Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Lý luận, những hạn chế và hướng hoàn thiện đảm bảo công bằng của chế độ Ưu đãi xã hội trong hệ thống pháp luật An sinh xã hội Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.59 KB, 22 trang )

Đề tài: Lý luận, những hạn chế và hướng hoàn thiện đảm bảo công bằng của
chế độ Ưu đãi xã hội trong hệ thống pháp luật An sinh xã hội Việt Nam
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước bên cạnh việc chú
trọng đẩy mạnh về kinh tế thì cần phải quan tâm giải quyết các vấn đề xã
hội, đảm bảo bình ổn xã hội trong đó chăm lo đến lực lượng lớn những
người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng, bảo vệ tổ quốc là
vấn đề cấp thiết hiện nay. Ưu đãi xã hội là một vấn đề quan trọng thu hút sự
quan tâm của Đảng và nhà nước ta, nó không những đã thể hiện trách nhiệm
của các cấp các ngành mà còn phản ánh truyền thống đạo lý cao đẹp của
nhân dân ta đối với những người có công đóng góp cho đất nước
Hiện nay vấn đề ưu đãi trợ cấp và các ưu đãi khác còn tồn tại nhiều bất cập
đòi hỏi Đảng, nhà nước mà trực tiếp là các cơ quan nhà nước thực hiện chế
độ trợ cấp phải kịp thời xử lý để đảm bảo sự công bằng trong việc chi trả trợ
cấp ưu đãi xã hội, góp phần đảm bảo sự công bằng xã hội đối với đối tượng
này. Từ thực tế đó mà em chọn đề tài này nhằm đưa ra hướng hoàn thiện,
giải pháp đảm bảo sự công bằng hơn trong chế độ Ưu đãi xã hội hiện nay.
2. Thực trạng, ý nghĩa nghiên cứu đề tài
Hiện nay, thu nhập bình quân tính theo đầu người nước ta còn thấp, hơn nữa
lại thường xuyên phải gánh chịu hậu quả hết sức khốc liệt của thiên tai, bão
lụt, hạn hán và chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực… Điều đó đã ảnh hưởng khá gay gắt đến việc thực hiện các chính sách
trong hệ thống an sinh xã hội. Vì vậy sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển xã hội trên nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội là
mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước
Khi chúng ta đánh giá đúng tình hình phát triển của mạng lưới an sinh xã
hội, các yếu tố căn bản của hệ thống, các mối quan hệ qua lại của nó, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm, xây dựng chiến lược, một cơ chế hoạt
động phù hợp, đầu tư một cách thoả đáng, cân đối và khoa học với đầu tư
phát triển kinh tế xã hội là điều rất quan trọng và cần thiết. Vấn đề trợ cấp ưu


đãi xã hội trong hệ thống an sinh xã hội là một nguồn chi ngân sách rất lớn
cho một số lượng người khá đông đảo ở Việt Nam.
Ưu đãi xã hội còn là một vấn đề quan trọng thể hiện trách nhiệm của Đảng
và nhà nước ta. Khi nghiên cứu đề tài này, một lần nữa thông qua sự tìm
hiểu, hiểu hơn về quy định của pháp luật về trợ cấp ưu đãi người có công,


em xin phép đưa ra những định hướng chung nhất cho những vấn đề đang
còn tồn tại.
3. Đối tượng nghiên cứu
Theo nghĩa rộng, người có công là những người không phân biệt tôn giáo,
giới tính, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức
lực, tài năng trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của
dân tộc. Họ là người có thành tích đóng góp hoặc những cống hiến xuất sắc
phục vụ cho lợi ích của dân tộc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận theo quy dịnh của pháp luật.
Đối tượng người có công dù tiếp cận theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì họ
đều là những người có thành tích xuất sắc đóng góp hoặc cống hiến cho đất
nước do đó họ được nhà nước đãi ngộ trên nhiều lĩnh vực khác nhau như về
y tế, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, ưu đãi về việc làm và bảo đảm việc làm…
Pháp luật ưu đãi xã hội là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về điều
kiện được hưởng ưu đãi, các lĩnh vực cụ thể được ưu đãi, các chế độ trợ cấp
cho những người có công đối với đất nước.
Từ việc phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về người có công, chỉ ra
được thực trạng, những hạn chế trong chế độ ưu đãi xã hội hiện hành, đặc
biệt là trong chế độ trợ cấp ưu đãi để từ đó chỉ ra hướng hoàn thiện và giải
pháp khắc phục các vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này em đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:

Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp,
phương pháp lịch sử, phương pháp liệt kê…
Kết cấu đề tài
Mở đầu
Nội dung
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI
1. Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội
1.1 Khái niệm ưu đãi xã hội
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đối tượng ưu đãi người có công bao gồm các
nhóm: Người tham gia cách mạng, giúp đỡ cách mạng hoặc hy sinh vì sự
nghiệp cách mạng; Người có những đóng góp tài năng, trí tuệ trong văn hoá
5.
A.
B.
C.
D.


nghệ thuật, lao động, sản xuất xây dựng và bảo vệ đất nước như: anh hùng lao
động, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân, nghệ sỹ nhân dân…
Theo nghĩa hẹp, người có công là người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng,
dân tộc, nam nữ… có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc trong thời kỳ
trước cách mạng tháng 8 năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân
tộc và bảo vệ tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận theo
quy định của pháp luật.
Như vậy, đối tượng người có công dù tiếp cận theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì
họ đều là những người có thành tích xuất sắc đóng góp hoặc cống hiến cho đất

nước do đó họ được nhà nước đãi ngộ trên nhiều lĩnh vực khác nhau như về y
tế, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, ưu đãi về việc làm và bảo đảm việc làm…
Có thể nói, ưu đãi xã hội là một vấn đề quan trọng thể hiện trách nhiệm của
Đảng và nhà nước ta. Dưới góc độ kinh tế, ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ về mặt
vật chất cũng như tinh thần của nhà nước đối với người có công. Dưới góc độ
pháp lý, ưu đãi xã hội là hệ thống các quy định của nhà nước về các hình thức,
nội dung, biện pháp chăm sóc, đãi ngộ và đảm bảo điều kiện vật chất và tinh
thần của những người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương
binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách
mạng, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, anh hùng lao
động.
1.2. Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội
Pháp luật ưu đãi xã hội là một bộ phận nằm trong hệ thống pháp luật bảo đảm
xã hội. Cùng với pháp luật về bảo hiểm xã hội và pháp luật cứu trợ xã hội thì
pháp luật ưu đãi xã hội góp phần vào việc ổn định chính trị, xây dựng và bảo vệ
đất nước. Pháp luật ưu đãi xã hội là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định
về điều kiện được hưởng ưu đãi, các lĩnh vực cụ thể được ưu đãi, các chế độ trợ
cấp cho những người có công đối với đất nước.
2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật ưu đãi
2.1. Pháp luật ưu đãi trong thời kỳ phong kiến
Đối tượng người có công trong thời kỳ phong kiến được chia làm 3 nhóm:
Nhóm vua chúa và hoàng tộc; Nhóm các bậc công thần, danh sỹ, các quan lại
và gia đình họ; Nhóm binh lính .
Việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công trong các triều đại phong kiến có
một số đặc trưng sau: Các nhà nước phong kiến đều coi trọng chính sách đối với
người có công và luôn coi đó là quốc sách. Số lượng người hưởng sự điều chỉnh
của pháp luật ưu đãi người có công khá lớn và đông đảo nhất vẫn là lực lượng


