Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Các hệ thống pháp luật đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.64 KB, 17 trang )

Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

HỌ VÀ TÊN
MSSV:
LỚP:

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN HỌC: LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TÊN ĐỀ TÀI: CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐƯƠNG ĐẠI

HỌC KÌ I NĂM HỌC 2021 – 2022


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

MỤC LỤC


3

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lịch sử xã hội, loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội cơ
bản: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa (thời kỳ quá độ lên cộng sản chủ nghĩa). Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
trên đều có những đặc trưng khác nhau, phù hợp với các giai đoạn phát triển khác
nhau của xã hội loài người. Nhân loại nói chung trở lên văn minh, tiến bộ như hiện
nay là kết quả phát triển của hình thái kinh tế từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện. Tiến trình phát triển đó, sự văn minh, tiến bộ đó phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, song vai trị của hệ thống luật pháp với sự phát triển xã hội ln ln


được quan tâm, đề cao. Trên thế giới có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, mỗi
quốc gia sẽ có hệ thống pháp luật của riêng mình. Pháp luật chính là cơng cụ để giai
cấp cầm quyền lãnh đạo đất nước. Hệ thống pháp luật đảm bảo cho sự tồn tại, phát
triển của mỗi quốc gia trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống này được
các cơ quan Nhà nước ban hành, sửa đổi, bổ sung thường xuyên cho phù hợp với sự
phát triển của xã hội. Tuy vậy, nó vẫn có những hạn chế, mâu thuẫn do đó hiệu lực
của hệ thống pháp luật đơi khi chưa được phát huy cao nhất. Hạn chế này địi hỏi
các nhà lập pháp, cũng như mỗi cơng dân cần có sự nhận thức thống nhất về lý luận
của hệ thống pháp luật hiện nay để từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hoạt động
xây dựng, ban hành luật và hiệu lực, chất lượng của hệ thống pháp luật hiện nay.
Để nâng cao nhận thức cho mọi người về các hệ thống phạm pháp luật hiện
nay cả về phương diện lý luận và thực tiễn, với những kiến thức và tìm tịi của bản
thân, em trình bày tiểu luận với chủ đề : “Các hệ thống pháp luật đương đại” dưới
đây, mong rằng bài tiểu luận có thể đóng góp thêm vào hệ thống những nghiên cứu
về hệ thống pháp luật hiện nay, giúp cho mọi người có cái nhìn đúng đắn, chuẩn xác
hơn về hệ thống này, từ đó đóng góp vào cơng cuộc hồn thiện hệ thống luật pháp
của Nhà nước ta. Do vốn kiến thức cịn hạn hẹp, nên bài luận có thể cịn chưa được
hồn thiện, em rất mong các thầy cơ góp ý để em có thể hồn thiện kiến thức của
mình. Em xin chân thành cảm ơn!


4

II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Những vấn đề lý luận chung
1.1.1 Khái niệm các hệ thống pháp luật đương đại
Pháp luật là một hiện tượng phức tạp trong đời sống xã hội vì vậy cũng có rất
nhiều cách tiếp cận, định nghĩa khác nhau về pháp luật. Dù cho tiếp cận ở góc độ

nào, nói tới pháp luật là người ta nói tới một hệ thống các quy tắc xử sự mag tính
bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của nhà nước và
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Trong đời sống, các quan hệ xã hội rất đa dạng, phức tạp nhưng chúng luôn
luôn tồn tại trong một mối liên hệ nội tại, thống nhất với nhau trong một chỉnh thể.
Nhà nước đặt ra quy phạm pháp luật với tư cách là mơ hình hành vi, thể hiện ý chí
của Nhà nước để tác động vào các quan hệ xã hội đó. Vì vậy các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành cũng tồn tại trong một trật tự nhất định, tạo thành một
hệ thống. Hệ thống đó chính là hệ thống pháp luật.
Ta đưa ra định nghĩa về hệ thống pháp luật như sau: Hệ thống pháp luật là
tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được
phân thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn
bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo thẩm quyền, hình thức và thủ
tục nhất định.
“Đương đại” ở đây là nói đến hiện tại. Như vậy, các hệ thống pháp luật
đương đại là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với
nhau, được phân thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật do các Nhà nước trên thế giới ban hành hiện
nay và được việc ban hành đó được dựa theo thẩm quyền, hình thức và thủ tục nhất
định.
Thuật ngữ hệ thống pháp luật thường được hiểu là tổng thể các quy phạm
pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổ. Cũng có học thuyết mở rộng nội hàm của


