Nguyễn Văn Song. 2007. Tạp chi Kinh tế Môi trường –Hội Kinh tế môi trường Việt
Nam. Số 4; từ trang 14-17 tháng 11 năm 2007
1
Cơ sơ kinh tế của mức thải tối ưu và quản lý ô nhiễm môi
trường bằng quyền sở hữu, thuế ô nhiễm và trong điều kiện
của Việt Nam
TS. Nguyễn Văn Song - Đại học Nông nghiệp I
Tóm tắt
Có nhiều công cụ kinh tế để quản lý môi trường và tài nguyên, quyền sở hữu (lý thuyết
Coase), thuế Pigou là hai công cụ tương đối phổ biến khi có một thị trường cạnh tranh
hoàn hảo và trong sạch. Cả hai công cụ này đều dựa vào sự hoạt động của thị trường, cả
hai công cụ này cuối cùng “nội hoá” ngoại ứng tiêu cực thông qua giá cả thị trường. Bài
viết này dựa trên các mô hình toán học nhằm làm rõ thêm cơ chế hoạt động của hai cộng
cụ kinh tế quản lý môi trường và tài nguyên này. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những ưu
điểm, các hạn chế, phạm vi áp dụng và liên hệ từng công cụ quản lý trong điều kiện nền
kinh tế Việt Nam vừa chuyển qua kinh tế thị trường.
Từ khóa: Ngoại ứng, thuế Pigou, quyền sở hữu, lý thuyết Coase, ô nhiễm tối ưu.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng trưởng kinh tế, tăng dân số đồng nghĩa với việc tăng tốc độ sử dụng các
nguồn tài nguyên không thể tái tạo cho sản xuất, tăng tốc độ tiêu dùng và tăng chất
thải ra môi trường. Phát triển kinh tế bền vững là một bài toán đa mục tiêu đòi hỏi
phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề khác như giáo dục và sức
khỏe cộng đồng, công bằng xã hội, môi trường tài nguyên trong hiện tại cũng như
tương lai. Một số nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới hiện nay
đang phải đối mặt với những vấn đề lớn về phân phối thặng dư xã hội, cạn kiệt
nguồn tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường.
Việt nam là nước có tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh trong những năm
gần đây. Chúng ta cũng đã, đang phải đối mặt với những vấn đề ô nhiễm môi
trường đất, môi trường nước và môi trường không khí cục bộ cũng như toàn vùng.
Các khu công nghiệp, làng nghề, dân cư, thành thị cũng như nông thôn đang thải
ra một lượng chất thải lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất đai nông nghiệp,
nguồn nước mặt và nước ngầm, không khí và sức khoẻ cộng đồng dân cư như các
khu vực Thạch Sơn –Lâm Thao, Thuỷ Nguyên - Hải Phòng, Hà Tĩnh vv
Quyết định 64 của Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2003 về việc phê duyệt Kế
hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đang gặp phải
không ít khó khăn trong quá trình thực thi. Thiếu vốn, thiếu công nghệ xử lý, thiếu
các cơ chế chính sách, các hướng dẫn pháp lý, thiếu lộ trình xử lý đối với từng
hình thức áp dụng (di chuyển, đình chỉ, xây dựng hệ thống xử lý chất thải, phạt,
mức phạt vv (Nguyễn Hoà Bình –2003).
Mục đích của bài viết này nhằm giúp các nhà môi trường, các nhà hoạch định
chính sách có cái nhìn toàn diện, khoa học và trên cơ sở hiệu quả kinh tế ở tầm vi
mô cũng như vĩ mô để kiểm soát chất thải gây ô nhiễm một cách hiệu quả nhất
dưới góc độ phát triển kinh tế bền vững.
