Đánh giá tác động môi
trường của dự án kèm theo
hồ sơ về dự án
1
1
MỤC LỤC
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài:
Ngày nay, khi mà mục tiêu của các quốc gia không chỉ dừng lại ở tăng
trưởng kinh tế mà hướng tới phát triển bền vững thì vấn đề bảo vệ mơi
trường được đặt lên ngang hàng với tăng trưởng. Dù ở tầm vĩ mơ như
chiến lược, chính sách phát triển kinh tế hay ở tầm vi mô như dự án đầu tư,
dự án kinh doanh thì việc cân nhắc và đánh giá ảnh hưởng, tác động của nó
đến mơi trường đều là cần thiết và vô cùng quan trọng. Những dự án chỉ
hướng tới lợi ích kinh tế mà bỏ qua các tác động môi trường không đem lại
sự phát triển bền vững và lâu dài cho địa phương và quốc gia. Chính vì vậy,
hiện nay, tại nhiều quốc gia trên thế giới đã có quy định bắt buộc về việc
cung cấp tài liệu về đánh giá tác động môi trường của dự án kèm theo hồ
sơ về dự án. Nhu cầu đánh giá tác động mơi trường do đó cũng trở nên cần
thiết hơn. Tác động môi trường thường rất phức tạp trong việc đánh giá. Vì
tùy theo quan điểm của mỗi bên cũng như lợi ích về mặt mơi trường họ
nhận được mà họ coi đó là tác động tích cực hay tiêu cực. Bên cạnh đó, tác
động mơi trường thường không chỉ ảnh hưởng lên một mặt cuộc sống mà
2
2
thường có tác động tổng hợp, đồng thời và lâu dài lên nhiều khía cạnh như
sức khỏe, năng suất, tiện nghi,… Vì thế, để đánh giá chính xác được các tác
động này thì các nhà nghiên cứu phải sử dụng một loạt các phương pháp
đánh giá giá trị môi trường khác nhau. Hiện nay, trên thế giới hệ thống các
phương pháp này vẫn đang được nghiên cứu, mở rộng và hoàn thiện. Một
trong các phương pháp được nhiều nhà nghiên cứu ưa thích do phạm vi
nghiên cứu linh hoạt của nó trong việc đánh giá nhiều loại tác động mơi
trường và giá trị môi trường là phương pháp đánh giá ngẫu nhiên
(Contigent valuation method) – CVM hay còn gọi là phương pháp phát biểu
sự ưa thích. Nội dung chủ yếu của phương pháp này là thông qua việc sử
dụng những cuộc điều tra và bảng hỏi để thu thập thông tin và thăm dò về
mức giá sẵn lòng trả của các cá nhân cho những cải thiện môi trường.
Những câu hỏi được đưa ra dựa trên những điều kiện thị trường mà người
nghiên cứu nêu ra trong bảng hỏi. Do các câu trả lời là cơ sở của việc đánh
giá giá trị mơi trường nhưng lại hồn tồn dựa trên các điều kiện giả định
nên việc xây dựng bảng hỏi hợp lí, đảm bảo thu được thơng tin chính xác và
đáng tin cậy là yêu cầu hàng đầu khi sử dụng phương pháp CVM. Nghiên
cứu việc vận dụng bảng hỏi trong phương pháp CVM vì thế có ý nghĩa trong
việc xây dựng và hoàn thiện bảng hỏi, đáp ứng được yêu cầu của người
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích chủ yếu của đề tài là phân tích việc vận dụng bảng hỏi trong
phương pháp CVM thông qua việc làm rõ các vấn đề sau:
Tìm hiểu sơ lược về phương pháp CVM, từ đó chỉ ra những u cầu về
-
thơng tin mà bảng hỏi cần thu được.
Nghiên cứu về bảng hỏi, thiết kế bảng hỏi và đặc điểm vận dụng bảng
-
hỏi trong nghiên cứu CVM
Chỉ ra những ưu điểm và những tồn tại khi sử dụng bảng hỏi trong
-
CVM và một vài gợi ý để khắc phục.