binh lính và dân binh; Sự đãi ngộ tương đối thoả đáng, cao hơn dân thường. Tuy

nhiên, có sự phân biệt về ưu đãi ( về cách thức và mức độ); Hình thức ưu đãi
khá phong phú, ban cấp ruộng đất dưới mọi hình thức như trao quyền sở hữu
vĩnh viễn, trao quyền sử dụng lâu dài hoặc có hạn định. Ngoài việc ưu đãi của
Vua, triều đình, các nhà nước phong kiến còn chú ý đến vai trò của cộng đồng
làng xã trong ưu đãi đối với người có công như cấp ruộng đất cho binh lính,
chăm lo vợ con cho người tử trận…
2.2 Pháp luật ưu đãi giai đoạn từ năm 1945 đến nay
* Giai đoạn từ 1945 đến 1954
Pháp luật giai đoạn này đưa ra khái niệm thương binh, tử sĩ; Quy định trợ cấp
hàng tháng đối với thương binh, thân nhân tử sĩ, quy định trợ cấp tạm thời, trợ
cấp đặc biệt đối với những trường hợp chưa được hưởng trợ cấp hàng tháng mà
có hoàn cảnh khó khăn; Quy định về việc huấn luyện nghề, sắp xếp việc làm,
chính sách ưu tiên chia ruộng đất, miễn giảm thuế nông nghiệp, miễn đi dân
công; Gia đình tử sĩ được nhà nước tặng “ Bằng Tổ quốc ghi ơn”; Thành lập hồ
sơ thương binh, hồ sơ tử sĩ; Tổ chức bộ máy Bộ thương binh, Cựu binh; Thành
lập mỗi khu kháng chiến một Sở thương binh - Cựu binh; thành lập trong mỗi
tỉnh một Ty thương binh - Cựu binh.
*Giai đoạn từ 1954 đến 1975:
Giai đoạn này pháp luật ưu đãi có một số đặc trưng cơ bản sau: Đối tượng
hưởng phụ cấp thương tật được mở rộng đến những dân quân, du kích đã tham
gia chiến đấu với địch, với những cảnh vệ vì chiến đấu với địch hay thừa hành
công vụ trong thời gian kháng chiến mà bị thương tật; Mức ưu đãi còn có sự
phân biệt: Thương binh được hưởng trợ cấp cao hơn dân quân, du kích, cảnh vệ,
thanh niên xung phong bị thương, mức phụ cấp thương tật khi đang công tác
thấp hơn mức phụ cấp thương tật khi về gia đình; Sửa đổi tiêu chuẩn liệt sĩ thay
tử sĩ, cấp bằng Tổ quốc ghi ơn, xây dựng các nghĩa trang liệt sĩ; Quy định việc
tổ chức học văn hoá, học nghề, tổ chức sản xuất, sắp xếp việc làm cho thương
binh, thân nhân liệt sĩ.
* Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985: Giai đoạn này pháp luật quy định bổ
sung các trường hợp ưu đãi người có công giúp đỡ cách mạng; Quy định bổ

sung đối tượng, tiêu chuẩn xác nhận thương binh, bệnh binh, liệt sĩ trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
* Giai đoạn từ năm 1985 đến nay: Quá trình phát triển pháp luật ưu đãi người
có công ngày càng được hoàn thiện đáp ứng với thời kỳ mới đặc biệt trong giai
đoạn từ năm 1985 đến nay. Pháp luật giai đoạn này đã kế thừa phát triển pháp
luật của giai đoạn trước và sửa đổi bổ sung các đối tượng được hưởng ưu đãi,


điều kiện hưởng ưu đãi, các mức trợ cấp cụ thể… Nhà nước đã ban hành Pháp
lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh,
bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng
ngày 29.8.1994 và Nghị định số 28/CP ngày 29.4.1995 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách
mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng
chiến, người có công giúp đỡ cách mạng. Đặc biệt, nhà nước ta đã ban hành
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng có hiệu lực vào ngày 1.10.2005.
Có thể nói, đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh về lĩnh vực
pháp luật ưu đãi người có công. Ngoài văn bản này, nhà nước còn ban hành rất
nhiều các Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ có liên quan như: Bộ lao
động – Thương binh xã hội, Bộ Y tế, Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ tài chính…để
điều chỉnh các vấn đề ưu đãi người có công và các vấn đề có liên quan về chăm
sóc sức khoẻ, đào tạo hỗ trợ về nhà ở, giải quyết việc làm…
II. CÁC CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI XÃ HỘI
1. CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI VỀ TRỢ CẤP
Ưu đãi trợ cấp là hình thức ưu đãi bằng tiền để giúp đỡ về đời sống cho đối
tượng hưởng ưu đãi. Mức trợ cấp ưu đãi căn cứ vào cống hiến, hy sinh và hoàn
cảnh sống thực tế của đối tượng, can đối với điều kiện kinh tế xã hội và tương
quan mức sống trung bình của cộng đồng dân cư, ngoài ra, cũng tính đến sự phù
hợp với chính sách tiền lương và trợ cấp cho các đối tượng khác.
Đây là chế độ chính trong các chế độ ưu đãi xã hội không chỉ vì nó có ý nghĩa

thiết thực đối với người được hưởng ưu đãi mà do còn được áp dụng đối với hầu
hết các đối tượng ưu đãi. Bên cạnh ý nghĩa giúp đỡ về vật chất, sự trợ cấp ưu
đãi cũng thể hiện long biết ơn, trách nhịêm và tình cảm của đảng, nhà nước và
nhân dân ta đối với người được ưu đãi.
1.1 Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng trước 01 tháng 01 năm
1945.
1.1.1 Khái niệm
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 là người được cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng trước
ngày 01 tháng 01 năm 1945.
1.1.2 Chế độ
Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01
năm 1945 theo điều 9 pháp lệnh ưu đãi người có công đã được sửa đổi bổ sung
năm 2012 bao gồm: “2. Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng
trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 bao gồm:
a) Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng;


b) Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe hàng năm; cấp phương tiện trợ
giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết;
c) Cấp tiền mua báo Nhân dân; được tạo điều kiện tham gia sinh hoạt văn hóa,
tinh thần phù hợp;
d) Được Nhà nước hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào công lao và hoàn cảnh
của từng người”
Ngoài ra theo quy định tại pháp lệnh thì người hoạt động cách mạng trước ngày
01 tháng 01 năm 1945 chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản
trợ cấp và mai táng phí; cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con được hưởng trợ cấp
tiền tuất hàng tháng theo quy định của Chính phủ.
Con của người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 được ưu
tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo

1.2 Người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến trước Tổng khởi
nghĩa 19/08/1945.
1.2.1 Khái niệm
Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng
khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 là người được cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền công nhận đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc
thoát ly hoạt động cách mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng
khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945.
1.2.2 Chế độ
Theo Điều 10 Pháp lệnh hiện hành “2. Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt
động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945 bao gồm:
a) Trợ cấp hàng tháng;
b) Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe hàng năm; cấp phương tiện trợ
giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết;
c) Cấp tiền mua báo Nhân dân; được tạo điều kiện tham gia sinh hoạt văn hóa,
tinh thần phù hợp;
d) Hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào công lao và hoàn cảnh của từng người, khả
năng của Nhà nước và địa phương.”
Khi người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng
khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 chết thì người tổ chức mai táng được hưởng
một khoản trợ cấp và mai táng phí; cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con được
hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng theo quy định của Chính phủ.
Con của người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 được ưu tiên trong tuyển sinh và tạo
việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo.


