguy hiểm của chủ nghĩa cơ hội là khoác áo chủ nghĩa Mác, không
công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác nhưng xuyên tạc chủ nghĩa Mác, vứt bỏ nội dung
linh hồn của chủ nghĩa Mác, nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Theo
V.I.Lê nin tư tưởng của "tự do phê bình" hoàn toàn chỉ là sự cóp nhặt sách báo tư sản
rồi làm thành "học thuyết "của mình, rằng cái gọi là "tự do phê bình" chẳng qua chỉ "là
1
Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 10-11
4
tự do biến Đảng dân chủ - xã hội thành một đảng dân chủ cải lương, là tự do đưa
những tư tưởng tư sản và những thành phần tư sản vào trong chủ nghĩa xã hội"
2
.
Thời kỳ chủ nghĩa Mác mới ra đời chưa có ảnh hưởng lớn trong xã hội thì

những người cơ hội chủ nghĩa đứng ngoài hàng ngũ những người Mác xít để công
khai chống lại chủ nghĩa Mác. Nhưng đến giai đoạn chủ nghĩa Mác đã trở thành một
hệ tư tưởng tiến bộ nhất ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong phong trào công nhân,
chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy rõ sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác đã buộc giai cấp
tư sản phải đội lốt những người Mác xít để chống chủ nghĩa Mác. Vì vậy thời kỳ này
khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa xuất hiện ngay trong hàng ngũ những người Mác xít.
Cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng Mác xít và chủ nghĩa cơ hội trong phong trào dân
chủ xã hội đã vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và trở thành vấn đề có tính chất quốc tế.
V.I.Lê nin chỉ ra: "Thật thế, ai nấy đều biết rằng trong phong trào dân chủ xã hội quốc
tế ngày nay, đã hình thành hai khuynh hướng; giữa hai khuynh hướng ấy, cuộc đấu
tranh có lúc bùng lên sáng rực như ngọn lửa chói lọi, có lúc lại dịu xuống và âm ỉ dưới
một đống tro tàn của những “nghị quyết ngừng chiến” trang nghiêm"
3
. V.I.Lê nin chỉ
ra các luận điệu phê phán chủ nghĩa Mác là "cũ kỹ", "giáo điều", chỉ là một hình thức
mới của chủ nghĩa cơ hội quốc tế. Trong các đảng dân chủ xã hội Tây Âu, trào lưu cơ
hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, hoạt động dưới chiêu bài "tự do phê bình", đó
là sự phê bình của giai cấp tư sản đối với chủ nghĩa Mác và tệ hại hơn là chúng đòi
“xét lại” chủ nghĩa Mác.
Sau khi Ăng ghen mất 1895, bọn cơ hội chủ nghĩa đứng đầu là Bécstanh đã
chủ trương biến đảng dân chủ cách mạng thành đảng dân chủ cải lương, chủ trương thi
hành cải cách xã hội. Với vai trò là lãnh tụ của chủ nghĩa cơ hội xét lại, Bécstanh đã
phủ nhận cơ sở khoa học của chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ nhận tình trạng bần hoá
của giai cấp công nhân, phủ nhận những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày
2
Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 10-11
3
Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 7-8
5

càng trầm trọng, phủ nhận lý luận đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, phủ nhận cách mạng bạo lực và chuyên chính vô sản. V.I.Lê nin chỉ ra
những quan điểm cơ hội chủ nghĩa đó của Bécstanh. Nó chẳng những chỉ là "chủ
nghĩa Bécstanh lý luận" mà đã được Minlơrăng ở Pháp biến thành chủ nghĩa Bécstanh
thực tiễn: “Minlơrăng là một ví dụ sáng tỏ về chủ nghĩa Bécstanh thực tiễn ấy”
4
.
Như vậy V.I.Lê nin đã vạch trần bản chất của chủ nghĩa cơ hội dưới khẩu
hiệu "tự do phê bình" là hình thức mới của chủ nghĩa cơ hội quốc tế. Thực chất là sự
phê bình của tư tưởng tư sản đối với chủ nghĩa Mác nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác,
đem hệ tư tưởng tư sản vào thống trị phong trào công nhân, biến các đảng dân chủ xã
hội cách mạng, thành đảng dân chủ xã hội cơ hội cải lương, hạn chế phong trào công
nhân trong khuôn khổ đấu tranh đòi những cải thiện về kinh tế, không đụng chạm đến
nền móng của chủ nghĩa tư bản, không tiến hành đấu tranh chính trị.
V.I.Lê nin đã chỉ ra chủ nghĩa cơ hội có nguồn gốc kinh tế lịch sử xã hội của
nó. V.I.Lê nin chỉ ra nó xuất hiện từ rất sớm vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ra
đời trong tổ chức của phong trào công nhân, ngay trong hàng ngũ của những người
Mác xít. Khi nói về nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội V.I.Lê nin khảng định tuyệt nhiên
không phải là ngẫu nhiên mà nó đều có nguồn gốc của nó.
Trước hết về nguồn gốc kinh tế: Đó là sự mua chuộc của giai cấp tư sản với
tầng lớp trên của giai cấp công nhân bằng hình thức siêu lợi nhuận. Đó là bộ phận
công nhân có trình độ chuyên môn, tay nghề cao, có uy tín trong tập thể công nhân
được giai cấp tư sản sử dụng giúp tư sản trong tổ chức, quản lý sản xuất, giám sát kỹ
thuật. Sau đó bị giai cấp tư sản mua chuộc, chi phối bằng lợi ích vật chất. Từ đó bị
biến chất trở thành tay sai cho giai cấp tư sản, tầng lớp công nhân quý tộc này đã tác
động làm cho chủ nghĩa cơ hội phát triển trong phong trào công nhân.
Nguồn gốc lịch sử: Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối ổn
định và hoà bình, các hình thức đấu tranh nghị trường, đấu tranh trong các câu lạc bộ
là hình thức đấu tranh phổ biến đã làm cho nhiều người lầm tưởng bản chất của giai
4

Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 9-10
6
cấp tư sản và coi đấu tranh nghị trường là hình thức duy nhất. Mặt khác do sự phát
triển hoà bình, ổn định không xảy ra mâu thuẫn xung đột giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản, lợi dụng tình hình đó giai cấp tư sản đưa những phần tử phản động vào
phong trào công nhân để lái phong trào công nhân đi theo chủ nghĩa cơ hội.
Nguồn gốc xã hội: là sự tham gia đông đảo của các thanh niên trí thức tiểu tư
sản vào Đảng dân chủ xã hội, khi chủ nghĩa Mác đã trở thành một cái "mốt" rất hấp
dẫn đối với tầng lớp thanh niên trí thức tiểu tư sản, trong khi đó họ chưa được tuyên
truyền giác ngộ chủ nghĩa Mác một cách đầy đủ, nên họ chưa từ bỏ được lập trường
giai cấp xuất thân nên dễ bị giai cấp tư sản lợi dụng lôi kéo mua chuộc. V.I.Lê nin viết
"việc tầng lớp "các viện sĩ" tham gia đông đảo vào phong trào xã hội chủ nghĩa trong
mấy năm gần đây đã đảm bảo cho chủ nghĩa Bécstanh được phổ biến nhanh chóng".
Về đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội quốc tế nói chung và phái "kinh tế ở Nga nói riêng.
V.I.Lê nin cho rằng chủ nghĩa cơ hội quốc tế được biểu hiện dưới nhiều mầu sắc,
nhiều dạng, loại khác nhau tuỳ theo đặc điểm của từng quốc gia dân tộc, nhưng chúng
giống hệt nhau về nội dung bản chất chính trị xã hội "Những biểu hiện của chủ nghĩa
cơ hội quốc tế hiện đại thay đổi tuỳ theo đặc điểm dân tộc, nhưng chủ nghĩa cơ hội thì
bất cứ ở đâu cũng giống hệt như nhau về nội dung xã hội và chính trị"
5
. Về phái "kinh
tế" ở Nga, V.I.Lê nin khẳng định chỉ là sự biến tướng của chủ nghĩa cơ hội xét lại quốc
tế, là những đồ đệ của Bécstanh ở Nga, chúng “lấy tự do phê bình và chủ nghĩa
Bécstanh làm điều kiện đoàn kết những người dân chủ xã hội Nga”. Về hình thức nó
được biểu hiện dưới dạng "chủ nghĩa kinh tế" còn về bản chất nội dung chính trị xã
hội giống hệt nhau, nó hiện nguyên hình là chủ nghĩa cơ hội xét lại của Bécstanh. Đặc
điểm nổi bật của chủ nghĩa cơ hội nói chung và phái kinh tế ở Nga nói riêng là về
nguyên tắc chúng sợ công bố công khai, sợ phê bình. V.I.Lê nin chỉ rõ "Một đặc điểm
rất kỳ lạ của "chủ nghĩa kinh tế" ở nước ta là sợ sự công bố".
Về tư tưởng lý luận chúng tầm thường hoá chủ nghĩa Mác dẫn đến bất lực và

đồng lõa với những quan điểm tư tưởng phản động "chủ nghĩa Bécstanh và phái "phê
5
Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 18
7
bình" mà phần lớn những người Mác xít hợp pháp đều lũ lượt đi theo, đã tước mất khả
năng ấy và làm bại hoại ý thức xã hội chủ nghĩa bằng cách tầm thường hoá chủ nghĩa
Mác, bằng cách truyền bá cái thuyết cho rằng những đối kháng xã hội đang giảm dần
đi, bằng cách tuyên bố rằng tư tưởng về cách mạng xã hội và chuyên chính vô sản là
phi lý".
Về quan điểm chính trị chúng chủ trương thu hẹp và hạ thấp cuộc đấu tranh
chính trị, thực chất là hạ thấp chính trị xã hội chủ nghĩa xuống trình độ công liên chủ
nghĩa, như vậy hạ thấp mục tiêu đấu tranh của phong trào công nhân, từ bỏ cách mạng
vô sản và chuyên chính vô sản V.I.Lê nin chỉ ra: Chủ nghĩa cơ hội “kéo phong trào
công nhân và cuộc đấu tranh giai cấp xuống thành một thứ chủ nghĩa công liên hẹp
hòi”
6
. Về sách lược thiếu kiên định cải lương về hình thức đấu tranh giai cấp, chỉ đấu
tranh kinh tế, không quan tâm đến đấu tranh vì mục đích chính trị, chỉ quan tâm đến
mục tiêu trước mắt bỏ mục tiêu cơ bản lâu dài, chỉ quan tâm đến quy mô tổ chức
mang tính cục bộ, tiểu tổ phường hội, nghiệp đoàn bỏ quy mô tập trung thống nhất
mang tính toàn diện, biến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân “thành một cuộc đấu
tranh “thực tế” đòi những cải cách từ từ, vụn vặt”.
Về tổ chức hạ thấp vai trò hình thức tổ chức của đảng ngang hàng với nghiệp
đoàn, phủ nhận tính tiền phong của đảng, lẫn lộn đảng với tổ chức khác của giai cấp
công nhân. Về hình thức được biểu hiện dưới nhiều bộ mặt mập mờ và ít dứt khoát, do
đó sống dai dẳng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ việc khái quát đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa cơ hội V.I.Lê nin đã chỉ ra
thực chất của chủ nghĩa cơ hội, xét lại quốc tế đó là chủ nghĩa phản động, phản cách
mạng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đang lũng đoạn phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.