3
3
II. Vận dụng bảng hỏi trong phương pháp định giá ngẫu nhiên – CVM:
1.Phương pháp CVM:
1.1 Khái niệm CVM:
Việc đánh giá giá trị mơi trường thường rất khó khăn và phức tạp. Điều
này xuất phát từ đặc điểm mà các giá trị mơi trường đem lại. Ngồi giá trị
sử dụng của mơi trường có thể dễ dàng tiến hành đo đạc, lượng hóa và
đánh giá (như trữ lượng gỗ, trữ lượng cá,…) thì các giá trị khác mà mơi
trường đem lại thường rất khó đo lường, lượng hóa và đánh giá. Ví dụ như
giá trị cảnh quan, lợi ích sinh thái, chất lượng mơi trường nước, mơi trường
khơng khí,… Bên cạnh đó, một đặc điểm khác của những giá trị này khiến
cho việc định giá càng khó khăn hơn. Đó là bản thân những lợi ích này
khơng phải là hàng hóa, dịch vụ được trao đổi, mua bán trên thị trường
như các loại hàng hóa, dịch vụ thơng thường khác. Việc không tồn tại thị
trường, cung hay cầu của lợi ích mơi trường khiến cho việc định giá hồn
tồn mang tính chủ quan chứ khơng phải do cơ chế thị trường, cung, cầu
điều chỉnh và xác định. Vì vậy, nếu như với giá trị sử dụng của mơi trường
có thể dùng phương pháp quan sát đơn giản hành vi người tiêu dùng trên
thị trường để xác định giá của giá trị sử dụng thì với những giá trị phi sử
dụng khác cần phải tiếp cận bằng nhiều phương pháp phức tạp hơn như:
suy luận từ hành vi của con người trên thị trường liên quan đến môi
trường, quan sát những thay đổi mơi trường và ước tính sự chênh lệch giá
trị của tài sản môi trường do những thay đổi này gây ra,… Trong các phương
pháp trên, CVM là phương pháp được nhiều nhà nghiên cứu ưa thích sử
dụng. Phương pháp CVM được định nghĩa như sau:
“Phương pháp định giá ngẫu nhiên – CVM là phương pháp xác định giá
trị kinh tế của các hàng hóa và dịch vụ khơng mua bán trên thị trường.
Phương pháp này sử dụng bảng hỏi phỏng vấn để xác định giá trị của hàng
hóa, dịch vụ khơng trao đổi và do đó khơng có giá trên thị trường” (Theo
Katherine Bolt – Estimating the Cost of Environmental Degradation).
4
4
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là việc ước lượng các giá trị môi
trường trực tiếp theo cách tiếp cận hành vi, dựa trên các câu trả lời và phản
hồi của người được hỏi đối với những vấn đề liên quan đến chất lượng môi
trường. Điều đáng chú ý ở đây là những câu hỏi này hoàn toàn dựa trên
những giả định mà người nghiên cứu đưa ra về việc đóng góp, mức chi trả
của người được hỏi cho các giá trị mơi trường (vì bản thân các giá trị này
không hề được đưa ra trao đổi, mua bán). Số liệu điều tra được về giá mà
người được hỏi sẵn lịng trả cho các giá trị mơi trường, các biện pháp cải
thiện môi trường hoặc đền bù thiệt hại môi trường sẽ là cơ sở để đánh giá
giá trị mơi trường. Tổng mức sẵn lịng chi trả này chính là giá trị của tài sản
mơi trường cần đánh giá.
Như vậy, thông qua việc tiếp cận hành vi của người trả lời dựa trên
những câu hỏi giả định nêu ra trong bảng hỏi, người nghiên cứu thu được
thông tin về “giá” của lợi ích mơi trường.
1.2
Các bước tiến hành CVM:
Do thực tế các tác động môi trường thường xảy ra đồng thời và rất phức
tạp, khó tách rời nên việc thăm dò, tiếp cận hành vi của người được hỏi phải
được tiến hành qua nhiều bước, đảm bảo thu được những thơng tin phản
hồi chính xác về những tác động môi trường cần đánh giá. Thông thường,
phương pháp CVM thường được tiến hành qua 4 bước sau đây:
Xác định và mô tả những đặc điểm chất lượng môi trường cần đánh
-
giá
-
Xác định đối tượng điều tra, xác định mẫu và phương pháp chọn mẫu
-
Thiết kế bảng hỏi phỏng vấn và tiến hành điều tra bằng các phương
pháp như phỏng vấn trực tiếp, phương pháp Anket, thảo luận nhóm.
Phân tích và tổng hợp kết quả (phân tích kinh tế lượng, phân tích lợi
-
ích chi phí).
5
5
4 bước này liên quan đến một loạt các lý thuyết về kinh tế học môi
trường, kinh tế lượng và thiết kế điều tra. Trên thực tế, CVM thường được
tiến hành bởi những nhà nghiên cứu môi trường nên kĩ thuật về thiết kế
bảng hỏi, thiết kế điều tra không được họ nghiên cứu nhiều. Trong khi đó,
việc thiết kế bảng hỏi lại đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc mang lại
thơng tin đầy đủ và chính xác để định giá giá trị mơi trường hợp lí. Chinh vì
thế, bước thứ 3 cần phải được chú trọng xem xét trong quá trình tiến hành
CVM.