5

khái niệm hệ thống pháp luật khi đặt nó trong mối quan hệ với quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ nhất định. Theo đó, hệ thống pháp luật cịn bao hàm cả các thiết chế pháp
luật của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ. Vì thế, khi trình bày về một hệ thống
pháp luật, các học giả, các nhà nghiên cứu khơng phải chỉ nói đến hệ thống quy

phạm pháp luật mà cịn nói đến cả các thiết chế pháp luật như tồ án, các cơ quan
tài phán,… Thậm chí, khái niệm hệ thống pháp luật còn được mở rộng hơn nữa bao
hàm các yếu tố khác như phạm vi điều chỉnh của pháp luật, mức độ điều chỉnh của
pháp luật, văn hố pháp luật, các thiết chế pháp lí, luật gia và các quy trình có các
hoạt động gắn liền với pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của hệ thống pháp luật đương đại
Hệ thống pháp luật hiện nay có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật hiện nay được hình thành một cách khách quan,
phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, các thành tố của hệ thống
pháp luật là do chính các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh xác lập, khơng phụ
thuộc vào ý chí của các chủ thể ban hành pháp luật.
Thứ hai, giữa các thành tố của hệ thống pháp luật đương đại ln có mối liên
hệ chặt chẽ, thống nhất và phù hợp với nhau. Có thể nói sự thống nhất nội tại là một
nguyên tắc rất quan trọng của hệ thống pháp luật, điều này biểu hiện ở sự gắn bó
hữu cơ khăng khít với nhau giữa các quy định pháp luật, các nguồn pháp luật với
nhau và với các thành tố khác của hệ thống pháp luật. Các hệ thống pháp luật vừa
đa dạng phức tạp, vừa thống nhất trong một chỉnh thể. Sự thống nhất của các hệ
thống pháp luật đương đại phải được thể hiện trong từng thành tố, giữa các thành tố
với nhau và với cả hệ thống.
Giữa các bộ phận thành tố của hệ thống pháp luật không chỉ có sự gắn bó,
liên hệ chặt chẽ với nhau, mà cịn có sự tác động qua lại lẫn nhau, phối hợp với
nhau, hỗ trợ cho nhau trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, hệ thống pháp luật khơng bất biến, tính ổn định chỉ là tương đối, nó
ln vận động thay đổi, phát triển từ thời kỳ này sang thời kỳ khác cho phù hợp với
nhu cầu điều chỉnh pháp luật và tiến trình phát triển của đất nước. Thông thường khi


6

các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... thay đổi, phát triển thì hệ thống