Về vấn đề xây dựng Đảng, khi công kích, bài xích chủ nghĩa Mác, các lý luận
gia tư sản và những phần tử xét lại thường lớn tiếng hô hào về sự “phi tính đảng” của
lý luận. Theo họ, lý luận muốn thực sự khỏch quan, khoa học thỡ phải “phi tớnh
6
Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 21
8
đảng”, phải “đứng trên giai cấp”; nếu lý luận phản ánh địa vị và lợi ích giai cấp, trở
thành vũ khí đấu tranh giai cấp thỡ sẽ mất tính khách quan, khoa học Có thể nói, sai
lầm cơ bản của những phần tử cơ hội, xét lại là đó đối lập tuyệt đối tính đảng và tính
khoa học của lý luận, nhất là đó phủ nhận sự thống nhất biện chứng tớnh đảng với tính
khoa học của chủ nghĩa Mác.
Với quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, V.I.Lê-nin đã phê phán sâu sắc
các quan điểm duy tâm chủ quan và siêu hình của chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Người
khẳng định rằng: trong xó hội cú đối kháng giai cấp, không có thứ lý luận “phi tính
đảng”: nếu không có quan điểm gia cấp rõ ràng thì không thể luận giải khỏch quan,
khoa học cỏc hiện tượng xó hội; mong đợi một khoa học vô tư trong xó hội cú đối
kháng giai cấp là “một sự ngây thơ khờ khạo”. Người nhấn mạnh: “Chứng nào người
ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp khác, ẩn đằng sau
bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo
đức, tôn giáo, chính trị, và xó hội, thỡ trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc
nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”
7
.
V.I. Lê-nin đó vạch trần bản chất phản động được che đậy bởi những thủ
đoạn mập mờ xảo trá và bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của những phần tử cơ hội, xét lại.
Họ đó xuyờn tạc lịch sử, mưu toan tước bỏ nội dung giai cấp và tính cách mạng của
chủ nghĩa Mác nhằm đi tới phủ định học thuyết khoa học của Mác, đồng thời ra sức
biện hộ cho chủ nghĩa tư bản, phụ họa và tán dương quan điểm của các lý luận gia tư
sản về “tính hợp lý”, về “tính chất tiến bộ” của chủ nghĩa tư bản. V.I. Lê-nin coi
những luận điệu về “tính phi đảng”, “vỡ quyền lợi của mọi người”, v.v là trừu tượng,

kinh viện và điều chỉ là “những mánh khéo bịp bợm điều hoà” của chủ nghĩa cơ hội.
Người cũng chỉ rừ: “Khi núi đến đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội thì không bao giờ
được quên đặc điểm của tất cả chủ nghĩa cơ hội hiện đại trong mọi lĩnh vực là: nó
mang tính chất không rừ ràng, lờ mờ và không thể nào hiểu nổi được. Do bản chất của
mình, phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rõ ràng và dứt
7
V.I. Le-nin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va,1980,t.23,tr.57
9
khoát; bao giờ nó cũng tìm con đường trung dung, nó quanh co uốn khúc như con rắn
nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau, nó tìm cách “thoả thuận”với cả quan điểm này
lẫn quan điểm kia, vì nó quy những sự bất đồng ý kiến của mình lại thành những điều
sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành tâm và vô hại, v.v ”.
Như vậy V.I.Lê nin đã vạch trần bản chất, nguồn gốc và những đặc điểm của
chủ nghĩa cơ hội quốc tế nói chung và "phái kinh tế" ở Nga nói riêng. V.I.Lê nin đã
chỉ ra nhiệm vụ của Đảng dân chủ xã hội Nga và các đảng kiểu mới là phải đánh bại
chủ nghĩa cơ hội một cách thực sự. V.I.Lê nin khảng định:"Vấn đề đặt ra hiện nay là:
dù những đặc điểm đó của phái "phê bình và chủ nghĩa Bécstanh ở Nga thì nhiệm vụ
của những người muốn đánh đổ chủ nghĩa cơ hội một cách thật sự, chứ không phải
trên lời nói, là thế nào? Thứ nhất là phải nghĩ đến việc làm lại công tác lý luận là công
tác chỉ vừa mới bắt đầu được tiến hành trong thời kỳ chủ nghĩa Mác hợp pháp và nay
thì những nhà hoạt động bất hợp pháp lại phải đảm nhiệm lấy; không có công tác ấy
thì phong trào không thể phát triển thắng lợi được. Thứ hai là cần tiến hành đấu tranh
tích cực chống "phái phê bình" hợp pháp, nó đã làm truỵ lạc đầu óc con người đến
cùng cực. Thứ ba là phải lên tiếng mạnh mẽ chống tình trạng lộn xộn và dao động
trong phong trào thực tế, bằng cách tố cáo và bác bỏ mọi mưu đồ làm giảm giá trị, một
cách có ý thức hay không có ý thức, cương lĩnh và sách lược của chúng ta"
8
. Để có cơ
sở khoa học đánh bại chủ nghĩa cơ hội V.I.Lê nin đã đấu tranh và khẳng định vai trò
tầm quan trọng của lý luận cách mạng đối với phong trào cách mạng của giai cấp công

