Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.66 KB, 18 trang )

Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí
Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
Họ và tên sinh viên:
MSSV:
Lớp tín chỉ:
Giảng viên:

HÀ NỘI – 2021


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

MỤC LỤC


3

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, Người chủ trương phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
đất nước ta. Bác đã sáng suốt vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể
Việt Nam để lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa ra đường lối đúng đắn cho cách
mạng Việt Nam phát triển và thành công như thực tiễn đã chứng minh.


Trong suốt quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng
đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, làm việc theo tư tưởng của Hồ Chí Minh vì những tư
tưởng đó ln là “kim chỉ nam” dẫn lối cách mạng nước ta trong công cuộc xây dựng
và đổi mới hiện nay. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Người đã để lại nhiều di sản quý báu về việc phát triển kinh tế, đặc biệt là phát
triển kinh tế nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đất nước là rất cần thiết.
Để phát triển kinh tế đất nước, một trong những vấn đề quan trọng là xây dựng
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta
nhận thấy cần phải đẩy mạnh nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc hơn tư tưởng
kinh tế của Hồ Chí Minh để hiểu rõ hơn và vận dụng đúng đắn quan điểm, tư tưởng
của Người vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Chính sách kinh tế nhiều
thành phần đã được thực tiễn chứng minh là rất đúng đắn, phù hợp với quy luật phát
triển của đất nước ta. Những tư tưởng của Người cho đến nay vẫn mang tính đúng đắn,
nguyên giá trị, để góp phần nâng cao nhận thức của mọi người về tư tưởng phát triển
kinh tế của chủ tịch Hồ Chí Minh, em xin trình bày đề tài: “Tìm hiểu và phân tích quan
điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay”. Do sự hạn hẹp về kiến thức, có thể trong q
trình phân tích cịn những thiếu sót, hạn chế nên em rất mong các thầy cơ góp ý để em
có thể hồn thiện kiến thức của mình. Em xin chân thành cảm ơn!


4

II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ

Kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là tổng thể
các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một môi trường hợp tác và cạnh tranh. Mỗi
thành phần kinh tế tồn tại ở các hình thức tổ chức kinh tế với quy mơ và trình độ công
nghệ quyết định. Các thành phần kinh tế được thể hiện ở các hình thức tổ chức kinh
doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội trước hết chịu sự quy định của quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế nhiều thành phần cơ cấu ở nước
ta
Thành phần kinh tế là một kiểu quan hệ kinh tế được hình thành trên một hình
thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là
đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và là tất yếu khách quan bởi vì:
Thứ nhất, do đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ lịch sử
có đan xen giữa các yếu tố của xã hội cũ và xã hội mới, nền kinh tế có nhiều loại hình
sở hữu về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới
tồn tại khách quan, có quan hệ tác động qua lại, đan xen, bổ sung cho nhau, tạo nên sự
đa dạng các hình thức kinh tế và sản xuất kinh doanh. Vì vậy trong thời kỳ quá độ ở
nước ta có nhiều thành phần kinh tế.
Nguyên nhân chủ yếu của sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, trong thời kỳ
quá độ, quá trình xây dựng quan hệ sản xuất Chủ nghĩa xã hội phải dựa trên cơ sở phát
triển lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, do trình độ lực lượng sản
xuất cịn hạn chế và phân bố khơng đều nên tất yếu cịn tồn tại nhiều hình thức sở hữu
tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.


5
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào tình hình cụ thể đất nước ta và khẳng định rằng: “Con đường cách mạng Việt Nam
là tiến hành giải phóng dân tộc, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến
dần lên Chủ nghĩa xã hội”. Người chỉ rõ về thời kỳ quá độ: “Việt Nam quá độ từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa và phong kiến lên Chủ nghĩa xã hội khơng kinh
qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Tính chất của nó là cuộc đấu tranh một mất, một còn
giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư bản”. Yếu tố trên sẽ quyết định đến con đường,
hình thức của quá trình tiến lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2.1. Nền kinh tế nhiều thành phần theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rõ
trong “Hồ Chí Minh tồn tập”, nhưng rõ nhất là trong hai tác phẩm là “Thường thức
chính trị” (năm 1953) và “Báo cáo Dự thảo Hiến pháp năm 1959”. Theo đó, về cơ cấu
các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Người
cho rằng: “Có nước thì đi lên Chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xơ, có nước phải
kinh qua chế độ dân chủ mới rồi tiến lên Chủ nghĩa xã hội”. như các nước Đông Âu,
Trung Quốc, Việt Nam.
Người xác định cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta và
chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở hữu khác biệt, nhưng được cố kết lại
thành một chỉnh thể kinh tế - xã hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc biệt, khi sự
tồn tại của các thành phần kinh tế vẫn còn là một tất yếu khách quan và có vai trị nhất
định đối với sự phát triển của nền kinh tế, thì cần phải tiếp tục sử dụng, phát triển
chúng theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Người nhận định trong chế độ dân
chủ mới, có 5 loại kinh tế khác nhau:
- Kinh tế quốc doanh: thuộc Chủ nghĩa xã hội, vì là của chung nhân dân, phục
vụ lợi ích chung của xã hội. Đây là thành phần kinh tế ra đời trong chế độ dân chủ
mới, đáp ứng yêu cầu của toàn xã hội. Theo Người, kinh tế quốc doanh là “nền tảng và
sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và
nhân dân ta phải ủng hộ nó”.