pháp luật cũng thay đổi, phát triển theo để đáp ứng việc điều chỉnh pháp luật đối với
các quan hệ xã hội ở mỗi thời kỳ. Do vậy, đòi hỏi các quốc gia phải thường xuyên
hoàn thiện hệ thống pháp luật để tránh hiện tượng chồng chéo, phát hiện những
thiếu sót của các hiện tượng pháp luật, kịp thời loại bỏ những quy định, những hiện
tượng khơng cịn phù họp, bổ sung, tạo lập những quy định, hiện tượng pháp luật
phù hợp, không ngừng nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ
xã hội.
Việc nghiên cứu các hệ thống pháp luật đương đại không chỉ cho phép thấy
được những thuộc tính của pháp luật, sự thống nhất nội tại, sự liên hệ ràng buộc,
các mối quan hệ chặt chẽ giữa các hiện tượng pháp luật mà cịn có điều kiện đánh
giá về tính tồn diện, đồng bộ, phù hợp của các quy định pháp luật, của nguồn pháp
luật,... Ngoài ra lý luận về các hệ thống pháp luật đương đại cịn giúp cho việc
nghiên cứu, hệ thống hố pháp luật, sắp xếp một cách khoa học, logic các quy định
pháp luật, phát hiện kịp thời những quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn,
những thiếu sót của pháp luật để loại bỏ những quy định khơng cịn phù hợp, kịp
thời bổ sung những quy định mới, nhằm tạo ra được những quy phạm pháp luật, chế
định pháp luật, ngành luật, các nguồn pháp luật hoàn thiện hơn. Một hệ thống pháp
luật hồn thiện sẽ có hiệu quả cao hơn, sẽ là nhân tố quan trọng tạo ra sự ổn định và
phát triển đất nước.
1.2. Cấu trúc và hình thức của hệ thống pháp luật đương đại
Hệ thống pháp luật là một phạm trù thể hiện cấu trúc bên trong và hình thức
biểu hiện bên ngồi của pháp luật. Cấu trúc bên trong chính là mối liên hệ bên trong
giữa các ngành luật gọi là hệ thống các ngành luật. Hình thức biểu hiện bên ngồi
đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
1.2.1. Cấu trúc bên trong của hệ thống pháp luật
Cấu trúc bên trong hay hệ thống các ngành luật là tổng thể các quy phạm
pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất và phối hợp với nhau được phân chia
thành các chế định pháp luật và các ngành luật.



7

Trước hết, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Cấu trúc của quy phạm pháp luật là
cơ cấu bên trong, là các bộ phận hợp thành quy phạm pháp luật. Cấu trúc của quy
phạm pháp luật địi hỏi phải được trình bày ngắn gọn, chặt chẽ, có sự khái quát giúp
người đọc dễ hiểu, dễ nhớ. Chính vì vậy, quy phạm pháp luật thường được trình bày
theo một cơ cấu nhất định, gồm 3 bộ phận cấu thành là giả định, quy định và chế
tài.
Tính giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên phạm vi tác động
của quy phạm pháp luật, tức là trong đó nêu rõ những hồn cảnh, điều kiện có thể
xảy ra trong cuộc sống và các cá nhân, tổ chức nào ở vào hoàn cảnh điều kiện đó
phải chịu sự chi phối của quy phạm pháp luật đó. Nội dung bộ phận giả định của
quy phạm pháp luật thường đề cập đến chủ thể, phạm vi thời gian, khơng gian,
những trường hợp, hồn cảnh, điều kiện nhất định của đời sống xã hội….Phần giả
định sẽ giúp chúng ta trả lời được câu hỏi: Ai (cá nhân, tổ chức nào)? Khi nào?
Trong hoàn cảnh, điều kiện nào?
Tính quy định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên cách xử sự mà
chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã xác định trong bộ phận giả định của quy
phạm pháp luật được phép, không được phép hoặc buộc phải thực hiện. Bộ phận
quy định của quy phạm pháp luật thường trả lời cho câu hỏi như: Được làm gì?
Khơng được làm gì? Phải làm gì? Làm như thế nào?
Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động
mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể đã không thực hiện đúng bộ phận
quy định của quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo cho hệ thống pháp luật được thực
hiện nghiêm minh. Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng
trong việc tạo ra cơ chế đảm bảo để cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trên
thực tế. Những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể
không chấp hành đúng yêu cầu của bộ phận quy định, phần lớn các biện pháp tác

động này mang tính cưỡng chế và gây ra hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm


8

pháp luật. Căn cứ vào tính chất của các biện pháp tác động và các cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp đó mà ta có thể phân chia chế tài quy phạm pháp luật
thành các loại: chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài kỷ luật.
Các quy phạm pháp luật hình thành từ ba bộ phận giả định, quy định và chế
tài trên có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau sẽ được phân chia thành các chế
định pháp luật và các ngành luật. Trong đó, chế định pháp luật là một tập hợp gồm
hai hay một số quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có tính
chất chung và liên hệ mật thiết với nhau và ngành luật là tổng hợp các chế định
pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất.
1.2.2. Hình thức bên ngồi của hệ thống pháp luật
Hình thức biểu hiện bên ngồi của hệ thống pháp luật đó là hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật. Ta có khái niệm: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật là hình thức biểu hiện mối liên hệ bên ngoài của pháp luật bằng các loại văn
bản quy phạm pháp luật có giá trị cao thấp khác nhau do các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo một trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, nhưng đều
tồn tại trong thể thống nhất.
Các văn bản quy phạm pháp luật tạo nên hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật có các đặc điểm:
– Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật là các quy phạm pháp luật
do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
– Các văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi khác nhau (luật, pháp lệnh,
nghị định,…) do Hiến pháp quy định. Giá trị pháp lý của chúng cao thấp khác nhau
do vị trí của cơ quan Nhà nước trong bộ máy nhà nước quy định.
– Các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong không gian (hiệu lực
trong phạm vi lãnh thổ), hiệu lực theo thời gian (bắt đầu có hiệu lực hay hết hiệu

lực) và hiệu lực theo nhóm người (có hiệu lực đối với nhóm người này mà khơng có
hiệu lực đối với nhóm người khác.


9

Đối với riêng hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp năm 2013, Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật gồm các văn bản có giá trị pháp lý như sau:
– Hiến pháp là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật.
– Các Đạo luật (Bộ luật) là các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban
hành để cụ thể hóa Hiến pháp. Đạo luật và Bộ luật đều là những văn bản có giá trị
pháp lý cao, chỉ đứng sau Hiến pháp.
– Nghị quyết của Quốc hội thường được ban hành để giải quyết các vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng thường mang tính chất cụ thể.
– Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giá trị pháp lý
thấp hơn các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành.
– Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước: theo Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước
ban hành lệnh để công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh; ban hành quyết định để giải
quyết các công việc thuộc thẩm quyền của mình như quyết định cho nhập quốc tịch
Việt Nam, quyết định đại xá,…
– Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của thủ tướng
Chính phủ.
– Các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
có giá trị pháp lý thấp hơn Pháp lệnh và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
– Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan
ngang bộ có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ.

– Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định,
chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
– Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị – xã hội.
– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp.


10

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải phù hợp và không được trái hoặc
mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước Trung ương,
với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên và Ủy ban nhân dân cấp trên.
– Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND các cấp.
– Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND cấp nào thì có giá trị
pháp lý trong địa hạt của cấp đó.
CHƯƠNG 2: CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
2.1. Thực tiễn các hệ thống pháp luật đương đại trên thế giới
Cộng đồng quốc tế hiện nay có hơn 239 quốc gia và mỗi đất nước đều có hệ
thống luật pháp riêng điều chỉnh hoạt động của cư dân và các mối quan hệ với bên
ngoài. Những hệ thống luật pháp đương đại có thể tập trung trong ba loại lớn là hệ
thống Dân luật, hệ thống Thông luật và hệ thống luật tôn giáo đang được nhiều
nước áp dụng. Thực tiễn cho thấy, có nhiều nước vừa theo hệ thống luật này vừa
theo hệ thống luật kia tạo nên một nền pháp luật xã hội đa dạng giữa các quốc gia,
dân tộc.
2.1.1. Hệ thống Dân luật
Hệ thống Dân luật bắt nguồn từ các đế chế La Mã, đây được xem như là
cơng trình luật pháp thành văn quan trọng đầu tiên của lịch sử con người. Khi bị
những bộ tộc Đức xâm lăng, một số quy định của luật La Mã được thay thế bằng
luật bộ tộc Đức. Vào thời Trung cổ, các nhà luật học châu Âu đã xây dựng lên
những bộ Dân luật của riêng đất nước họ dựa trên nền tảng chung là luật La Mã.

Sau một thời gian dài trì trệ vì khơng đáp ứng nhu cầu luật pháp điều chỉnh các hoạt
động thương mại trong thời kỳ Phục hưng, đến thế kỷ 16 và 17, giới luật học châu
Âu đã tập trung nỗ lực để xây dựng nền luật pháp quốc gia theo tinh thần của luật
La Mã cũ, mà theo họ không phải là do một quyền lực cao siêu nào đặt ra, mà chỉ là
những lẽ phải tự nhiên.
Hai bộ luật quốc gia có giá trị của thời này là Bộ Dân Luật Pháp năm 1804 và Bộ
Dân Luật Đức năm 1896.