Nguyễn Văn Song. 2007. Tạp chi Kinh tế Môi trường –Hội Kinh tế môi trường Việt
Nam. Số 4; từ trang 14-17 tháng 11 năm 2007
2
Phương pháp nghiên cứu và phân tích: nghiên cứu và phân tích này sử dụng mô
hình toán học, kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô để phân tích và mô tả mối quan hệ kinh
tế, môi trường theo lý thuyết tối ưu phúc lợi xã hội.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1 Cơ sơ kinh tế của mức thải tối ưu
Mức thải tối ưu là mức thải ở đó làm thiệt hại ít nhất về lợi ích kinh tế và lợi ích
về môi trường cho quốc gia. Hay nói cách khác, ở mức ô nhiễm đó tổng thặng dư
của nền kinh tế lớn nhất dưới góc độ kinh tế và môi trường.
Để chỉ rõ mức thải tối ưu (ngoại ứng tối ưu - Optimal Externalities) chúng ta phân
tích mô hình 1.
Trong đó: Đường MNPB thể hiện lợi ích ròng biên (marginal net private benefit) của
hãng gây ô nhiễm. Theo quy luật kinh tế, lợi ích biên của hãng có xu
hướng giảm dần, có các giá trị dương, bằng 0 và âm.
Đường MEC thể diện chi phí ngoại ứng (marginal external cost) của
hãng. Chi phí ngoại ứng có xu hướng tăng dần tỉ lệ thuận với sản lượng
sản xuất ra (hay lượng chất thải).
Trục hoành biểu hiện sản lượng (Q) sản xuất của hãng gây ô nhiễm và
lượng chất thải (W) tương đương.
Tại mức sản xuất là Q
1
tương đương với lượng chất thải thải ra môi trường là W
1
.
Lúc này, mặc dù lượng chất thải ra môi trường là W
1
nhưng môi trường có đủ khả
năng đồng hoá chính vì vậy mà chưa có chi phí ngoại ứng (MEC = 0). Lợi ích của
hãng (cũng là lợi ích của xã hội) là diện tích S vì chưa phải trừ đi chi phí ngoại
ứng. Mức sản lượng và ô nhiễm này là mức mà các nhà sinh thái môi trường và
cộng đồng dân cư sống gần khu vực thải mong muốn (không bị ô nhiễm).
Wp
MNPB
MEC
Sản lượng Q sản xuất
Q*
E
S
Qp
0
Mức ô nhiễm W
W*
A
B
C
D
W
1
S
Q
1
Hình 1. Cơ sơ kinh tế của mức ô nhiễm tối ưu ( nguồn: PEARCE, D. W. AND R. KERRY
TURNER. 1990)
Chi phí và lợi ích
Nguyễn Văn Song. 2007. Tạp chi Kinh tế Môi trường –Hội Kinh tế môi trường Việt
Nam. Số 4; từ trang 14-17 tháng 11 năm 2007
3
Ở mức sản lượng là Q
p
, tương đương với lượng chất thải ra môi trường là W
p
, chi
phí ngoại ứng là tổng các diện tích tam giác B + C + D, lợi ích ròng biên của hãng
là tổng các diện tích S + A + B + C. Như vậy, lợi ích của xã hội sẽ là: S + A + B +
C – (B + C + D) = S + A – D. Mức sản lượng và ô nhiễm này không được cộng
đồng và xã hội ưu thích. Nhưng các hãng gây ô nhiễm lại muốn sản xuất và thải ra
môi trường ở mức này, vì đến Q
p
lợi ích ròng biên của các hãng mới hết. Mặc dù
gây ra cho môi trường một lượng chất thải và chi phí lớn. Chú ý, các hãng không
sản xuất vượt qua Q
p
vì vượt qua Q
p
lợi ích biên âm.
Ở mức sản lượng Q* tương đương với mức thải ra môi trường là W*, chi phí
ngoại ứng là diện tích tam giác B, lợi ích ròng biên của hãng là S + A + B. Kết quả
cuối cùng lợi ích của xã hội sẽ là: S + A.