6
- Kinh tế hợp tác xã: đây là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động,
Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức
- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ: Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến làm ăn, khuyến khích họ
đi vào con đường hợp tác.
- Tư bản của tư nhân (tư bản công thương): đây là thành phần kinh tế của giai
cấp tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị tư sản nước
ngoài chèn ép. Tuy nhiên, “về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản
là một tiến bộ to”. Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, dùng vốn, khoa học kỹ thuật, vì
vậy “Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh
tế quốc gia, phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân”.
- Tư bản nhà nước: là thành phần kinh tế do Nhà nước và nhà tư bản cùng góp
vốn để kinh doanh, Nhà nước lãnh đạo. Tư bản của tư nhân là tư bản chủ nghĩa còn tư
bản của Nhà nước là xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt thời kỳ quá độ, 5 thành phần kinh tế trên luôn tồn tại khách quan với
nhau. Vì vậy, cần phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển nền sản xuất
xã hội mà không sợ khuynh hướng phát triển tự phát theo chủ nghĩa tư bản của các
thành phần kinh tế không phải xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo quan điểm của Người
Đảng và Nhà nước ta đã khái quát chính sách phát triển đất nước theo thư tưởng
Hồ Chí Minh, đó là: “Cơng tư đều lợi – Chủ thợ đều lợi – Công nông giúp nhau – Lưu
thông trong ngồi”. Theo Người: “Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế
của nước ta”. Dưới đây là tư tưởng sáng suốt về bốn nguyên tắc trên:
Thứ nhất, nguyên tắc công tư đều lợi: “Kinh tế quốc doanh chính là cơng. Nó là
nền tảng và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới. Tư là những nhà tư bản dân tộc
và kinh tế cá nhân của nơng dân và thủ cơng nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho
cuộc xây dựng kinh tế nhà nước. Cho nên, Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ
phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số

nhân dân.”


7
Thứ hai, nguyên tắc chủ thợ đều lợi: “Nhà tư bản khơng khỏi bóc lột nhưng
Chính phủ bảo vệ quyền lợi của cơng nhân, ngăn cấm họ bóc lột cơng nhân q tay.
Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, thợ cũng không yêu cầu quá mức, để cho chủ được số lợi
hợp lý. Chủ và thợ đều tự giác, tự động, tăng gia sản xuất lơi cả đôi bên.”
Thứ ba, nguyên tắc công nông giúp nhau. Người nêu rõ cần có sự kết hợp chặt
chẽ của hai nền nơng nghiệp và công nghiệp để tăng hiệu quả lao động, tăng năng suất
bởi vì cơng nhân ra sức sản xuất nơng cụ và các thứ cần dùng khác để cung cấp cho
nông dân, nông dân ra sức tăng gia sản xuất để cung cấp lương thực và các thứ nguyên
liệu cho cơng nhân.
Cuối cùng, ngun tắc lưu thơng trong ngồi. Người chỉ ra đất nước cần phải
phát triển thị trường trong nước cũng như đẩy mạnhh hợp tác quốc tế, đẩy mạnh
thương mại, kinh doanh bn bán với nước ngồi.
Khi Hồ chủ tịch nêu quan điểm “công tư đều lợi”, “chủ thợ đều lợi” trong thời
kỳ quá độ và khi nhấn mạnh vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, Người vẫn
khẳng định rằng, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể “là lực lượng cần
thiết cho xây dựng kinh tế nhà nước”.
1.2.3. Chính sách để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo quan điểm của
Người
Mục tiêu xuyên suốt của đất nước ta là xóa bỏ các hình thức khơng xã hội chủ
nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế
thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Để đi đến mục tiêu này, chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra phương châm sau:
Thứ nhất, với kinh tế quốc doanh: phải phát triển để tạo ra nền tảng vật chất cho
chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo Xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh sẽ đáp
ứng nhu cầu to lớn và quan trọng của đất nước, trong quá khứ là của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược. Giữ vai trò chủ đạo, nó là một cơng cụ có sức mạnh