nhân, đối với Đảng cộng sản nói chung và Đảng dân chủ xã hội Nga nói riêng. V.I.Lê
nin khẳng định: "Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng"
9
. V.I.Lê nin chỉ ra lý luận cách mạng chính là lý luận chủ nghĩa Mác, đó là hệ
thống lý luận mang bản chất cách mạng và khoa học, nó phản ảnh lợi ích mục tiêu lý
tưởng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời chỉ ra con đường và biện
pháp cách mạng đúng đắn để giai cấp công nhân làm cách mạng vô sản tự giải phóng
8
Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 25
9
Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr30
10
mình và giải phóng toàn xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi
toàn thế giới, đó chính là thế giới quan phương pháp luận, là vũ khí của giai cấp công
nhân, là ngọn đèn chỉ lối soi đường, là điều kiện cơ bản để giác ngộ giai cấp công nhân
và chuyển hoá phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác. Về vai trò của lý luận
của chủ nghĩa Mác đối với đảng dân chủ xã hội Nga nói riêng và các đảng kiểu mới
nói chung V.I.Lê nin chỉ rõ "Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong"
10
. Để nhấn mạnh vai trò của lý
luận V.I.Lê nin đã dẫn chứng lời nhận xét của Ph.Ăng ghen về tầm quan trọng của lý
luận trong phong trào dân chủ xã hội và khảng định cuộc đấu tranh giai cấp có ba hình
thức đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế và đấu tranh lý luận, đảng cần phải nắm
vững lý luận cách mạng và phải tích cực đấu tranh trên mặt trận lý luận, có như vậy lý
luận cách mạng mới giữ vai trò vị trí thống trị toàn xã hội.
Trong khi phê phán luận điệu về “tính phi đảng” của chủ nghĩa cơ hội, V.I.
Lê-nin đồng thời yêu cầu những người mác-xít phải kiên định và công khai tính đảng
của mình. Người đó chỉ rõ: Mác và Ăng-ghen thủy chung là những người có tính

đảng; chủ nghĩa Mác là học thuyết vạch ra con đường đấu tranh để tự giải phóng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động; “điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là
ở chỗ nú làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa”. Khác hẳn về chất với các học thuyết xuất hiện trong lịch sử, học
thuyết của Mác có sự thống nhất biện chứng tính đảng với tính khoa học. Cơ sở khách
quan của sự thống nhất đó là sự phù hợp giữa lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích
của nhân dân lao động và quy luật phát triển tất yếu của xó hội. Sứ mệnh lịch sử thế
giới của giai cấp công nhân là do chính bản thân tiến trình vận động, phát triển khách
quan của lịch sử quy định. Chủ nghĩa Mác không chỉ là ý nguyện của giai cấp cụng
nhõn, mà cũn đồng thời là khát vọng của nhân loại tiến bộ; là sự kế thừa và phát triển
những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng- văn hoá của loài người. Chính vì vậy, dẫu phải
trải qua nhiều thử thách gay go với những bước thăng trầm lịch sử, chủ nghĩa Mác
10
Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 32
11
ngày càng khẳng định sức sống mãnh liệt của mình; mọi thủ đoạn công kích, bài xích
nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác đều không đủ sức thuyết phục và cuối cùng đều bị thất
bại.
Tóm lại: Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trước sự lũng đoạn
của chủ nghĩa cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói chung và
phong trào công nhân ở Nga nói riêng. Trong điều kiện đó, đòi hỏi phải đấu tranh kiên
quyết với chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, thành lập đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân. V.I.Lê nin đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trọng đại đó.
Với các tác phẩm "Những người bạn dân ", "Làm gì?" "Một bước tiến, hai bước lùi",
V.I.Lê nin đã vạch trần bản chất, nguồn gốc, đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội, chỉ ra tính
chất phản động phản cách mạng của chủ nghĩa cơ hội, khẳng định vai trò của lý luận
cách mạng, bảo vệ và phát triển học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác, chống lại
sự xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội.
2. Một số nét về chủ nghĩa cơ hội từ sau Đại chiến thế giới thứ II đến nay.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, sự phát triển nhanh của cách mạng khoa