Tóm lại: Nếu sản xuất tại Q
1
, mặc dù môi trường không bị ô nhiễm nhưng sản
phẩm quốc dân tăng chậm, lợi ích xã hội là diện tích S; sản xuất tại Q* môi trường
sẽ bị ô nhiễm với mức thải là W*, nhưng lợi ích xã hội là tổng diện tích S + A; sản
xuất tại Q
p
, sản phẩm quốc dân tăng nhanh, mức thải ra môi trường là W
p
, và lợi
ích xã hội là tổng S + A – D. Điểm sản xuất tối đa hoá lợi ích của xã hội là Q*,
mặc dù mức thải ra môi trường là W*. Tức là, tối đa hoá lợi ích của xã hội, môi
trường khi các hãng sản xuất mức sản lượng tại điểm lợi ích ròng biên của hãng
(MNPB) bằng với chi phí ngoại ứng (MEC). Như vậy các nhà quản lý môi trường
cần ban hành các chính sách (thuế, chuẩn mức thải, giấy phép thải, thị trường giấy
phép thải vv…) làm cho hãng sản xuất tại Q* thải ra môi trường một lượng chất
thải là W* sẽ mang lại hiệu quả môi trường và kinh tế lớn nhất.
2.2 Cơ sơ kinh tế cho các công cụ, chính sách quản lý ô nhiễm môi trường
bằng quyền sở hữu, thuế ô nhiễm và trong điều kiện của Việt Nam.
a) Khả năng đạt được tối ưu sự ô nhiễm bằng xác định quyền sở hữu
Ronald Coase(1960) cho rằng: Trong điều kiện một thị trường cạnh tranh hoàn hảo
và không có chi phí bàn bạc, chỉ cần xác định quyền sở hữu khu vực thải một cách
rõ ràng, vậy thì, các bên gây ô nhiễm và bị ô nhiễm sẽ bàn bạc thoả thuận với nhau
để đạt được điểm tối ưu lượng ô nhiễm (điểm W trong hình 1). Trong quản lý môi
trường bằng xác lập quyền sở hữu được xây dựng dựa trên hai góc độ riêng, tùy
thuộc vào quyền sở hữu khu vực thải thuộc vào cộng đồng bị ô nhiễm hay thuộc
vào người gây ra ô nhiễm.
Nguyễn Văn Song. 2007. Tạp chi Kinh tế Môi trường –Hội Kinh tế môi trường Việt
Nam. Số 4; từ trang 14-17 tháng 11 năm 2007
4
Trường hợp 1. Quyền sở hữu khu vực thải hoàn toàn thuộc về phía
người bị ô nhiễm.
Trong trường hợp quyền sở hữu khu vực thải hoàn toàn thuộc về người bị ô
nhiễm. Như vậy, cộng đồng người bị ô nhiễm sẽ có quyền không cho phép cơ sơ
sản xuất gây ô nhiễm ra môi trường xung quanh. Cộng đồng dân cư chỉ cho phép
các nhà sản xuất gây ô nhiễm được sản xuất tới Q
1
(mức ô nhiễm mà môi trường
có thể hấp thụ hoàn toàn). Nhưng tại Q
1
, như phần cơ sở kinh tế của mức thải tối
ưu đã phân tích, không phải là điểm tối ưu hoá của sản xuất cũng như ô nhiễm.
Trong thực tế, sản xuất tại Q
1
các hãng sản xuất thấy rằng nếu thoả thuận bàn bạc
với cộng đồng dân cư cho sản xuất tại Q* thì hãng sẽ được thêm phần lợi nhuận là
diện tích A + B, và nếu trả phần B cho cộng đồng dân cư (bằng đúng phần chi phí
ô nhiễm gây ra cho họ) thì hãng vẫn lãi phần A. Chính vì vậy, hãng sẽ thoả thuận
với cộng đồng dân cư để được sản xuất tại Q* (mức thải W*) và đền bù cho cộng
đồng mức B (được gọi là phần bằng lòng chấp nhận của cộng đồng – WTA –
Willingness to accept) và được lợi khoản A. Cũng cần lưu ý rằng, hãng sẽ không
thoả thuận để sản xuất vượt qua Q* vì tại bất kỳ điểm nào bên phải của Q* lượng
đền bù biên cho cộng đồng dân cư sẽ lớn hơn phần lợi ích biên.