vật chất mang tính quyết định để Nhà nước điều tiết vầ hướng dẫn nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần phát triển theo hướng Xã hội chủ nghĩa. Cụ thể hiện nay, kinh tế
quốc doanh ngày càng thể hiện được rõ vai trị điều tiết nền kinh tế của đất nước, ngồi
ra cũng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác ở Việt Nam có cơ hội phát triển
và mơi trường cạnh tranh từng bước được trong sạch, lành mạnh hơn.


8
Thứ hai, với kinh tế hợp tác xã: cần phải đặc biệt khuyếnh khích, giúp đỡ và
hướng dẫn để nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên
tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gị ép và hình
thức. Kinh tế hợp tác xã sẽ đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Bên cạnh đó, nó cũng giữ vai trị nền tảng đối với nền kinh tế non trẻ của
nước ta. Hiện nay, thành phần kinh tế này đang được cải thiện cả về cách thức lẫn
phương thức hoạt động để có thể phù hợp với cơ chế thị trường cũng như gia tăng sản
xuất. Đồng thời, kinh tế hợp tác xã cũng được liên doanh với nhiều thành phần kinh tế
khác, tạo nên sự phát triển đồng đều, hài hòa và bền vững.
Thứ ba, đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác: Nhà nước
cần tạo được việc làm cho người lao động với lượng vốn rất ít và bảo hộ quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn,
khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện. Bên cạnh đó,
có thể kết hợp kinh tế cá thể với hợp tác xã để tận dụng được các nguồn vốn trong xã
hội, tạo công ăn việc làm, giải quyết được các nhu cầu việc làm, huy động các nguồn
lực nhàn rỗi trong nhân dân.
Thứ tư, đối với kinh tế tư bản cơng thương: vì đây là thành phần kinh tế nắm
tiềm năng rất lớn về vốn, kỹ thuật, cơng nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý nên có
vai trị lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập
quốc dân và nâng cao đời sống. Kinh tế tư bản công thương góp phần đẩy nhanh hiện
đại hóa – cơng nghiệp hóa của đất nước thông qua việc nâng cao tỉ lệ tích lũy và đầu
tư, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế, tăng sức cạnh tranh bà tạo

động lực thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ để hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước
khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức
hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch
kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo
Chủ nghĩa xã hội bằng hình thức cơng tư hợp doanh và những hình thức cảo tạo.
Cuối cùng, đối với thành phần kinh tế tư bản Nhà nước: Nhà nước cần hùn vốn
với tư nhân để kinh doanh, và do Nhà nước lãnh đạo. Đây là nấc thang, bước trung
gian để một nước đang phát triển như chúng ta bước lên Chủ nghĩa xã hội. Văn kiện
Đại hội X (năm 2006) nhất quán: “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng


9
vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường
và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”. Kinh tế nhà nước đóng
vai trị hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những bất cập của cơ chế thị trường và
là “công cụ” để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân cùng
với sự phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.

CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Quan điểm về vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần của Đảnh Cộng sản Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta trong từng giai
đoạn cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi và kiến thiết đất nước thành
công. Ngày nay, điều kiện trong nước và thế giới đã có những biến đổi sâu sắc nhưng
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về kinh tế của Hồ Chí Minh nói riêng
vẫn có ý nghĩa lớn lao. Trong giai đoạn đất nước ta đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện

đại hóa đất nước gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, hội nhập vào nền kinh tế thế
giới thì việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là hết sức cần thiết.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đã tạo ra cơ cấu kinh tế mới, sự phân
công lao động mới, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong khi chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế tạo ra năng suất lao động cao, cải thiện căn bản đời sống vật chẩt và
văn hóa tồn xã hội.
Những thành tựu quan trọng về kinh tế đạt được trong công cuộc đổi mới đất
nước đã chứng tỏ nhận thức và tổ chức thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần là hồn
tồn đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Phát triển kinh tế cần đi trước
một bước và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Phát triển kinh tế là tiền đề, cơ sở cho sự phát triển văn hóa nhằm xóa bỏ nghèo
nàn và lạc hậu. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng


10
xã hội. Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực cho tăng cường kinh tế, ổn
định. Theo đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm 2020,
Đảng ta đã xác định 5 quan điểm lớn sau:
- Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu
cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
- Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam Xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
- Phát triển lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, cơng nghệ ngày càng cao;
đồng thời hồn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa.
- Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng.