học và công nghệ đó góp phần làm thay đổi diện mạo của hành tinh chúng ta và nhất
là trên những khu vực mà chủ nghĩa tư bản đang ngự trị. Đời sống giai cấp công nhân
đó được cải thiện tương đối, bộ mặt bóc lột của giai cấp tư sản cũng được nguỵ trang
tốt hơ. Văn minh chính trị của xã hội tư bản cũng có bước cải thiện đáng kể. Trong bối
cảnh đó, những ảo tưởng về một quá trình cải biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa
xó hội lại có điều kiện sống lại.
Trong các nước xã hội chủ nghĩa, ở Liên Xô và Đông Âu trước đây, mặc dù
các Đảng Cộng sản đó giữ được vai trò độc tôn lãnh đạo cách mạng, nhưng ở một số
nước cũng đó xuất hiện những tư tưởng cơ hội với các biểu hiện khác nhau, nhưng tựu
trung được chia làm 2 loại: chủ nghĩa cơ hội tầm thường và chủ nghĩa cơ hội chính trị.
Chủ nghĩa cơ hội tầm thường không gắn với những sai lầm trong nhận thức lý luận
nhưng lại biểu hiện khá phong phú trong cuộc sống hàng ngày. Nó được xuất hiện
dưới các dạng như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa trọng ngân, thói xu nịnh luồn cúi,
12
bon chen để mong tìm kiếm những lợi ích vật chất hay tinh thần. Kẻ cơ hội loại này
sẵn sàng bán cả danh dự, lương tâm để đạt mục đích mong muốn và do đó chúng có
thể đổi trắng thành đen, nói xấu người khác, tìm mọi cách để đề cao mình, gây mất
đoàn kết nghiêm trọng trong tập thể.
Những người cộng sản khi đó sa vào chủ nghĩa cơ hội tầm thường thì họ tự
đánh mất vai trò tiên phong của người đảng viên, làm tổn hại đến uy tín chung của
đảng trong nhân dân. Từ người cơ hội tầm thường người ta dễ trở thành người cơ hội
chính trị và dễ trở thành những kẻ phản bội sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân, phản bội chủ nghĩa Mác-Lênin một cách rất nhanh chúng. Trong thời kỳ hòa
bình và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cơ hội tầm thường xuất hiện khá phổ
biến và có nguy cơ lan rộng nếu các Đảng đo không thường xuyên đấu tranh phê bình,
củng cố phẩm chất chính trị của đội ngũ đảng viên. Chủ nghĩa cơ hội chính trị, theo
định nghĩa kinh điển thì cơ hội chính trị biểu hiện như sau:
1. Thái độ chính trị không theo một đường lối rõ rệt, không có chính kiến hẳn
hoi, có thể ngã bên này hay bên nọ để mưu lợi trước mắt.
2. Trong phong trào cộng sản, có hai khuynh hướng cơ hội:

- Cơ hội "hữu khuynh": sùng bái phong trào tự phát, từ bỏ cách mạng xã hội
chủ nghĩa, phủ nhận giai cấp công nhân giành chính quyền.
- Cơ hội "tả khuynh": là sự kết hợp hỗn tạp những phương châm cách mạng
cực đoan và phiêu lưu, dựa trên những quan niệm duy ý về sức mạnh tuyệt đối của
bạo lực cách mạng.
Cơ hội chính trị thường được rào chắn một cách kín đáo hơn và trên thực tế
đó xuất hiện với 2 dạng là chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều. Chủ nghĩa xét lại
đòi xem xột lại những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận ý nghĩa
phổ biến của học thuyết này trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống lại
cách mạng vụ sản và chuyên chính vô sản, không thừa nhận những quy luật cơ bản
của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xét lại hiện
đang gây nên tình trạng bè phái trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; có
13
đảng từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ Họ khuyến khích các đảng cộng sản và
công nhân thực hiện sự thoả hiệp với các chính quyền tư sản. Những quan điểm cách
mạng và mác-xít trước đây đều bị coi là lạc hậu, lỗi thời.
Còn chủ nghĩa giáo điều - một dạng khác của chủ nghĩa cơ hội chính trị -
cũng gây tác hại không nhỏ cho phong trào cách mạng thế giới, nó hạn chế sự phát
triển lý luận mác-xít và quá trình áp dụng một cách sáng tạo lý luận đó vào điều kiện
cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc. Những người giáo điều đó làm đông giá những quan
điểm kinh điển, đề cao những trích dẫn máy móc hơn là nghiên cứu tình hình cụ thể.
Trên thực tế, chủ nghĩa giáo điều thường xuất hiện ở những nước có nền kinh tế lạc
hậu. Người ta đó đến với chủ nghĩa Mác-Lênin từng mẩu, từng đoạn, nhưng lại chủ
quan cho rằng mình đã nắm được toàn bộ tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin mà
không cần học lại.
Những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cơ hội chính trị đương nhiên đó
gặp phải sự đấu tranh quyết liệt từ những người mác-xít chân chính. Cuộc đấu tranh
không khoan nhượng, thường xuyên chống các loại chủ nghĩa cơ hội là quy luật vận
động và phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hơn lúc nào hết,
chúng ta càng thấm thía lời dạy của Lênin: "giữa hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng xã