Mức ô nhiễm W
Wp
MNPB
MEC
Sản lượng Q sản xuất
Q*
E
S
Qp
0
W*
A
B C
D
W
1
S
Q
1
Hình 2. Cơ sơ kinh tế quản lý ô nhiễm dựa vào quyền sở hữu khi
người bị ô nhiềm có quyền sở hữu ở khu vực thải
Chi phí và lợi ích
Nguyễn Văn Song. 2007. Tạp chi Kinh tế Môi trường –Hội Kinh tế môi trường Việt
Nam. Số 4; từ trang 14-17 tháng 11 năm 2007
5
Trường hợp 2. Quyền sở hữu khu vực thải hoàn toàn thuộc về phía
người gây ô nhiễm.
Khi quyền sở hữu khu vực thải thuộc hoàn toàn về người sản xuất gây ra ô nhiễm,
lúc này hãng sẽ sản xuất tới Q
P
(điểm lợi nhuận biên bằng 0). Sản xuất tại Q
p
hãng
sẽ được lợi thêm phần lợi nhuận là C so với sản xuất tại Q*, nhưng cộng đồng dân
cư và môi trường lại phải chịu phần chi phí là C + D. Người bị ô nhiễm sẽ thoả
thuận với hãng gây ô nhiễm bằng lòng trả (WTP – Willingness to pay) cho hãng
phần lợi nhuận C, như vậy người bị ô nhiễm sẽ giảm được cả chi phí là phần D.
Cũng cần lưu ý rằng, người bị ô nhiễm sẽ không thoả thuận để trả cho hãng sang
trái của Q* (W*) vì tại bất kỳ điểm nào bên trái của Q* số tiền đền bù biên cho
hãng sẽ lớn hơn phần lợi ích biên mà người bị ô nhiễm đạt được.
Tóm lại: Trong cả hai trường hợp trên người bị ô nhiễm và người gây ra ô nhiễm
cũng sẽ thoả thuận, bàn bạc để đi đến sản xuất tại điểm tối ưu về ô nhiễm (W*).
Những hạn chế của lý thuyết kinh tế quản lý ô nhiễm dựa trên xác định
quyền sở hữu khu vực thải nói chung và đối với Việt Nam.
Lý thuyết này đòi hỏi một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, trong đó quyền sở hữu
phải hoàn toàn rõ ràng, trong sạch, chi phí bàn bạc lại không được đề cập trong mô
hình (chi phí bàn bạc, thảo luận bằng 0). Chính vì vậy, trong thực tế để tồn tại một
điều kiện như vậy là hiếm và khó. Hơn nữa vấn đề môi trường là không biên giới,
vấn đề ô nhiễm thường xảy ra trong tương lai mặc dù hiện tại gây ô nhiễm. Hạn
chế thứ 2 đó là về vấn đề đạo đức, trong trường hợp 2 hoàn toàn không có quyền
sở hữu. Người bị ô nhiễm sẽ đặt vấn đề là vì sao người ta đã bị ô nhiễm rồi lại phải
góp tiền trả cho hãng sản xuất gây ô nhiễm phần C. Trong trường hợp 1 (hoàn toàn
có quyền sở hữu), người sản xuất sẽ đặt vấn đề vì sao hãng sản xuất tại điểm tối
ưu hoá cho xã hội rồi lại phải bỏ phần B đền bù cho cộng đồng.
Trong điều kiện ở Việt Nam, khi mà nền kinh tế của chúng ta mới chuyển đổi từ
một nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp (ở đó chỉ có hai hình thức sở hữu
Mức ô nhiễm W
Wp
MNPB
MEC
Sản lượng Q sản xuất
Q*
E
S
Qp
0
W*
A
B C
D
W
1
S
Q
1
Chi phí và lợi ích
Hình 3. Cơ sơ kinh tế quản lý ô nhiễm dựa vào quyền sở hữu
khi người gây ô nhiềm có quyền ở khu vực thải
Nguyễn Văn Song. 2007. Tạp chi Kinh tế Môi trường –Hội Kinh tế môi trường Việt
Nam. Số 4; từ trang 14-17 tháng 11 năm 2007
6
quốc doanh và sở hữu tập thể) sang nền kinh tế thị trường (chấp nhận nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu) thì công cụ quản lý ô nhiễm dựa vào quyền
sở hữu tài nguyên là khó được thực thi trong giai đoạn trước mắt. Nhưng về lâu
dài, hình thức này sẽ là một công cụ tốt cho quản lý nguồn tài nguyên và môi
trường.