2.2. Thực tiễn Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển kinh tế
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng đó trở thành vô giá, cơ
sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa của
Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp, và bước đi
lên Chủ nghĩa xã hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời
đại hiện nay.
Trong công cuộc khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng
định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Trong đó, tư tưởng của Người về
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã soi
sáng đường lối xây dựng và phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới.
Trong suốt các kì Đại hội Đảng từ khi đổi mới Đại hội VI, VII, IX và XI trong
“Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020” và “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội” thông qua năm 1991, chỉnh sửa năm 2011,


11
đều khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trong thời kỳ đổi mới là “Phát triển
một nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này
được cụ thể hóa và hồn chỉnh hơn ở mỗi kỳ hoạt động của Đảng.
2.2.1. Cương lĩnh xây dựng đất nước ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội (năm 1991)
Cương lĩnh xác định phải từng bước quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa từ thấp
đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc doanh.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả

kinh tế là chủ yếu.
Bên cạnh đó, cương lĩnh quán triệt cần phải phát huy vai trò của kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể, từng bước hình thành cơ sở kinh tế của chế độ Chủ nghĩa xã
hội, đó là kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của
nền kinh tế đất nước. Chỉ có trên nền tảng kinh tế này thì đât nước mới có thể thực
hiện được mục tiêu xóa bỏ áp bức bóc lột, xóa bỏ sự phân hóa xã hội thành các giai
cấp. Đó là vấn đề cơ bản để bảo đảm định hướng Xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát
triển phát triển nền kinh tế của đất nước. Với nền kinh tế có nhiều hình thức phân phối
khác nhau: phân phối theo vốn, phân phối theo phúc lợi nhưng hình thức phân phối
chủ yếu là phân phối theo kết qảu lao động và hiệu quả kinh tế.
2.2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006)
Cương lĩnh năm 1991 đã nêu ra phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng
Chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh và bổ sung thành quá trình
tất yếu phải thực hiện ở nước ta. Trong đó cần phải phát triển kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa
Từ thực tiễn quá trình nhận thức, Đảng và Nhà nước đi tới quyết định kinh tế
thị trường là quyết định đây là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàng hóa, là quy
luật phát triển chung của nhân loại và tại Đại hội IX, chúng ta coi kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa là đích đến cuối cùng cả quá trình quá độ lên Cộng sản
chủ nghĩa của Việt Nam.


12
2.2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011)
Tại Đại hội nhấn mạnh “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh”. Trong văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ ra 4 thành phần kinh tế ở nước ta:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng
được củng cố và phát triển trong đó hai thành phần kinh tế này ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư nhân là một trong động lực
của nền kinh tế và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển.
2.2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021)
Văn kiện Đại hội XIII đề cập đến vấn đề đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, nhưng nhấn mạnh mơ hình tăng trưởng mới cần tận dụng tốt cơ hội của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi
mới sáng tạo. Cụ thể là: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế,
chuyển mạnh nền kinh tế sang mơ hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát
triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các
thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư;
phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm cơng nghệ cao, có giá trị gia
tăng cao, thân thiện với mơi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu”.
Về vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tiếp tục
đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế. Cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư
công. Cơ cấu lại, phát triển lành mạnh các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố
sản xuất để huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực”. Đặc biệt, văn kiện lần này


13
nhấn mạnh đến cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nói chung để phát triển lực lượng
doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, tăng cường gắn kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Đây cũng chính là để khắc phục sự thiếu
gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dẫn