hội chủ nghĩa không có hệ tư tưởng trung gian nào, mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản"
11
.
Khi đó rơi vào lập trường cơ hội thì bước chuyển sang lập trường phản bội
cũng không xa. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, trong phong trào chủ nghĩa xã hội
thế giới, chủ nghĩa cơ hội hiện đại xuất hiện dưới vỏ bọc mới. Dưói danh nghĩa cải tổ,
cải cách nhưng thực chất là phủ định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, phủ định những thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực, trượt dài theo con
đường tư bản, Chúng ta không bảo thù khi thừa nhận chủ nghĩa xó hội hiện thực ở
Liên Xô trước đây so với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những nguyên tắc và tiêu chí cao
đẹp của chủ nghĩa xã hội vẫn còn một khoảng cách và nhiệm vụ của những người
11
V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến bộ, M. 1975, tr.50.
14
cách mạng là phải rút ngắn những khoảng cách đó chứ không phải là đạp đổ tất cả.
Không phải ngẫu nhiên mà đồng chí V.A.Kuptsov, Phó Chủ tịch thứ nhất Đảng Cộng
sản Liên bang Nga đó núi rằng "một kẻ cơ hội còn tồi tệ gấp trăm lần so với một kẻ
công khai" (Trích lời phát biểu của đồng chí V.A.Kuptsov khi tiếp và làm việc đoàn
cán bộ nghiên cứu của Đảng ta, ngày 22/10/1999 tại Mát-xcơ-va).
3. Ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và xây dựng,
chỉnh đốn Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
Từ những nguyên lý của V.I.Lê nin trong các tác phẩm "Những người bạn
dân ", "Một bước tiến, hai bước lùi", "Làm gì?" và các nguyên lý của học thuyết
Mác-Lê nin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng ta đã vận dụng trung
thành và sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện hoàn cảnh của cách mạng Việt
Nam, đã xây dựng Đảng ta trở thành một Đảng Mác xít chân chính, một bộ phận kiên
cường của phong trào cộng sản quốc tế. Chính vì vậy từ khi thành lập đến nay, Đảng
ta luôn khẳng định và không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của mình. Sự lãnh đạo
của Đảng là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vai trò

lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định trong lãnh đạo giành chính quyền năm 1945,
trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta phải không ngừng
đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Thường xuyên đề cao cảnh giác kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực tiễn trong việc chống những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, trong 82
năm qua, đã xây dựng Đảng ta luôn vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức. Có
được như vậy là Đảng ta thường xuyên đề cao cảnh giác đấu tranh vạch trần tư tưởng
cơ hội trong Đảng, nhằm tăng cường đoàn kết thống nhất, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với cách mạng nước ta. Nhất là những lúc Đảng lãnh đạo cách mạng
nước ta trải qua thời kỳ cách mạng phức tạp, lâu dài ở những bước ngoặt lịch sử,
15
những thời kỳ khó khăn gian khổ thường xuất hiện tư tưởng cơ hội dưới nhiều mầu
sắc, hữu khuynh, tả khuynh ở những mức độ khác nhau. Trong cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, khi cách mạng ở vào thời điểm khó khăn ác liệt, thấy kẻ thù
hùng mạnh, vũ khí tối tân đã có một số người khiếp sợ kẻ thù, dao động về chính trị,
xuất hiện tư tưởng từ bỏ đấu tranh vũ trang, có ảo tưởng về con đường thoả hiệp, trung
sống hoà bình. Từ cơ hội về chính trị, một ít người đi tới hoạt động bè phái, chống đối
tổ chức. Nhưng Đảng ta với đường lối lãnh đạo đúng đắn đã kiên quyết đấu tranh vạch
trần tư tưởng cơ hội hữu khuynh, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, lãnh
đạo cách mạng nước ta hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất
đất nước đưa nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở Việt Nam, những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội có khác so với một số
nước khác. Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân Việt
Nam lãnh đạo, ngay từ đầu đã xác định nhiệm vụ giải phóng quốc gia, dân tộc khỏi sự
nô dịch của đế quốc bên ngoài là mục tiêu chủ yếu. Nhiệm vụ trọng đại đó tự nó đó cú
sức tập hợp hết sức lớn lao. Cả dân tộc Việt Nam đồng thanh với tiếng nói truyền
thống ngàn đời chống ngoại xâm đó hướng theo ngọn cờ của Đảng để giải phóng dân

tộc. Trong quá trình đó, chủ nghĩa cơ hội quốc tế cũng khó có thể ảnh hưởng đến
phong trào của công nông nước ta. Cho nên có thể khẳng định, trong phong trào cách
mạng Việt Nam chưa có thời kỳ nào xuất hiện chủ nghĩa cơ hội với tư cách như một
lực lượng hay một phong trào có khả năng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cách
mạng. Những biểu hiện đã từng biết đến, đó là nhóm "Trốtkitst" hay nhóm "A.B" đều
bị vô hiệu hóa một cách kịp thời. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi cả nước, Đảng ta vẫn tiếp tục giữ được phẩm chất của một Đảng cách mạng chân
chính, chưa từng nghiêng nghả, kể cả trong những giai đoạn phức tạp, mất đoàn kết
nhất của phong trào cộng sản quốc tế.
Trong những năm xáo động của tình hình thế giới gần đây, trước sự sụp đổ
chủ nghĩa xó hội của Liên Xô và Đông Âu, cũng có không ít người phân vân, dao
động, thậm chí có người muốn xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xó hội mà chúng ta
16
đó lựa chọn. Tâm trạng và tư tưởng đó xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể cuối
những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Liên Xô, thành trì của hoà bình và
cách mạng thế giới đó bị sụp đổ trước sự ngỡ ngàng của hàng triệu con người. Vấn đề
đặt ra với chúng ta, đất nước ta, dân tộc ta là đi đâu? Một lần nữa trí tuệ của Đảng và ý
nguyện của cả dân tộc lại hoà làm một: xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh,
xó hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong dòng chảy của sự nghiệp đổi mới hôm
nay, đất nước ta đang hồi sinh nhanh chóng sau một thời kỳ dài chống ngoại xâm và
sẽ không có chỗ đứng cho bất cứ một lực lượng chính trị cơ hội nào.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn thẳng vào thực tế hiện nay, trong không khí vươn
lên của một quốc gia dang sống trong hòa bình và ngày càng phồn vinh, những biểu
hiện của chủ nghĩa cơ hội tầm thường có biểu hiện ngày càng nhiều hơn. Những con
người "biến dạng và tha hoá" đó không có sự liên kết rộng rãi với nhau trong một
nhóm hay một phái nào, nhưng lại đang như những hạt san, giống nhau như những
giọt nước. Bằng mọi thủ đoạn, chúng đang bám lấy cơ thể Đảng như những ký sinh
trùng có hại. Chúng cần tiền, cần chức vụ, cần mọi thứ bổng, lộc để phục vụ cho lợi
ích. Họ đang làm hại Đảng, làm hao mòn uy tín của Đảng trong nhân dân.
Điều cần thiết hiện nay là phải thẳng thắn gạt bỏ những bọn cơ hội tầm