Người đã được công nhận và hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Ðiều 9 của
Pháp lệnh ưu đãi người có công thì không thuộc đối tượng áp dụng của Ðiều

này
1.3. Chế độ ưu đãi đối với liệt sĩ và gia đình liệt sĩ
1.3.1. Khái niệm liệt sĩ và gia đình liệt sỹ
Theo khoản 1 điều 11 Pháp lệnh ưu đãi người có công 2005 đã được sửa đổi bổ
sung năm 2012 thì:
“1. Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân
được Nhà nước truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a) Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
b) Trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch;
c) Hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không
chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt
ngục mà hy sinh;
d) Làm nghĩa vụ quốc tế;
đ) Đấu tranh chống tội phạm;
e) Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an
ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân;
g) Do ốm đau, tai nạn khi đang làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
h) Khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ quan
có thẩm quyền giao;
i) Trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu hoặc diễn tập phục vụ quốc
phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm;
k) Thương binh hoặc người hưởng chính sách như thương binh quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 19 của Pháp lệnh này chết vì vết thương tái phát;
I) Người mất tin, mất tích trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d,
đ, e và g khoản này”
Gia đình liệt sĩ được hiểu là những thân nhân của liệt sĩ được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cấp “ Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ” gồm vợ hoặc chồng, con,

cha mẹ đẻ, người có công nuôi liệt sĩ.
1.3.2 Chế độ ưu đãi đối với liệt sĩ và gia đình liệt sĩ
Các chế độ ưu đãi đối với thân nhân liệt sĩ đựơc quy định tại khoản 2 điều 14
Pháp lệnh này. Bao gồm các chế độ như:
“…
a) Trợ cấp tiền tuất một lần khi báo tử;
a) Trợ cấp tiền tuất hàng tháng theo các mức thân nhân của một liệt sĩ, thân
nhân của hai liệt sĩ, thân nhân của ba liệt sĩ trở lên đối với cha đẻ, mẹ đẻ, người


có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ, vợ hoặc chồng của liệt sĩ, con liệt sĩ
dưới 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc bị khuyết tật
nặng, khuyết tật đặc biệt nặng.
Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ, người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ, vợ
hoặc chồng liệt sĩ cô đơn không nơi nương tựa, con liệt sĩ mồ côi cả cha mẹ quy
định tại điểm này thì được hưởng thêm trợ cấp tiền tuất nuôi dưỡng hàng tháng;
c) Khi báo tử, liệt sĩ không còn thân nhân quy định tại khoản 1 Điều này thì
người thừa kế của liệt sĩ giữ Bằng "Tổ quốc ghi công" được hưởng khoản trợ
cấp tiền tuất một lần như đối với thân nhân liệt sĩ;
đ) Liệt sĩ không còn thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng thì
người được giao thờ cúng liệt sĩ được hưởng trợ cấp mỗi năm một lần;
đ) Thân nhân liệt sĩ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế; được ưu tiên giao hoặc
thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản xuất, miễn hoặc giảm
thuế theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ về nhà ở quy định tại khoản 4
Điều 4 của Pháp lệnh này…”
Chế độ trợ cấp ưu đãi, phụ cấp cho thân nhân liệt sỹ áp dụng theo Nghị định số
47/2012/NĐ-CP.
1.4 Chế độ ưu đãi đối với bà mẹ Việt Nam anh hùng
1.4.1 Khái niệm bà mẹ Việt Nam anh hùng
Bà mẹ Việt Nam anh hùng là những bà mẹ có nhiều cống hiến hi sinh vì sự

nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế thuộc một
trong những trường hợp sau: + Có 2 con là liệt sĩ và có chồng hoặc bản thân là
liệt sĩ + Có 2 con mà cả hai con là liệt sĩ hoặc chỉ có một con mà con đó là liệt
sĩ. + Có từ 3 con trở lên là liệt sĩ. Người con là liệt sĩ bao gồm con đẻ và con
nuôi của bà mẹ được pháp luật thừa nhận và được Chính Phủ tặng Bằng Tổ
quốc ghi công.
Bà mẹ có đủ một trong những trường hợp trên phải chịu đựng nỗi đau mất con,
mất chồng mà bị tâm thần, vẫn được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Bà mẹ có đủ một trong bốn trường hợp nêu trên có con tham gia hàng ngũ địch,
nhưng bà mẹ có thái độ chính trị tốt thì vẫn được xem xét tặng hoặc truy tặng
danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
1.4.2 Chế độ
Bà mẹ Việt Nam anh hùng được hưởng trợ cấp hàng tháng là 1983000 đồng và
phụ cấp hàng tháng là 931000 đồng. Bà mẹ Việt Nam anh hùng được hưởng trợ
cấp một lần bằng 22200000 đồng (gấp 20 lần mức chuẩn). (Theo nghị định số
47/2012/NĐ-CP)
1.5 Chế độ ưu đãi đối với anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng
lao động


1.5.1 Khái niệm
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân là người được nhà nước tuyên dương
anh hùng vì có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến
đấu. Anh hùng lao động là người có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động,
sản xuất phục vụ kháng chiến được nhà nước tuyên dương.
1.5.2 Chế độ
Các chế độ ưu đãi đối với Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng
Lao động bao gồm: Trợ cấp hàng tháng; Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi
sức khỏe; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết;Ưu tiên trong
tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo; Ưu tiên giao hoặc

thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản xuất; hỗ trợ cải thiện
nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng người, khả năng của Nhà nước và địa
phương; khi chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và
mai táng phí; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động chết
trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần.
Con của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động được ưu
tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo
1.6 Chế độ ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương
binh
1.6.1. Khái niệm
Thương binh là quân nhân, công an nhân dân do chiến đấu phục vụ chiến đấu
trong kháng chiến, bảo vệ tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế hoặc trong đấu tranh
chống tội phạm, dũng cảm làm nhiệm vụ đặc biệt khó khăn nguy hiểm vì lợi ích
của nhà nước, của nhân dân mà bị thương, mất sức lao động từ 21% trở lên và
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận thương binh, tặng
huy hiệu thương binh.
Người hưởng chính sách như thương binh là người không phải quân nhân, công
an nhân dân bị thương trong các trường hợp như thương binh mà mất sức lao
động từ 21% trở lên và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp “Giấy chứng
nhận người hưởng chính sách như thương binh”.
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh là người đã bị thương
một trong các trường hợp sau: + Chiến đấu với địch hoặc trong khi trực tiếp
phục vụ chiến đấu. + Do địch tra tấn kiên quyết đấu tranh, không chịu khuất
phục, để lại thương tích thực thể. + Dũng cảm làm những công việc cấp bách
phục vụ quốc phòng và an ninh, dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước
và nhân dân. + Làm nhiệm vụ quốc phòng và an ninh ở những vùng đặc biệt


khó khăn, gian khổ (nơi có phụ cấp lương đặc biệt mức 100%). + Làm nghĩa vụ
quốc tế.