đến chưa tạo ra được sự chuyển giao công nghệ, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp
trong nước. Phát triển thành phần kinh tế tư nhân để thực sự trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế cũng là điểm nhấn trong văn kiện lần này. Văn kiện nêu rõ:
“Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư
nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa cơng nghệ và phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển
những tập đồn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực,
quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp
của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60% - 65%”.
2.3. Giải pháp phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo tư tưởng Hồ Chí
Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong thời kỳ nước ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, đổi mới, mở cửa thị trường,
tái cơ cấu kinh tế nhiều lần, có những thành phần kinh tế mới được bổ sung hay tách ra
từ những thành phần kinh tế cũ để phù hợp hơn với sự phát triển của mọi mặt trong
lĩnh vực kinh tế kinh tế. Tuy vậy, có thể thấy việc thay đổi lại cơ cấu kinh tế, tái tạo lại
bộ máy Nhà nước trong thời kỳ quá độ và đi theo định hướng kinh tế thị trường, kinh
tế nhiều thành phần mang lại những hiệu quả to lớn, thay đổi cục bộ nền kinh tế của
đất nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra với kinh tế quốc doanh là cần phải phát triển thành
phần kinh tế quốc doanh để tạo ra nền tảng vật chất cho Chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy
việc cải tạo Xã hội chủ nghĩa. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát
huy và lấy làm cơ sở phát triển cho cả tư duy lãnh đạo sau này. Cụ thể hiện nay, kinh tế
quốc doanh ngày càng thể hiện được rõ vai trò điều tiết nền kinh tế của mình, đồng
thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác ở Việt Nam có cơ hội phát triển và
môi trường cạnh tranh ngày càng trong sạch, lành mạnh hơn.
Đối với kinh tế hợp tác xã, chỉ đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh là Nhà nước cần
đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Hiện nay, thành phần kinh


14

tế hợp tác xã đang được cải thiện cả về cách thức lẫn phương thức hoạt động để có thể
phù hợp hơn với cơ thế thị trường cũng như gia tăng sản xuất. Đồng thời, thành phần
kinh tế này cũng được kết hợp liên doanh với nhiều thành phần kinh tế khác, tạo nên
sự phát triển đồng đều, hài hòa và bền vững.
Với kinh tế cá thể của những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ
khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, đồng thời giúp đỡ họ
cải tiến các phương thức, các tư liệu sản xuất, cải tiến công nghệ, khuyếnh khích
những tiểu chủ đầu tư vào cơ sở vật chất. Bên cạnh đó, có thể kết hợp kinh tế cá thể
với thành phần kinh tế hợp tác xã để có thể tận dụng được các nguồn vốn trong xã hội,
tạo công ăn việc làm, giải quyết được các nhu cầu việc làm, huy động các nguồn lực
rảnh rỗi trong nhân dân.
Với các nhà tư sản, đây là thành phần kinh tế được đặc biệt quan tâm vì tầm
quan trọng của họ trong việc tạo ra phần lớn của cải trong xã hội, giúp nước ta cơ bản
trở thành nước cơng nghiệp hiện đại. Các lĩnh vực có tiềm năng phát triển vẫn được
tiếp tục đầu tư và thúc đẩy, tạo điều kiện phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng bổ
sung các cơ chế, chính sách với mục đích khuyếnh khích các doanh nghiệp tư nhân gia
tăng sả xuất và đầu tư. Việc khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân sản xuất đã tạo
nên những tăng trưởng lớn đối với nền kinh tế đất nước.
Theo đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những giải pháp sau:
Thứ nhất là kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ Xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ Xã hội
chủ nghĩa phù hợp với điều kiện mới của đất nước và tình hình thế giới; Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa Xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc Việt Nam chúng ta.
Thứ hai là Đảng và Nhà nước phải lãnh đạo, tốt vai trò kiến tạo xã hội phát
triển thơng qua hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp. Trong đó, cần phải:
- Giải quyết hài hịa các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của các
thành phần kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể,
giữa chủ và thợ, giữa lợi ích của công nhân, nông dân, tri thức, doanh nghiệp và lợi ích

của Nhà nước, lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế.


15
- Kinh tế Nhà nước thực sự “giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chẩ lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và
chấp hành pháp luật”.
- Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo
pháp luật; trong đó, cần đa dạng hóa các hình thức hợp tác phù hợp để gia tăng sản
xuất, phát triển sản xuất nhằm mang lại no đủ, giàu có, thịnh vượng, cơng bằng, tiến
bộ và hạnh phúc cho đa số nhân dân lao động.
- Tổ chức xã hội có điều kiện hợp tác, hỗ trợ Nhà nước, khi cần thiết có thể đấu
tranh với các thế lực tự phát của thị trường để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
cơng dân đất nước.
Thứ ba là tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ
về nhận thức lý luận, hoàn thiện về mặt thể chế và quyết liệt, đồng bộ trong tổ chức
thực thi để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa.
Tiếp theo, cần tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng
tỏ về nhận thức lý luận, hoàn thiện về mặt thể chế và quyết liệt, đồng bộ trong tổ chức
thực thi để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm những điều kiện tốt nhất trong nghiên cứu lý luận,
trong đổi mới tư duy về kinh tế; bảo đảm dân chủ trong xây dựng và thực thi chính
sách, thể chế kinh tế vừa là mục tiêu, nhiệm vụ vừa là phương thức, động lực và là giải
pháp chiến lược cho vấn đề tạo lập cơ sở kinh tế để thực hiện dân chủ Xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay.
Thông qua thực tiễn đất nước đang trong quá trình đổi mới và phát triển, tình