11

Bộ Dân Luật Pháp do Hồng đế Napoleon chủ trì soạn thảo. Bộ luật này
phản ánh những tư tưởng của cuộc Cách mạng Pháp 1789: quyền tư hữu, tự do ký
kết hợp đồng và gia đình theo chế độ phụ hệ. Bộ Luật cũng cố ý phá vỡ chế độ
phong kiến bằng cách hạn chế diện tích đất đai mua bán, di chúc và thừa kế. Bộ
Dân Luật Pháp luôn rõ ràng, trong sáng, dễ đọc và dễ hiểu đối với tất cả mọi người.
Bên cạnh đó, các nhà soạn luật đã nhận thức rằng họ không thể nào dự liệu được
mọi khả năng xảy ra; do đó, họ chỉ đưa ra những nguyên tắc tổng quát chứ không
đưa ra những quy định cụ thể. Thứ hai, Bộ Dân luật Đức được ban hành sau Bộ luật
của Pháp sau gần một thế kỷ. Đặc điểm của bộ luật này là căn cứ chặt chẽ theo bộ
luật La Mã về tinh thần cũng như cách sắp xếp. Văn phong chính xác và kỹ thuật.
Họ cũng sáng chế ra nhiều thuật ngữ đặc biệt về pháp lý để sử dụng trong luật. Mỗi
khái niệm pháp lý đều được định nghĩa và dùng một cách nhất quán trong suốt Bộ
luật. Về kỹ thuật lập pháp, nhà làm luật luôn luôn dùng cách tham chiếu lẫn nhau
giữa các điều nên giúp cho bộ luật trở thành ngắn gọn, và là một thể thống nhất, hợp
lý. Khác với bộ Dân luật Pháp muốn trở thành một quyển cẩm nang pháp luật cho
mọi người, bộ Dân luật Đức được soạn thảo theo tinh thần sách chuyên dùng cho
giới chuyên môn.
Tuy khác nhau về văn phong và kỹ thuật lập pháp, cả hai bộ luật đều căn cứ
vào luật La Mã , nhất là phần nói về nghĩa vụ và cấu trúc của bộ luật. Cả hai cũng

dựa vào những tư tưởng chính trị và triết học giống nhau, cụ thể là hoạt động kinh
doanh tự do và quyền tự chủ của mỗi cá nhân. Từ cuối thế kỷ thứ 20, các nước theo
hệ thống Dân luật đã có nhiều thay đổi. Ví dụ khơng cịn chỉ dựa đơn thuần vào Bộ
Dân luật , mà ở các nước này, các án lệ, các văn bản dưới luật, các nghiên cứu học
lý tư pháp cũng đã được xem là những nguồn luật quan trọng.
2.1.2. Hệ thống Luật chung
Nguồn gốc của hệ thống luật này bắt đầu từ khi người Normans xâm chiếm
Anh quốc và Hoàng đế William bắt đầu tập trung quyền lực vào tay triều đình mới.
Thuật ngữ Luật chung xuất phát từ quan điểm cho rằng các tòa án do nhà vua lập ra,