1.6.2 Chế độ
Các chế độ ưu đãi đối với thương binh bao gồm: + Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp
hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng lao động và loại thương binh;
+ Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động;
cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào thương tật của từng
người và khả năng của Nhà nước; + Ưu tiên trong tuyển sinh, tạo việc làm; căn
cứ vào thương tật và trình độ nghề nghiệp được tạo điều kiện làm việc trong cơ
quan nhà nước, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động; ưu đãi
trong giáo dục và đào tạo; + Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước
biển, vay vốn ưu đãi để sản xuất, được miễn hoặc giảm thuế, miễn nghĩa vụ lao
động công ích theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ
vào hoàn cảnh của từng người, khả năng của Nhà nước và địa phương.
Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được Nhà nước mua
bảo hiểm y tế cho con từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi nếu
còn tiếp tục đi học hoặc bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng bảo
hiểm y tế vẫn bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên an dưỡng ở gia đình
thì người phục vụ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế và trợ cấp hàng tháng.
Khi thương binh chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp
và mai táng phí.Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên chết
do ốm đau, tai nạn thì thân nhân được trợ cấp tiền tuất theo quy định của Chính
phủ.
Con của thương binh được ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong
giáo dục và đào tạo.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh dành riêng cho thương binh, bệnh binh được Nhà
nước hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường, lớp, trang bị,
thiết bị, được miễn hoặc giảm thuế, vay vốn ưu đãi theo quy định của pháp luật.
Mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như
thương binh được hưởng theo Nghị định số 47/2012/NĐ-CP.
1.7 Chế độ ưu đãi đối với bệnh binh

1.7.1 Khái niệm
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh mà bị mất sức lao động từ
61% trở lên do một trong các trường hợp sau và được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp “Giấy chứng nhận bệnh binh”. + Do hoạt động ở chiến trường.
+ Do hoạt động ở địa bàn đặc biệt khó khăn gian khổ từ 3 năm trở lên. + Do


hoạt động ở địa bàn đặc biệt khó khăn gian khổ chưa đủ 3 năm nhưng đã có trên
10 năm phục vụ trong quân đội nhân dân, công an nhân dân. + Đã công tác
trong quân đội nhân dân, công an nhân dân đủ 15 năm.
1.7.2. Chế độ
Các chế độ ưu đãi đối với bệnh binh bao gồm: + Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp
hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng lao động; + Bảo hiểm y tế;
điều dưỡng phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động; cấp phương tiện
trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng người và
khả năng của Nhà nước; + Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển,
vay vốn ưu đãi để sản xuất, miễn hoặc giảm thuế, miễn hoặc giảm nghĩa vụ lao
động công ích theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ
vào hoàn cảnh của từng người, khả năng của Nhà nước và địa phương.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được Nhà nước mua bảo
hiểm y tế cho con từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi nếu còn
tiếp tục đi học hoặc bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng bảo hiểm y
tế vẫn bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên an dưỡng ở gia đình thì
người phục vụ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế và trợ cấp hàng tháng.
Khi bệnh binh chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp
và mai táng phí.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên chết thì thân nhân được
hưởng trợ cấp tiền tuất theo quy định của Chính phủ.
Con của bệnh binh được ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong

giáo dục và đào tạo.
Mức trợ cấp phụ cấp ưu đãi mà bệnh binh được hưởng theo quy định tại Nghị
định số 47/2012/NĐ-CP.
1.8 Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng
chiến bị địch bắt, tù đày
1.8.1. Khái niệm
Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày là
người trong thời gian ở tù không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng
chiến, không làm tay sai cho địch và được tổ chức, cơ quan có thẩm quyền công
nhận. Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù
đày được nhà nước tặng “Kỷ niệm chương”
1.8.2 Chế độ
Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng
chiến bị địch bắt tù, đày bao gồm: Tặng Kỷ niệm chương; Trợ cấp một lần; Bảo


hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ
chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng người và khả năng của Nhà
nước.
Khi người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày
chết thì người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí.
Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày có
vết thương thực thể được hương trợ cấp hàng tháng như thương binh cùng loại.
Mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi của người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng
chiến bị địch bắt, tù đày áp dụng theo quy định tại Nghị định số 47/2012/NĐCP hiện hành.
1.9 Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc,
bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế
1.9.1 Khái niệm
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa
vụ quốc tế là người tham gia kháng chiến được nhà nước tặng thưởng Huân

chương, Huy chương tổng kết thành tích kháng chiến.
1.9.2 Chế độ
Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế bao gồm: + Trợ cấp một lần; + Bảo hiểm y
tế; + Khi người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế chết thì người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí.
Mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi của đối tượng này được quy định tại nghị định hiện
hành.
1.10 Chế độ ưu đãi đối với người có công giúp đỡ cách mạng
1.10.1 Khái niệm
Người có công giúp đỡ cách mạng là người dân đã trực tiếp giúp đỡ cách mạng
trước ngày 19/08/1945 trong lúc khó khăn, nguy hiểm được nhà nước khen
thưởng với các hình thức “ kỷ niệm chương”, Tổ quốc ghi công” kèm theo Bằng
“có công với nước” hoặc “Bằng có công với cách mạng”. Người có công giúp
đõ cách mạng trong kháng chiến được nhà nước tặng thưởng “Huân chương
kháng chiến”, đã được xác nhận từ trước ngày 01/01/1995.
1.10.2 Chế độ
Theo điều 33 Pháp lệnh ưu đãi người có công ngày 29/6/2005
“1. Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi
công" hoặc Bằng "Có công với nước" và người có công giúp đỡ cách mạng
trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có
công với nước" được hưởng trợ cấp hàng tháng và các chế độ ưu đãi khác như
đối với thân nhân liệt sĩ quy định tại Pháp lệnh này.


2. Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huân chương kháng chiến và
người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Huân chương kháng
chiến được hưởng trợ cấp hàng tháng; Nhà nước mua bảo hiểm y tế; khi chết thì
người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và mai táng phí.
3. Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huy chương kháng chiến và

người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Huy chương kháng
chiến được hưởng trợ cấp một lần; Nhà nước mua bảo hiểm y tế; khi chết thì
người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí.
4. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện hưởng chế độ ưu đãi đối với người có
công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc
ghi công", Bằng "Có công với nước", Huân chương kháng chiến hoặc Huy
chương kháng chiến.
5. Người đã được công nhận và hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Điều 9,
Điều 10 hoặc Điều 30 thì không thuộc đối tượng áp dụng của Điều này”
Người có công giúp đỡ cách mạng được hưởng trợ cấp, phụ cấp ưư đãi theo quy
định tại Nghị định hiện hành
1.11. Chế độ ưu đãi đối với người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị
nhiễm chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam
1.11.1 Đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi
Những người được hưởng chế độ khi họ bị nhiễm chất độc hoá học do Mỹ sử
dụng trong chiến tranh Việt Nam gồm người bị hậu quả trực tiếp và người bị
hậu quả gián tiếp của chất độc hoá học.
Thứ nhất, người tham gia kháng chiến bị hậu quả trực tiếp của chất độc hoá học
khi tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các vùng bị Mỹ sử dụng
chất độc hoá học gồm: Cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
viên quốc phòng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; Cán bộ chiến sĩ, công
nhân viên thuộc lực lượng công an nhân dân; Công an, dân quân du kích, tự vệ
địa phương; Cán bộ, công nhân viên chức các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội cách mạng; Cán bộ
thôn ấp, xã, phường trong hệ thống Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể chính
trị - xã hội, cách mạng; Thanh niên xung phong tập trung theo Quyết định số
104/1999/ QĐ-TTg ngày 14/4/1999 của Thủ tướng Chính Phủ + Dân công hoả
tuyến.
Thứ hai, người bị hậu quả gián tiếp của chất độc hoá học bao gồm con đẻ còn
sống của những đối tượng trên.

1.11.2 Điều kiện hưởng trợ cấp
Đối với người tham gia kháng chiến phải có đủ 3 điều kiện sau: Đã tham gia
công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại vùng bị Mỹ sử dụng chất độc hoá học
(từ nam vĩ tuyến 17 trở vào) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai


đoạn từ tháng 8/1961 đến ngày 30/04/1975; Bị mắc bệnh hiểm nghèo do nhiễm
chất độc hoá học không còn khả năng lao động hoặc bị mắc bệnh do nhiễm chất
độc hoá học, bị suy giảm khả năng lao động; Chưa được hưởng trợ cấp thương
binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh.
Đối với con đẻ còn sống của người tham gia kháng chiến thuộc mức độ sau: Bị
dị dạng, dị tật nặng, không có khả năng lao động, không tự lực được trong sinh
hoạt; Bị dị dạng, dị tật, không có khả năng lao động nhưng còn tự lực được
trong sinh hoạt.
1.11.3 Chế độ hưởng trợ cấp
Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa
học theo điều 26 Pháp lệnh ưu đãi người có công 2005
Các đối tượng trên được hưởng chế độ trợ cấp, phụ cấp theo quy định tại Nghị
định hiện hành.
1.12. Chế độ ưu đãi đối với quân nhân, cán bộ, thanh niên xung phong
trong kháng chiến
1.12.1 Chế độ ưu đãi đối với quân nhân, cán bộ trong kháng chiến
Quân nhân, cán bộ trong kháng chiến là đối tượng hưởng chế độ ưu đãi trong
các trường hợp sau: Quân nhân, cán bộ của cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội hưởng lương từ
ngân sách nhà nước khi đi chiến trường B, C, K, trong thời kỳ chống Mỹ cứu
nước không có thân nhân phải trực tiếp nuôi dưỡng; Sĩ quan, cán bộ đi xây
dựng đường dây 559 trước khi có chế độ tiền lương năm 1960; Quân nhân, cán
bộ đã thoát ly được Đảng cử ở lại Miền Nam hoạt động cách mạng sau Hiệp
định Giơnevơ năm 1954 ( kể cả cán bộ đã thoát ly thuộc diện đi tập kết nhưng

do điều kiện khách quan không đi được, ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động cách
mạng.); Quân nhân, cán bộ được Đảng cử đi làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào, Cam
puchia sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954.
1.12.2 Chế độ ưu đãi đối với thanh niên xung phong trong chiến đấu
Thanh niên xung phong trong kháng chiến bao gồm các đối tượng sau: Thanh
niên xung phong tập trung tham gia kháng chiến trong thời gian từ ngày
15/7/1950 đến ngày 30/4/1975 kể cả thanh niên xung phong làm nhiệm vụ khắc
phục hậu quả chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thời kỳ 19551964, đã hoàn thành nhiệm vụ trở về gia đình hoặc đã hy sinh trong khi làm
nhiệm vụ.
Các trường hợp sau không được coi là thanh niên xung phong trong kháng
chiến: Dân công hoả tuyến, dân công thời chiến; Công nhân vận tải phục vụ
thời chiến; Người dân thực hiện nghĩa vụ lao động tại địa phương; Những thanh


niên xung phong bị kết án tù trên 5 năm; Những trường hợp tự bản thân thanh
niên xung phong gây nên bị thương hoặc chết; Thanh niên xung phong thời ký
sau 30/4/1975.
2. MỘT SỐ CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI KHÁC
2.1. Chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khoẻ
Chăm sóc sức khoẻ là một trong những nhu cầu thiết yếu và quan trọng đối với
người có công. Pháp luật quy định những người có công nếu không phải là
người hưởng lương, hưởng bảo hiểm xã hội thì được nhà nước mua bảo hiểm y
tế, bệnh viện dân y hoặc bệnh viện quân đội. Ngoài ra, nhà nước và xã hội còn
thực hiện các hoạt động khác để chăm sóc đời sống cho người có công như:
thành lập các trung tâm điều dưỡng, trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức
năng cho thương binh…
2.2 Chế độ ưu đãi về giáo dục và đào tạo
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chăm sóc đến đời sống người có công và thân
nhân của họ trên các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là chế độ ưu đãi về giáo dục
đào tạo. Pháp luật ưu đãi người có công quy định đối tượng được hưởng trợ cấp,

điều kiện hưởng trợ cấp, phụ cấp và chế độ ưu đãi cụ thể. Để tạo điều kiện hỗ
trợ về gioá dục và đào tạo, tuỳ từng đối tượng mà nhà nước có chế độ đãi ngộ
phù hợp. đối với con liệt sĩ, con thương binh, con bệnh binh và con của người
hưởng chính sách như thương binh tuỳ mức độ suy giảm khả năng lao động
được ưu tiên trong tuyển sinh và xét tốt nghiệp; được trợ cấp một lần; được
miễn các khoản đóng góp xây dựng trường, sở; được miễn, giảm học phí. Đối
với anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, thương binh, người hưởng
chính sách như thương binh, con của liệt sĩ, con của thương binh, con bệnh binh
và con người hưởng chính sách như thương binh được xếp vào nhóm ưu tiên
cao trong tuyển chọ, xét lên lớp, thi kiểm tra ở cuối năm học, chuyển giai đoạn
trong đào tạo, được trợ cấp một lần, được miễn giảm học phí… Đối với anh
hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, thương binh, người hưởng chính
sách như thương binh, con của liệt sĩ, con của người hoạt động cách mạng trước
năm 1945, con của người hoạt động cách mạng trước tháng 8 năm 1945, con
của bà mẹ Việt Nam anh hùng, con của anh hùng lực lượng vũ trang, con của
anh hùng lao động, con thương binh, con bệnh binh và con của người hưởng
chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 61% trở lên được hưởng trợ
cấp hàng tháng mức 292000 đồng/người/tháng.
III. Th ực tr ạng v à nh ững h ạn ch ế c ủa ch ế đ ộ TRỢ CẤP ƯU ĐÃI XÃ
HỘI TRONG HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI VIỆT NAM


1.