thường đó. Chúng ta hãy nhìn lại và tham khảo nhiều bài học từ sự sụp đổ của các
Đảng Cộng sản ở Liên Xô và nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây, để quyết
định một thái độ hành động cho hôm nay với các loại cơ hội đang tồn tại trong dũng
chảy cách mạng của đất nước ta.
Chúng ta không nên đơn giản hoá coi đó chỉ là những đảng viên chưa gương
mẫu, những đảng viên trung bình, chưa đạt danh hiệu "đảng viên xuất sắc" Mà theo
tinh thần của V.I.Lênin, đó là những "kẻ thù bên trong" của cách mạng và cần phải
tiến hành một cuộc đấu tranh không khoan nhượng với chúng.
Nhất là trong những năm gần đây tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn
biến phức tạp đã và đang tác động mạnh vào cách mạng nước ta. Như cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đưa đến sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trên thế
17
giới và quá trình quốc tế hoá sâu sắc nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Chủ nghĩa
tư bản lợi dụng tình hình đó để điều chỉnh thích nghi tạm thời. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội ở Liên xô và Đông Âu đã làm cho chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng thoái trào,
các lực lượng xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đứng trước
những khó khăn thử thách to lớn. Lợi dụng tình hình đó chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng
nước ta. Bên cạnh đó Đảng ta đề ra đường lối phát triển kinh tế xã hội của đất nước là
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan
hệ quốc tế, nhất là việc phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong những điều kiện quốc tế và trong nước như vậy, đã làm xuất hiện
những tư tưởng cơ hội về chính trị biểu hiện: Quan điểm chính trị không rõ ràng, phai
nhạt lý tưởng cách mạng, không vững vàng trên những vấn đề đường lối quan điểm của
Đảng, lập trường tư tưởng giao động thiếu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, hoài nghi vai trò
lãnh đạo của Đảng, không kiên định vào những vấn đề nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì vậy để tăng cường cuộc đấu tranh đẩy lùi và khắc phục tư tưởng cơ hội
chủ nghĩa với mọi biểu hiện của nó là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách của
Đảng ta hiện nay. Do đó, Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 (lần 2) của Ban chấp

hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị và tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
đồng thời chỉ ra việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm túc trong
các tổ chức đảng, đã quyết định mở cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng. Qua
quá trình thực hiện đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần củng cố tăng
cường năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, song vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra,
chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa chặn đứng và đẩy lùi tệ quan liêu tham
nhũng, lãng phí, tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức lối sống của một bộ phận
cán bộ đảng viên. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Bên cạnh những ưu điểm, công tác xây
dựng Đảng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm chưa theo kịp đòi hỏi của tình hình mới;
18
nổi lên là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng; tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân"
12
.
"Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng. Chậm nghiên
cứu và ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước;
chậm xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị". Nghị
quyết trung ương 4 (khóa XI) của Đảng ta nhận định: "Một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số
cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực
dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy
tiện, vô nguyên tắc "
13
.
Để đấu tranh chống những tư tưởng cơ hội chủ nghĩa, chúng ta phải nắm
vững những đặc trưng cơ bản của tư tưởng cơ hội chủ nghĩa là sự giao động ngả
nghiêng về chính trị, không kiên định trên những vấn đề nguyên tắc cơ bản của chủ

nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng. Khi cách
mạng thuận lợi thì tỏ ra rất cấp tiến, khi cách mạng gặp khó khăn thì thoái lui, thoả
hiệp. Họ thường ít bộc lộ quan điểm một cách thật rõ ràng, họ che dấu bộ mặt thật,
vừa tỏ ra ủng hộ đường lối của Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lê nin, thổi phồng một
khía cạnh trong đường lối hợp với quan điểm của họ. Họ lấy danh nghĩa đổi mới tư
duy, bổ sung cụ thể hóa đường lối của Đảng, thêm chi tiết này, thêm chi tiết khác mà
thực chất là sửa cốt lõi đường lối quan điểm của Đảng ta. Những tư tưởng đó còn biểu
hiện trên lĩnh vực đạo đức lối sống một số người mang danh nghĩa Đảng cộng sản,
chiến sĩ cách mạng nhưng sống không có lý tưởng, tính toán thực dụng, tìm kiếm cơ
hội để đạt danh vọng cá nhân, hình thức bề ngoài rất cách mạng, rất nhất trí với đường
lối của Đảng, rất tin tưởng chủ nghĩa xã hội, nhưng bên trong họ sống không trung
12
ĐCSVN, VKĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr 274
13
ĐCSVN,, Nghị quyết trung ương 4 khóa XI, Nxb CTQG, H 2012
19
thực, luôn tìm mọi cách để chạy chức, chạy quyền, tạo dựng tín nhiệm có lợi cho bản
thân, sống sa hoa truỵ lạc, sa rời quần chúng.
Chính vì vậy, trước tình hình hiện nay, trong công cuộc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng chúng ta phải chú trọng khắc phục suy thoái về chính trị tư tưởng và
đạo đức lối sống cơ hội thực dụng. Chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung,
biện pháp chủ yếu sau đây:
Đối với Đảng ta luôn xây dựng chủ trương đường lối lãnh đạo cách mạng một
cách sát đúng, giữ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò tính tiền
phong gương mẫu của cán bộ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ. Nâng cao chất
lượng sinh hoạt, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình ở từng tổ chức đảng và mỗi đảng
viên. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện mơ hồ mất cảnh giác, phai nhạt mục
tiêu lý tưởng, thoái hoá biến chất, vi phạm phẩm chất đạo đức lối sống của người cán
bộ đảng viên. Đấu tranh với những hành vi vi phạm cương lĩnh, đường lối nghị quyết
của Đảng, vi phạm nguyên tắc của Đảng. Giải quyết dứt điểm việc gây mất đoàn kết