hình kinh tế, xã hội ln có những biến động, ta có thể thấy việc nhận thức sâu sắc và
vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh vào cơng cuộc xây dựng và kiến
thiết đất nước là rất quan trọng, đặc biệt là trong phát triển nền kinh thế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa hiện nay.


16

III. KẾT LUẬN
Sau hơn 35 năm đổi mới và phát triển theo con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tích cực. Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần thực sự là một tất yếu khách quan và bền bỉ lâu dài. Từ một nước đói
nghèo, nơng nghiệp lạc hâu, tu duy kinh tế nhỏ hẹp và bị tàn phá nặng nề do chiến
tranh, Việt Nam chúng ta đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình, có tiềm
năng phát triển to lớn. Cơ cấu kinh tế được thay đổi phù hợp với biến động của kinh tế
khu vực và thế giới, Việt Nam đã có q trình mở của, hội nhập thành cơng với bạn bè
quốc tế từ đó có những cơ hội mới, nguồn lực kinh tế mới, kỳ vọng sẽ mang lại bước
phát triển cao trong tương lai sắp tới.
Để đạt được những thành tựu nói trên, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng
nỗi lực học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minhh và vận
dụng sáng suốt, linh hoạt vào phát triển đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội với phương châm xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Và thực tiễn đã chứng minh tư tưởng
của Người là hoàn toàn đúng đắn, phát triển kinh tế nhiều thành phần không chỉ phù
hợp trong quá khứ, trong giai đoạn bắt đầu đổi mới mà vẫn có ý nghĩa to lớn cho đến
ngày nay. Tư tưởng của Hồ chủ tịch luôn là ngọn cờ dẫn lối cho Cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra 5 thành phần kinh tế ở nước ta khi đi lên Chủ

nghĩa xã hội và cả năm đang hiện hữu đầy đủ trong cơ cấu kinh tế nước nhà với vai trị
và vị trí quan trọng, là nền tảng, điều kiện cho nhau cùng phát triển. Hiện nay, những
thành phần trên đã được Đảng nhận thức sâu sắc và luôn cố gắng hồn thiện. Đảng ta
đã có vai trỏ to lớn trong việc đề ra đường lối phát triển cho từng loại hình kinh tế một
cách chặt chẽ, đầy đủ cho nên nền kinh tế Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, góp
phần tạo nên thành cơng của thời kỳ đổi mới, từ đó nâng cao và cải thiện đời sống
nhân dân. Bên cạnh những thành tựu, quá trình mở cửa, phát triển cũng tạo ra nhiều
thách thức lớn như vấn đề về ô nhiễm môi trường, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng
cao hay già hóa dân số,… địi hỏi Đảng và Chính phủ tiếp tục lãnh đạo, vận dụng sáng


17
suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin để khắc phục được những hạn chế
còn tồn tại và có thể phát sinh.
Thơng qua những phân tích trên, ta nhận thấy vai trò to lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Từ đó, mỗi người cần phải qn triệt sâu sắc, luôn luôn học tập và làm theo
tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại, phát huy cao tinh thần dân tộc, sự sáng tạo và đổi mới
trong lao động, góp phần vào cơng cuộc xây dựng đất nước ngày càng phát triển bởi
bên cạnh xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vai trò của con người trong phát
triển kinh tế cũng được Người đặc biệt quan tâm, chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng:
“Muốn có Chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người Xã hội chủ nghĩa”.

IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006);
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011);
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021);
4. Cương lĩnh xây dựng đất nước ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
(năm 1991);
5. Ban tuyên giáo trung ương (2011), “Hồ Chí Minh, tồn tập” - NXB CTQG, Hà Nội;
6. Bộ GD&ĐT (2021), “Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh” - NXB CTQG, Hà Nội.




×