Quá trình thực hiện các chế độ trợ cấp ưu đãi trong hệ thống An sinh
xã hội ở Việt Nam
Việt Nam là nước nằm ở khu vực Đông Nam á với diện tích trên 331.000 km2,
dân số 77.686.000 người. Người có công với cách mạng theo qui định của pháp
luật khoảng 6,3 triệu người, chiếm tỷ lệ trên 8 % dân số. Từ năm 1990 trở lại
đây, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khá cao và tương đối ổn định,

đời sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên, trong đó có nhóm đối tượng
của hệ thống an sinh xã hội như người có công, người nghỉ hưu trí, người nghỉ
do mất sức lao động, người già cô đơn, người tàn tật….
Chính vì vậy ngay từ khi giành được độc lập, thiết lập nền dân chủ cộng hoà
cho tới nay, đặc biệt qua hơn 10 năm đổi mới, chúng ta đã từng bước hoàn thiện
mạng lưới an sinh xã hội, tạo môi trường pháp lý hành chính thuận lợi bằng việc
ban hành chính sách, cơ chế, giải pháp để để bảo đảm cuộc sống của các nhóm
đối tượng, đặc biệt là nhám đối tượng ưu đãi xã hội.
Trong 5 năm trở lại đây, thực hiện cam kết Hội nghị thượng đỉnh thế giới về
phát triển xã hội được tổ chức tại Copenhaghen năm 1995, Việt Nam tích cực
đẩy mạnh phát triển mạng lưới an sinh xã hội bằng việc ban hành các chính
sách, cơ chế, giải pháp và các chương trình Quốc gia nhằm “ tạo ra mạng lưới
an sinh xã hội”cho các đối tượng xã hội . Đúng như quan điểm của Chính phủ
Việt nam tại Hội nghị thế giới Côpenhaghen 1995: “Tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu… Không chờ đợi đến khi
đạt đến trình độ phát triển kinh tế cao mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, càng không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển kinh tế đơn
thuần”. Mấy năm qua chi phí cho chương trình an sinh xã hội ở Việt Nam tăng
lên từ 8.000 nghìn tỷ đồng năm 1995 lên hơn 9.300 tỷ đồng năm 1997 và
12.000 tỷ đồng năm 2001. Hơn 90% nguồn chi cho lĩnh vực này chủ yếu là lấy
từ nguồn ngân sách Trung ương, chỉ 0,9% là lấy từ nguồn ngân sách địa
phương. Do ưu tiên đặc biệt nguồn chi hỗ trợ ưu đãi người có công với cách
mạng, nguồn chi này có lẽ vẫn được bảo đảm bằng ngân sách Nhà nước trong 5
năm tới.
Chế độ trợ cấp với người có công được thực hiện từ năm 1995 theo qui định của
Pháp lệnh ưu đãi ngươì có công với cách mạng và một số văn bản pháp qui đơn
hành khác của Chính phủ. Có thể phân ra các loại trợ cấp như: Trợ cấp một lần,
trợ cấp thường xuyên hàng tháng và một số chế độ trợ cấp khác. Những chế độ
trợ cấp được qui định khá cụ thể, chi tiết, theo từng mức khác nhau cho từng
diện đối tượng. Phải khẳng định rằng chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội bước đầu phù

hợp với đặc điểm của phương thức quản lý kinh tế mới theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước và được qui định khá hợp lý, cụ thể, phù hợp với
đặc điểm của từng diện đối tượng, được điều chỉnh cùng với sự tăng trưởng của
nền kinh tế. Điều thành công nhất là chế độ trợ cấp này đã góp phần ổn đinh,
từng bước nâng cao đời sống đối tượng chính sách, hợp với lòng dân, đảm bảo
sự công bằng trong việc thụ hưởng chế độ ưu đãi của người có công trong cộng
đồng dân cư, công bằng giữa những người có công.


Chẳng hạn một chế độ trợ cấp cho đối tượng chính sách có ý nghĩa kinh tế, xã
hội, nhân văn sâu sắc như:
*. Trợ cấp hàng tháng cho người được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quí
“Bà Mẹ Việt Nam anh hùng”, trợ cấp hang tháng là 1983000 đồng và 831000
phụ cấp.
*. Mức trợ cấp hàng tháng đối với con liệt sĩ, con thương bệnh binh mất sức lao
động trên 61% trở lên đang học tại các trường cao đẳng, đại học công lập với
mức là 1110000 đồng/tháng
Điều này khẳng định sự quan tâm chăm lo của Nhà nước đối với những người
và gia đình có công với số lượng rất lớn ở Việt Nam, đặc biệt đề cao tính công
bằng, góp phần ổn định tình hình của Đất nước, góp phần thực hiện chương
trình an sinh xã hội.
2. Nh ững v ấn đ ề b ất h ợp l ý c ủa ch ế đ ộ ưu đ ãi x ã h ội h i ện h ành
“Không chờ kinh tế phát triển cao mới giải quyết các vấn đề xã hội mà ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội”. Đó là điều mà cương lĩnh xây dựng đất
nước của Đảng ta đã khẳng định.
Theo đó, ưu đãi xã hội đối với người có công với cách mạng là tình cảm, trách
nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội và phải đi liền với tiến bộ và công bằng xã
hội. Nhằm thực hiện được mục tiêu cao cả này, chế độ ưu đãi xã hội hiện nay
cần có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung để đảm bảo công bằng xã hội.

2.1. Những vấn đề bất hợp lý trong công tác xác nhận người có công,
*Chế độ ưu đãi được thực hiện sau khi hoàn thiện công tác xác nhận người có
công. Nói khác đi, công tác xác nhận bao giờ cũng đi trước để thực hiện chế độ
ưu đãi. Hiện tại, công tác xác nhận còn nhiều vấn đề bất hợp lý.
Đơn cử như việc xác nhận bệnh binh và người hoạt động kháng chiến bị nhiễm
chất độc hoá học, hai diện đối tượng này suy cho cùng họ đều là người hoạt
động kháng chiến bị bệnh tật. Tuy vậy, điều kiện xác nhận lại hoàn toàn khác
nhau, thậm chí còn có yếu tố trái ngược nhau. Tại Điều 17, Nghị định
54/2006/NĐ-CP) quy định, bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân bị mắc
bệnh thuộc một trong các trường hợp sau:
- Chiến đấu, tiễu phỉ, trừ gian, trấn áp phản cách mạng, truy bắt gián điệp, biệt
kích, tội phạm.
- Trực tiếp phục vụ chiến đấu: tải đạn, cứu thương, tải thương, đảm bảo giao
thông liên lạc, tiếp tế lương thực, thực phẩm, cứu chữa kho hàng, bảo vệ hàng
hoá khi bị địch bắn phá.
- Trong khi làm nhiệm vụ quy tập hài cốt liệt sỹ ở vùng rừng núi, hải đảo và ở
nước ngoài hoặc đã xuất ngũ dưới một năm mà bệnh cũ tái phát phải điều trị tại
bệnh viện.
- Hoạt động từ ba năm trở lên ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn. Hoạt động chưa đủ ba năm ở địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc
biệt khó khăn nhưng có đủ mười năm trở lên công tác trong quân đội nhân dân,


công an nhân dân.
- Đã có đủ mười lăm năm công tác trong quân đội nhân dân, công an nhân dân
nhưng không đủ điều kiện về tuổi đời để hưởng chế độ hưu trí. Trong thời gian
được tổ chức phân công đi làm nhiệm vụ quốc tế.
- Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng an
ninh.
- Mắc bệnh do một trong các trường hợp quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6