12

áp dụng các tập quán chung của vương quốc, trái ngược với những tập tục luật pháp
địa phương áp dụng ở các miền, các tòa án của điền trang phong kiến.
Đặc điểm cơ bản của hệ thống Luật chung là dựa trên những phán quyết theo
tập quán của tòa án, cơ sở của luật chung là các phán quyết của tòa án, thường được
gọi là tiền lệ, đây là đặc điểm cơ bản chủ yếu để phân biệt hệ thống luật này với hệ
thống Dân luật của La Mã. Mặt hạn chế của hệ thống Luật chung trước đây là tinh
cứng rắn, kém linh hoạt, về nội dung cũng như về thủ tục, các tịa án chỉ theo đúng
những gì mà tiền lệ đã làm, nên khơng thích nghi được với những tình huống phức
tạp mới mẻ. Vì vậy, tại Anh quốc, bên cạnh các luật chung cịn có lẽ công bằng tự
nhiên được áp dụng khi luật chung không có. Sự phát triển của hệ thống Luật chung
ra khắp thế giới cũng khác với cách thức phát triển của hệ thống Dân luật, các nước
theo hệ thống Luật chung đều có mối quan hệ chính trị trực tiếp với nước Anh như
Úc, Canada và Hoa Kỳ.
Nếu so sánh giữa hai hệ thống luật, hệ thống Dân luật có nhiều ưu điểm hơn.
Hệ thống Dân luật dựa chủ yếu vào các bộ luật, tiện để nắm hiểu đối với mọi người,
nó cũng đề cập trực tiếp và chủ yếu đến tư nhân, ít liên quan đến hệ thống chính trị.
Trong lúc đó, hệ thống Luật chung là một hệ thống pha trộn giữa án lệ với văn bản,

nguyên tắc tối thượng của luật pháp lại hạn chế hoạt động của chính quyền, và thuật
ngữ pháp luật lại rất phức tạp.
2.1.3. Hệ thống Luật tơn giáo
Luật tơn giáo có nguồn gốc từ các quốc gia Tây Á. Nội dung của luật tôn
giáo được lấy từ 4 nguồn, xếp theo thứ tự quan trọng: thứ nhất là Kinh Koran, thứ
hai là Sunnah tức lời dạy của Tiên tri Muhammad, thứ ba là các bài viết của học giả
tơn giáo giải thích và rút ra các quy định từ trong kinh Koran và Sunnah, cuối cùng
là các điều được cộng đồng thừa nhận về mặt pháp lý. Đặc điểm nổi bật của luật tơn
giáo là quy định có tính chất đạo đức, ít có quy định về thương mại hoặc quan hệ
giữa các quốc gia. Mặc dù vậy, cũng có một số nguyên tắc pháp luật của hệ thống
Dân luật và hệ thống Luật chung.


13

2.2. Thực tiễn hệ thống pháp luật đương đại Việt Nam
Việt Nam chúng ta là quốc gia có lịch sử lập quốc lâu đời, song pháp luật
Việt Nam không phải là một hệ thống pháp luật riêng biệt như Dân luật, Thơng luật
hay tơn giáo luật. Trải qua hàng nghìn năm bị đô hộ bởi Trung Quốc, sau này là
Pháp, rồi trở thành một thành viên trong khối xã hội chủ nghĩa, pháp luật Việt Nam
lần lượt bị ảnh hưởng bởi pháp luật của các triều đại Trung Hoa, của Pháp, sau cùng
bị ảnh hưởng đặc biệt bởi truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ Liên
Xô.
Ngày nay, hệ thống pháp luật Việt Nam có đặc trưng của hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa kết hợp những yếu tố ngoại lai do quá trình hội nhập kinh tế với
phương Tây kể từ thời kỳ đổi mới.
2.1.1. Thành tựu của hệ thống pháp luật đương đại Việt Nam
Bước vào thời kỳ đổi mới hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta đã đảm bảo
được tính hợp pháp, hợp hiến, đảm bảo được tính khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
của đất nước. Theo đó, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành tương đối

đầy đủ, bao quát được hầu hết tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội và đổi mới không ngừng về
phương thức lãnh đạo, sự đảm bảo vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp
với Hiến pháp và pháp luật là quá trình củng cố hệ thống pháp luật nói chung và
văn bản quy phạm pháp luật nói riêng. Thực tế cho thấy, Nhà nước ta đã xây dựng
được một hệ thống pháp luật đồ sộ, góp phần vào thành tựu chung của gần 30 năm
đổi mới đất nước, phục vụ đắc lực cho sự lãnh đạo của Đảng trong việc quản lý,
điều hành của Nhà nước, hệ thống pháp luật đã góp phần rõ rệt nâng cao ý thức
trách nhiệm xã hội, ý thức pháp quyền của công dân, tạo điều kiện cho đất nước
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Nhìn chung, công tác phát huy hiệu lực hệ thống pháp luật hiện nay theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta đã kịp thời thể chế hóa đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của các cấp ủy trong việc thi hành
Luật, Pháp lệnh và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên để thực hiện chức năng,