trong nội bộ Đảng, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm cho toàn
Đảng luôn thống nhất cả về lý luận và thực tiễn, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức đủ trình độ năng lực để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi.
Thường xuyên tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng một cách chủ
động kịp thời sắc bén, có tính thuyết phục cao, củng cố khối đoàn kết thống nhất chính
trị tư tưởng trên cơ sở đường lối quan điểm của Đảng. Giáo dục cho cán bộ, đảng viên
và các tầng lớp nhân dân nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, mục tiêu con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đường lối quan điểm của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, xây dựng niềm tin vào đường lối đổi mới xây dựng đất
nước của Đảng.
Kiên quyết đấu tranh đập tan các luận điệu xuyên tạc của địch, phản động
mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc chủ nghĩa
xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng, cổ vũ "dân chủ, nhân quyền tư sản". Không lúc
nào được buông lỏng cuộc đấu tranh vạch trần bản chất sai trái, nguy hại của chủ
20
nghĩa cơ hội, hữu khuynh, xét lại của chủ nghĩa giáo điều cũ và mới, của mọi biểu
hiện mơ hồ giao động về chính trị cũng như lối sống cơ hội, thực dụng. Kiên quyết
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
quan điểm của Đảng ta.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn nhằm bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mở rộng dân chủ phát huy tự
do tư tưởng, động viên mọi tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu lý luận. Giữ nghiêm
kỷ luật phát ngôn, không phát ngôn vô tổ chức, không truyền bá những quan điểm
riêng trái với cương lĩnh đường lối của Đảng.
Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân, là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Để bảo vệ Đảng, bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi tổ chức đảng và mỗi cán bộ
đảng viên phải luôn đề cao cảnh giác, phân biệt nhận rõ kẻ cơ hội để đấu tranh loại trừ
chúng ra khỏi tổ chức đảng, đảm bảo cho tổ chức đảng luôn được trong sạch vững
mạnh. Muốn vậy mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng học tập nghiên cứu lý luận

Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để có đủ trình độ lý luận, trí tuệ phân tích làm rõ
tính phản động của chủ nghĩa cơ hội. Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng không
giao động trước những luận điệu xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội. Xây dựng niềm tin
vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, niềm tin cộng sản chủ nghĩa
Kết luận
Từ bài học về sự kiên định tính đảng mác-xít của V.I. Lê-nin trong đấu tranh
chống chủ nghĩa cơ hội, soi rọi vào hiện thực cuộc sống ngày nay, chúng ta càng cảm
nhận sâu sắc vấn đề có tính nguyên tắc: nếu không kiên định tính đảng mác-xít trong
mọi hoạt động lý luận và thực tiễn, thì không chỉ mắc sai lầm về chính trị, mà còn mắc
sai lầm cả về phương diện khoa học, và do đó, không tránh khỏi bị đầu độc bởi những
thủ đoạn tinh vi, xảo trá của chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại. Với lẽ đó, trong quá
trình bảo vệ phát triển và hiện thực hóa những tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin trong thời đại ngày nay, chúng ta cần kiên định nguyên tắc tính đảng mác-xít,
21
tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa
cơ hội, xét lại hiện đại. Đây là một vấn đề có ý nghĩa cơ bản và cấp bách, đúng như lời
chỉ dẫn của V.I. Lê-nin: “Nếu không có cuộc đấu tranh quyết định và thẳng tay về mọi
mặt chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, thì không thể nói đến đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc, nói đến chủ nghĩa Mác, nói đến phong trào công nhân xã hội chủ nghĩa”
14
.
Mặt khác, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác tư tưởng, lý luận
để tạo sự thống nhất chính trị, tư tưởng và niềm tin của cán bộ, đảng viên, của quần
chúng nhân dân với nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra được cơ sở khoa học để góp
vào xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và công tác tuyên truyền, giáo dục mới
có cơ sở khoa học trong việc quán triệt đường lối, chính sách, bảo đảm cho việc tổ
chức thực hiện một cách đúng đắn và sáng tạo, đồng thời mới có cơ sở khoa học cho
cuộc đấu tranh đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, của những kẻ cơ hội dưới
mọi màu sắc.
14

V.I. Lê-nin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va,1981,t.30,tr.227
22

×