b) Sử dụng thuế để quản lý ô nhiễm (Pigouvian tax)
Cơ sở kinh tế của thuế ô nhiễm
t*
Như phần trên đã trình bày, quản lý ô nhiễm bằng việc xác định quyền sở hữu khu
vực thải có nhiều khó khăn trong thực tế. Thuế ô nhiễm (pollution tax) là một công
cụ quản lý ô nhiễm môi trường thông qua giá cả sản phẩm và thị trường. Mô hình
4 cho thấy, nếu các nhà quản lý môi trường ban hành một mức thuế ô nhiễm là t*,
đường MNPB của các hãng sẽ chuyển xuống đường MNPB –t* và như vậy với
việc đóng thuế môi trường (lương t*) các hãng sản xuất gây ô nhiễm chỉ sản xuất
tới Q*, lượng chất thải ra môi trường là W* chúng ta đạt đươc điểm tối ưu hoá ô
nhiễm. Các hãng sẽ không sản xuất vượt qua Q*, bởi vì nếu sản xuất vượt qua sản
lượng này cùng với lượng thuế là t* lợi nhuận biên của các hãng (MNPB) sẽ âm.
Những khó khăn trong chính sách thuế ô nhiễm
Mặc dù thuế ô nhiễm là một công cụ quản lý môi trường tương đối thịnh hành hiện
nay thông qua giá cả sản phẩm của thị trường. Nhưng trong việc ban hành chính
sách thuế ô nhiễm mắc phải những khó khăn chủ yếu sau: Thứ nhất, thuế ô nhiễm
đòi hỏi phải biết chính xác hai đường MEC và MNPB. MEC có thể được ước tính
thông qua các phương pháp đánh giá môi trường (environmental valuation
methods), nhưng rất tốn kém và khó xác định cho từng hãng riêng biệt. Việc xác
Wp
MNPB
MEC
Sản lượng Q sản xuất
Q*
E
S
Qp
0
Mức ô nhiễm W
W*
A
B
C
D
W
1
S
Q
1
Chi phí và lợi ích
MNPB – t*
Hình 4. Cơ sơ kinh tế quản lý ô nhiễm dựa vào thuế ô nhiễm
Nguyễn Văn Song. 2007. Tạp chi Kinh tế Môi trường –Hội Kinh tế môi trường Việt
Nam. Số 4; từ trang 14-17 tháng 11 năm 2007
7
định đường MNPB là khó, bởi vì các hãng thường dấu các thông tin về lãi suất để
sản xuất tại Qp. Nếu hai giá trị này (MEC và MNPB) không được xác định đúng,
thuế suất (t*) ban hành sẽ không đạt điểm tối ưu. Thứ hai, thuế suất thường được
ban hành trong một giai đoạn nhất định, không thể thay đổi thường xuyên, trong
khi đó chi phí ngoại ứng (MEC) cũng như lợi nhuận của hãng (MNPB), của các
hãng bị ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố của kinh tế, xã hội và môi trường. Thứ ba,
thuế ô nhiễm được áp dụng hợp lý và hiệu quả cho cho các loại chất thải có mức
độc hại nhỏ, nhưng đối với các loại chất thải độc thì công cụ này không hiệu quả
vì thời gian thực thi quá dài, không kịp thời mà phải dùng phương pháp chuẩn
mức thải (emission standard).
c. Trong điều kiện Việt Nam.