14

nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp phù hợp với những yêu cầu
của địa phương. Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật đã ngày càng nâng cao.
Tình trạng ban hành văn bản có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên, không đúng thẩm quyền dẫn tới mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp
luật đã giảm đáng kể so với tình trạng trước đây. Hệ thống pháp luật cơ bản đã đáp
ứng được yêu cầu về hình thức theo quy định của pháp luật, khơng có tình trạng
hiểu thiếu, hiểu sai các văn bản luật đã được ban hành.
2.1.2. Hạn chế của hệ thống pháp luật đương đại Việt Nam
Thực tế cho thấy, khơng có bất cứ văn bản chính thức nào quy định tới hiệu
lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật để xác định xem văn bản nào có hiệu
lực pháp lý cao hơn hay thấp hơn trong hệ thống pháp luật nước ta. Về nguyên tắc,
văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp sẽ thống nhất, phù hợp với văn

bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn và cuối cùng phải phù hợp với
Hiến pháp. Để có một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ thì phải tuân thủ chặt
chẽ nguyên tắc trên. Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp lý nào giải quyết cho vấn đề
so sánh hiệu lực pháp lý của Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội trong hệ
thống pháp luật hiện nay
2.1.3. Giải pháp nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp luật đương đại Việt Nam
Dựa vào những thành tựu và hạn chế trong hệ thống pháp luật hiện nay, theo
quan điểm của em, chúng ta có thể thực hiện những giải pháp dưới đây để phát huy
hiệu lực như sau:
Thứ nhất, cơ quan Nhà nước phải quy định thứ bậc pháp lý của các văn bản
quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật một cách cụ thể, rõ ràng và thống nhất.
Văn bản quy phạm pháp luật nào có hiệu lực cao, văn bản quy phạm pháp luật nào
có hiệu lực thấp cần phải được xác định rõ ràng và phải tuân thủ đúng theo nguyên
tắc văn bản quy phạm pháp luật thấp phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật
cao hơn, quan trọng hơn cả là phù hợp với Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.


15

Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần phải tăng cường rà sốt
tồn bộ hệ thống pháp luật hiện hành; chủ động phát hiện và xử lý kịp thời những
văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp ra ngoài hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất. Cơ quan Nhà nước nên có quy định cụ thể về chủ thể có thẩm quyền
ban hành văn bản thực hiện thí điểm; sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, hủy bỏ văn bản quy
phạm pháp luật. Bên cạnh đó, cơng tác ban hành văn bản mới trong hệ thống pháp
luật cần liệt kê cụ thể những văn bản quy phạm pháp luật được thay thế. Văn bản
thay thế, sửa đổi, bổ sung nêu trên cần phải xác định rõ ràng tên văn bản, phần,
chương, mục, tiểu mục hay các điều, khoản của văn bản bị sửa đổi, bỏ sung, thay
thế trong hệ thống pháp luật đương đại.