Điều này đã xuất ngũ nhưng chưa đủ ba năm mà bệnh cũ tái phát dẫn đến tâm
thần.
Và tiếp theo, ở Điều 18 còn qui định “Bệnh binh được hưởng trợ cấp từ ngày
Hội đồng y khoa kết luận tỷ lệ thương tật suy giảm khả năng lao động từ 61%
trở lên”. Vắn tắt, có thể nêu khái quát, bệnh binh là quân nhân, công an nhân
dân tham gia kháng chiến hoặc công tác bị ốm đau bệnh tật suy giảm khả năng
lao động từ 61% trở lên. Trong khi đó, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm
chất độc hoá học cũng là người hoạt động kháng chiến bị bệnh, tật lại không
nhất thiết phải suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà theo quy định chỉ
có 2 mức độ suy giảm khả năng lao động (từ 81% trở lên và 80% trở xuống - từ
1 đến 80%). Cụ thể Điều 22, Nghị định 54/2006/NĐ-CP quy định: “Điều kiện
để hưởng chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc
hoá học: Đã công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu từ tháng 8 năm 1961 đến 30
tháng 4 năm 1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học; Bị
mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh
do hậu quả của chất độc hoá học. Trường hợp không có vợ hoặc chồng hoặc đã
có con trước khi tham gia kháng chiến mà bị mắc bệnh suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên do hậu quả của chất độc hoá học”. Còn chế độ ưu đãi đối
với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học thì: “Trợ cấp hàng
tháng theo mức độ suy giảm khả năng lao động kể từ ngày Giám đốc Sở Lao
động – Thương binh và Xã hội ký quyết định”.
Chúng ta thấy có sự trái ngược, cũng là người hoạt động kháng chiến bị bệnh,
tật, bệnh binh phải hội đủ điều kiện suy giảm khả năng lao động 61% trở lên
còn người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học lại không phụ
thuộc vào điều kiện này!
2.2.
Mức trợ cấp còn chưa hợp lý, một số chế độ ưu đãi còn chưa đạt sự
công bằng.
2.2.1 Mức trợ cấp còn thấp chưa đáp ứng nhu cầu thiết yếu về đời sống của
người có công nếu như không có sự trợ giúp của cộng đồng

Mức trợ cấp sẽ chưa thể coi đã là ưu đãi bởi chưa đảm bảo nhu cầu tối thiểu
nhất cho bản thân, thực tế họ còn phải gánh vác việc nuôi con, phụ giúp gia
đình.
Một yếu tố khẳng định khác, là mức trợ cấp còn phụ thuộc vào chính sách tiền
lương, điều chỉnh theo mức lương tối thiểu là không hợp lý, chính sách tiền
lương tạo động lực thúc đẩy năng suất lao động , chất lượng và hiệu quả công


việc, chuyển việc phân phối bằng hiện vật là chủ y ếu sang phân phối theo giá
trị thông qua tiền lương, trong khi chính sách ưu đãi thông qua trợ cấp phải phù
hợp với tình hình kinh tế xã hội, được đảm bảo bằng ngân sách nhà nước và tính
chất xã hội hóa ngày càng cao.
2.2.2 Một số chế độ bất hợp lý chưa đạt sự công bằng còn biểu hiện cụ thể ở
chế độ ưu đãi:
Trước hết, là chế độ trợ cấp ưu đãi thường xuyên cho người có công. Theo Pháp
lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (Điều 4): Chính phủ quy định mức
trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng đối với người có công với cách mạng và
thân nhân của họ bảo đảm tương ứng với mức tiêu dùng bình quân của toàn xã
hội. Thời gian qua, với lộ trình cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp
ưu đãi người có công, Chính phủ đã ban hành các nghị định điều chỉnh chế độ
trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công. Song một điều lưu ý là chế độ trợ cấp ưu
đãi chưa tương ứng với mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội. Còn chế độ
trợ cấp ưu đãi một lần cũng tồn tại nhiều điểm bất hợp lý. Người hoạt động cách
mạng trước năm 1945, người hoạt động cách mạng từ 01/1/1945 đến trước Tổng
khởi nghĩa 19/8/1945 chết, thân nhân hưởng trợ cấp ưu đãi một lần. Trong khi
đó người hoạt động kháng chiến được khen tặng Huân, Huy chương kháng
chiến chết; người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị tù đày chết;
người có công giúp đỡ cách mạng chết và người hoạt động kháng chiến bị
nhiễm chất độc hoá học chết nay đủ điều kiện xác nhận thì thân nhân của họ lại
không được hưởng trợ cấp ưu đãi một lần.

Về chế độ người phục vụ, theo quy định hiện hành, nếu thương binh nặng, bệnh
binh, bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên sống ở gia đình thì hưởng
chế độ người phục vụ (người phục vụ được hưởng trợ cấp hàng tháng và chế độ
bảo hiểm y tế). Diện đối tượng khác, lẽ ra được hưởng chế độ này thì lại không
được thụ hưởng như Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người hoạt động kháng chiến
bị nhiễm chất độc hoá học, suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Còn chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến
bị địch bắt tù đày, theo Quyết định 104/1999/QĐ-TTg, thanh niên xung phong
hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến nếu ốm đau, bệnh tật … được hưởng
chế độ trợ cấp hàng tháng; người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến
bị địch bắt tù đày đã hưởng trợ cấp ưu đãi một lần nếu ốm đau, bệnh tật, đời
sống khó khăn, sống cô đơn… thiết nghĩ cũng cần giải quyết chế độ trợ cấp
hàng tháng cho họ.
Định hướng cơ bản và giải pháp hoàn thiện chế độ ưu đãi theo kịp
tiến độ công bằng xã hội
3.1 Trong thời gian tới cần xác định được mục tiêu và tìm ra những định
hướng cơ bản là:
Thứ nhất: cần xác định rõ mối quan hệ giữa trợ cấp ưu đãi xã hội với tình hình
kinh tế xã hội của đất nước, với khả năng đảm bảo của nguồn tài chính quốc gia.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế xã hội
IV.