Đối với tài nguyên, môi trường Việt Nam khi mà công cụ quản lý tài nguyên, môi
trường bằng xác lập quyền sở hữu rõ ràng, minh bạch chưa phát huy tác dụng tốt
trong giai đoạn trước mắt thì thuế là một công cụ hữu hiệu, cùng với chuẩn mức
thải, giấy phép thải, chi phí giảm thải là các công cụ có tính chất thực thi hơn.
Cũng cần lưu ý thêm rằng, cơ chế thuế ô nhiễm thịnh hành, phù hợp hơn trong
điều kiện ở Việt nam hiện nay. Điều hành sản xuất, tiêu dùng hoặc ô nhiễm dựa
vào thuế là một công cụ thông qua cơ chế giá của thị trường. Vì vậy, đòi hỏi phải
có thời gian cho cơ chế giá vận hành đi vào thị trường đi vào cơ cấu giá cả. Chính
vì vậy, đối với những yêu cầu khẩn cấp để hạn chế sản xuất, tiêu dùng hoặc gây ô
nhiễm (ví dụ: chất thải độc) thì không nên sử dụng thuế mà phải sử dụng chuẩn
mức thải (emmision standard). Chuẩn mức thải có một số nhược điểm như thường
bị vi phạm và thường phi hiệu quả, nhưng lại có ưu điểm hơn là được thực thi
nhanh hơn để hạn chế chất thải độc. Vì chất thải độc sẽ làm cho thiệt hại xã hội
nhiều hơn trong một thời gian ngắn.
3. KẾT LUẬN
Để đạt được mức sản xuất và mức thải tối ưu các hãng phải sản xuất tại Q* và thải
ra môi trường lượng chất thải là (W*). Quản lý ô nhiễm bằng việc xác định quyền
sở hữu rõ ràng khu vực thải và thuế ô nhiễm có những ưu nhược điểm riêng, tuỳ
từng điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường cụ thể mà ban hành chính sách sử
dụng hai công cụ này một cách hiệu quả. Ngoài các công cụ này, chuẩn mức thải
(emission standard), giấy phép giảm thải có thể trao đổi (tradeable emission
permits), chi phí giảm thải (marginal abament cost) cũng cần được xem xét và áp
dụng.
Đối với hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ngoài các công cụ kinh tế quản
lý ô nhiễm như: chuẩn mức thải, chi phí giảm thải, phí thải, thị trường giấy phép
thải thì thuế gây ô nhiễm là một công cụ thực thi và hữu hiệu hơn so với quản lý
môi trường dựa vào lý thuyết Coase. Khi chất thải ô nhiễm là độc đối với môi
trường và sức khoẻ con người thì cơ chế điều hành thông qua quyền sở hưu và
thuế ô nhiễm lại không hiệu quả bằng sử dụng chuẩn mức thải./.
Nguyễn Văn Song. 2007. Tạp chi Kinh tế Môi trường –Hội Kinh tế môi trường Việt
Nam. Số 4; từ trang 14-17 tháng 11 năm 2007
8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BARRY C. FRIELD. 1997. Environmental Economics: An introduction. McGraw-Hill Book Co.
FREEMAN III, A. M.1993. The Measurement of Environmental and Resource Values. Theory
and Methods: Resource for future, Washington.
HARTWICK, JOHN AND NANCY OLEWILER. 1998. The Economics of Natural Recource
Use, 2
nd
, Inc.
HOWE, CHARLES W. 1979. Natural Resource Economics: Issuse, Analysis and Policy. John
Wiley and Sons, Inc.
NGUYỄN HOÀ BÌNH. 2003. Tình hình triển khai thực hiện Quyết định số 64/2003/QĐ – TTg
Những khó khăn và thách thức. Tạp chí của Cục Bảo vệ môi trường - Bộ Tài nguyên Môi
trường số 12 –2003.
PEARCE, D. W. AND R. KERRY TURNER. 1990. Economics of Natural Resources and the
Environment, Harvester Wheatsheaf, Inc.
* Khoa Kinh tế và Phát triển Nông thôn - Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội
0984148879 hoặc 048766448