Thứ ba, cơ quan soạn thảo, ban hành của Chính phủ nên hồn thiện những
quy định của pháp luật về ban hành quy định trong hệ thống pháp luật hiện nay;
khơng nên có nhiều luật quy định về vấn đề này. Việc ban hành luật hiện nay vẫn
chưa được tối ưu hóa, vẫn tồn tại sự chồng chéo trong cơng tác ban hành.
Về phía người dân, để phát huy hiệu lực của hệ thống pháp luật hiện nay, cần
phải có sự phối hợp giữa người dân và Nhà nước. Nếu luật pháp được ban ra mà
mọi người khơng có ý thức chấp hành, thì hành vi vi phạm pháp luật sẽ diễn ra
thường xuyên, xã hội sẽ mất ổn định, khơng an tồn. Trong những năm qua, người
dân đã tích cực tham gia vào cơng tác xây dựng, đóng góp các ý kiến cho hệ thống
pháp luật nói chung, có những ý kiến được đánh giá cao và có tính thực tiễn, có
những ý kiến cũng đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghi nhận để xem
xét, nghiên cứu và bổ sung thêm. Như vậy, do nhận thức đúng trách nhiệm của
mình trong các vấn đề quan trọng của quốc gia nên người dân ngày càng quan tâm
đến pháp luật; tự giác học hỏi và nghiên cứu nhằm hoàn hiện nhận thức đúng đắn
nhất đưa ra những quan điểm sáng suốt và có giá trị.
Để phát huy hiệu lực của hệ thống pháp luật một cách tốt nhất, cần phải nâng
cao ý thức pháp luật cho công dân của đất nước. Mỗi cơng dân có nhận thức cao về
pháp luật, có ý thức tự giác chấp hành luật thì hiệu lực của hệ thống pháp luật mới
phát huy được tối đa. Mỗi cơng dân cũng nên tự mình học tập, nâng cao kiến thức


16

về pháp luật cho bản thân, phục vụ cho quá trình hoạt động trong xã hội, tránh để vi
phạm pháp luật của Nhà nước.

III. KẾT LUẬN
Trên đây, ta đã phân tích chặt chẽ về các hệ thống pháp luật đương đại của
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Có thể thấy, việc xây dựng và ban hành
hệ thống pháp luật là một trong những hoạt động quan trọng của mọi quốc gia trên

thế giới. Sự đẩy mạnh của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam
trong việc phát hiện, sửa đổi, bổ sung và thay thế văn bản pháp luật đã góp phần rất
lớn vào việc phát huy hiệu lực và hoàn thiện hệ thống pháp luật đương đại Việt
Nam. Nỗ lực này giúp ích trong công tác quản lý của chủ thể quản lý, tạo ra cơ sở
tiền đề cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống
nhất, phát triển toàn diện. Hy vọng trong thời gian tới sẽ có thêm những quy định
chi tiết và cụ thể hơn nữa để các khắc phục những hạn chế, thiếu sót cịn lại của hệ
thống pháp luật hiện nay, từ đó phát huy tốt hơn vai trị và trách nhiệm của bản thân
mỗi con người để hướng tới một hệ thống luật pháp hồn chỉnh để phát huy vai trị
của luật pháp đi vào trong đời sống thực tiễn.

IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan & TS. Nguyễn Văn Năm (2021), “Giáo trình lý
luận chung về nhà nước và pháp luật” – NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
2. PGS.TS. Lê Vũ Nam (2021), “Tài liệu học tập Lý luận nhà nước và pháp luật” –
NXB ĐHQG Tp.HCM, Tp. Hồ Chí Minh;
3. Trường đại học Luật TP.HCM, “Tập bài giảng Lý luận Pháp luật”;
4. Trường đại học Luật Hà Nội, khoa Luật – ĐHQG Hà Nội, “Giáo trình Lý luận
về Nhà nước và pháp luật”;
5. Lê Mai Anh (04/08/2021), “Các hệ thống pháp luật trên thế giới? Đặc điểm của
từng hệ thống”, xem tại: (truy cập ngày 20/1/2022);


17

6. Lê Văn Dương (25/02/2021), “Hệ thống pháp luật là gì? Những điểm hạn chế
của hệ thống pháp luật Việt Nam”, xem tại: (truy cập ngày 19/01/2022);
7. Lê Minh Trường (14/05/2021), “Hệ thống pháp luật là gì ? Đặc điểm, cấu trúc,
ý nghĩa về hệ thống pháp luật”, xem tại: (truy cập ngày 20/01/2022);
8. Luật sư Hằng (07/01/2022), “Hệ thống pháp luật là gì? Sơ đồ hệ thống pháp

luật Việt Nam”, xem tại: ( truy cập ngày 19/01/2022);
9. Thích học luật (15/06/2021), “Hệ thống pháp luật – cấu trúc bên trong và hình
thức bên ngồi”, xem tại: ( truy cập ngày 19/01/2022).



×