tiếp tục phát triển, thu nhập bình quân tính theo đầu người sẽ dần được nâng
cao, văn hóa xã hội sẽ có những bước phát triển tiến bộ mới… Chúng ta cần
phải xác định một nguyên tắc là ưu đãi xã hội đối với người có công với cách
mạng nói chung và chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội nói riêng phải thể hiện sự đền
đáp, trân trọng những hy sinh mất mát, những cống hiến vô giá của người có
công.
Thứ hai: Cần xác định rõ căn cứ , mức trợ cấp ưu đãi xã hội. Có thể dựa trên

những căn cứ sau đây để tính trợ cấp ưu đãi xã hội:
· Mức chi phí tối thiểu cho nhu cầu cá nhân bình quân trong cả nước
· Mức thu nhập bình quân tính theo đầu người trong cả nước
· Mức sống trung bình của người dân trên cả nước
Việc đưa ra những căn cứ để tính để tính mức trợ cấp ưu đãi xã hội cần hết sức
cụ thể khách quan, hài hoà và hợp lý so với đời sống xã hội nói chung.
Thứ ba: Mức trợ cấp cho người có công phải được điều chỉnh phù hợp với tình
hình kinh tế xã hội, với đặc điểm của từng diện đối tượng và góp phần quan
trọng vào việc ổn định và nâng cao đời sống của đối tượng.
Đặc biệt ở nước ta số lượng người có công lớn, đời sống của họ còn gặp không
ít khó khăn vì vậy cần phải cải cách chế độ trợ cấp ưu đãi. Trình tự tiến hành
cần được quan tâm, phải có bước đi nhanh và phù hợp hơn. Cũng cần phải quan
tâm đến việc cải cách thể chế- chính sách ưu đãi xã hội hiện nay. Một vấn đề đặt
ra là ở một nước đặc thù, có nhiều đối tượng chính sách, có nhiều diện khác
nhau như vậy có cần thiết Nhà nước ban hành Luật ưu đãi xã hội hay không?
3.2 Giải pháp hoàn thiện chế độ ưu đãi để ngày càng đạt được sự công
bằng
Một là, hoàn thiện chế độ trợ cấp ưu đãi: Theo lộ trình cải cách tiền lương theo
đúng quy định của pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và triển khai
Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá X), trợ cấp ưu đãi
người có công tương ứng với mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội. Có
những yếu tố cần lưu ý khi thực hiện vấn đề này: ưu đãi xã hội đối với người có
công ở Việt Nam nằm trong chiến lược an sinh xã hội. An sinh xã hội được đề
cập, phổ quát từ sau Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng. Lộ trình cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có
công cũng là một trong những nội dung thực hiện chiến lược an sinh xã hội.
Mặt khác, trợ cấp ưu đãi người có công được thực hiện với nguồn ngân sách khá
lớn ( năm 2010 là gần 20.000 tỷ đồng) cho gần 1,5 triệu người hưởng thường
xuyên. Chúng ta có một sự lựa chọn là điều chỉnh trợ cấp ưu đãi xã hội tương
ứng với mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội với cách thức lấy mức tiêu

dùng bình quân toàn xã hội làm mức chuẩn thực hiện chế độ cho thân nhân liệt
sỹ. Từ mức chuẩn được tính toán điều chỉnh xoay quanh mức chuẩn. Một khi
kinh tế- xã hội phát triển, chỉ đơn thuần là tăng trưởng kinh tế ổn định thì việc
điều chỉnh trợ cấp ưu đãi xã hội sẽ thực hiện đúng lộ trình cải cách.
Hai là, công bằng trong hoạch định chính sách ưu đãi: Chế độ ưu đãi được quy


định ở Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng và Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung năm 2007. Tuy nhiên, một số chế độ ưu đãi bất hợp lý hiện nay cần phải
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp như:
Về chế độ người phục vụ: Cần bổ sung thêm đối với Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
và người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học, suy giảm khả năng
lao động từ 81% trở lên sống ở gia đình. Chế độ này tương đồng với chế độ
người phục vụ thương binh, bệnh binh sống ở gia đình.
Chế độ điều dưỡng: Cần mở rộng diện đối tượng, chẳng hạn như thương binh,
bệnh binh nặng suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên được hưởng chế độ
điều dưỡng hàng năm. Đặc biệt, diện điều dưỡng 05 năm nên duy trì 2 – 3 năm
một lần cho phù hợp điều kiện tuổi tác, sức khoẻ, đời sống người có công. Mức
trợ cấp cho công tác điều dưỡng cũng phải được điều chỉnh cho sát với đời sống
xã hội, với biến động giá cả tiêu dùng. Nội dung chế độ ưu đãi này không có gì
phức tạp, lớn lao, lạ lẫm với truyền thống đền ơn đáp nghĩa của xã hội, với nhận
thức của Nhà nước và nhân dân ta.
Ba là, công bằng trong thực thi ưu đãi xã hội: Cho đến nay, triển khai thực hiện
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với
cách mạng thì người hoạt động cách mạng trước năm 1945; người hoạt động
cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 đã mất,
nay đủ điều kiện xác nhận, thân nhân của họ được hưởng trợ cấp ưu đãi một lần.
Đảm bảo tính công bằng, đúng hơn phải công bằng khi thực thi ưu đãi xã hội thì
diện đối tượng như: người hoạt động cách mạng đã mất, người có công giúp đỡ
cách mạng đã mất, người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị tù đày

đã mất, người hoạt động cách mạng bị nhiễm chất độc hoá học đã mất… nay đủ
điều kiện xác nhận thì thân nhân của họ cũng phải được giải quyết chế độ ưu đãi
một lần. Đây là một công tác lớn về hai mặt: xác nhận và bảo đảm ngân sách để
thực hiện chế độ. Không chỉ cần với hoạt động quản lý mà còn cần phải huy
động một nguồn ngân sách lớn để thực hiện.
KẾT LUẬN
Tóm lại, trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam, ưu đãi xã hội chiếm một vị
trí rất lớn và đặc biệt. Đây là một nét đặc thù ở một đất nước có ngót 1/2 thế
kỷ kháng chiến chống xâm lược. Trong ưu đãi xã hội thì trợ cấp ưu đãi là
một vấn đề mà nhiều năm nay, Chính phủ, các nhà quản lý, cơ quan quản
lý…quan tâm. Bởi đây là một vấn đề rất quan trọng và mang ý nghĩa tri ân,
lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến
thương binh, liệt sỹ, vì họ là những người đã cống hiến xương máu, hy sinh
tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân.
Ngày nay, khi xã hội phát triển, nhưng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa không làm triệt tiêu hoặc kìm hãm tiến bộ và công bằng xã
hội. Ưu đãi xã hội được quan tâm càng góp phần làm ổn định, phát triển kinh
C.


tế xã hội, thực hiện an sinh xã hội, góp phần ổn định và ngày một nâng cao
đời sống của các đối tượng chính sách.
D.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng ngày 29 tháng 6 năm 2005;
2. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công
với cách mạng năm 2012;
3. Nghị định số 47/2012/N Đ-CP quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với

người có công với cách mạng;
4. Nghị định 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006 Hướng dẫn thi hành một số điều
của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng
5. />Posted on 07/10/2008 by Civillawinfor
TS. NGUYỄN ĐÌNH LIÊU – Thứ trưởng Bộ Lao động TBXH



×