1.3
Ưu điểm của phương pháp CVM:
Ưu điểm lớn nhất của CVM là có phạm vi ứng dụng rộng và linh họat. Do
phương pháp CVM dựa trên giá sẵn lòng chi trả cho các giá trị mơi trường
của các cá nhân nên nó có thể áp dụng để định giá nhiều loại hàng hóa mơi
trường khác nhau cũng như những giá trị khác nhau của môi trường. Ví dụ
như giá trị tồn tại của mơi trường – được coi là một trong những yếu tố khó
lượng hóa nhất như lợi ích sinh thái, chất lượng mơi trường nước,… Những
giá trị đôi khi được đánh giá rất cao nhưng thực tế lại khơng địi hỏi người
tham gia phỏng vấn phải trực tiếp hưởng thụ giá trị này. Do đó, việc điều tra
được tiến hành dễ dàng và thuận tiện hơn, cũng như ít tốn kém hơn. Ví dụ
như khi nghiên cứu giá trị môi trường của Nam Cực. Trên thực tế, giá trị môi
trường của Nam Cực thường được trả rất cao nhưng rất ít người thực sự đến
tham quan địa điểm này. Nếu sử dụng các phương pháp khác như TCM
(phương pháp chi phí du lịch) đòi hỏi người được phỏng vấn phải là người đã
đến Nam Cực và thực sự chi trả cho các chi phí du lịch ở đây thì chi phí tiến
hành điều tra sẽ rất tốn kém. Nhưng nếu sử dụng phương pháp CVM, người
nghiên cứu chỉ cần đưa ra các giả định và nhận được thông tin về giá sẵn
sàng chi trả của người được phỏng vấn cho việc bảo vệ các giá trị của Nam
Cực trong khi thực tế họ không cần phải đến tận Nam Cực.
Một ưu điểm khác nữa của CVM là nó khơng địi hỏi một số lượng lớn
thông tin như những phương pháp đánh giá môi trường khác.
6
6
Vì thế, trong các báo cáo đánh giá mơi trường của các dự án, chính sách,
CVM thường được sử dụng rộng rãi.
2.Vận dụng bảng hỏi trong nghiên cứu CVM:
1.4 Bảng hỏi:
“Bảng hỏi (hay còn gọi là phiếu điều tra) là hệ thống các câu hỏi được
sắp xếp trên cơ sở các nguyên tắc, trình tự logic và theo nội dung nhất định
nhằm giúp cho người điều tra có thể thu được thông tin về hiện tượng
nghiên cứu một cách đầy đủ, đáp ứng mục tiêu nghiên cứu đã được thiết
lập.” (Giáo trình Lý thuyết thống kê – 2006).
Đối với các cuộc điều tra nói chung, cho dù là điều tra nghiên cứu thị
trường hay điều tra xã hội học thì bảng hỏi luôn là công cụ quan trọng nhất
để thu thập thông tin. Bảng hỏi cũng là biểu hiện cụ thể nội dung nghiên cứu,
là công cụ để người nghiên cứu truyền tải nội dung này đến người được hỏi
và thu nhận những phản hồi từ họ. Vì vậy, chỉ cần nhìn vào bảng hỏi cũng có
thể cho ta biết được những thông tin sơ lược nhất về cuộc điều tra như mục
đích điều tra, chương trình, tổ chức điều tra,…
Đối với phương pháp định giá ngẫu nhiên CVM, bảng hỏi cũng có vai trị
cầu nối giữa người nghiên cứu và người được hỏi. Đặc biệt, vai trò này càng
quan trọng hơn khi đặc điểm của phương pháp này là thu thập thơng tin dựa
trên những giả định khơng có thật chỉ được nêu ra trong bảng hỏi. Bảng hỏi
được thiết kế nhằm mục đích làm đối tượng điều tra suy nghĩ về các đặc
điểm mơi trường, từ đó phát biểu giá mà họ sẵn sàng trả tối đa cho các đặc
điểm mơi trường đó.
Thơng thường, bản hỏi trong CVM gồm 3 phần quan trọng:
Các câu hỏi ngắn gọn và thích hợp nhằm thu thập thơng tin cơ bản
-
nhất về đối tượng điều tra. Ví dụ như tuổi tác, nghề nghiệp, nơi sinh sống,
7
7
thu nhập, việc sử dụng, hưởng thụ các giá trị dịch vụ, hàng hóa mơi trường
liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Từ đó có thể xem xét những yếu tố như
mơi trường sống, trình độ học vấn, mức thu nhập,… có ảnh hưởng như thế
nào tới các câu trả lời của họ.
Phần mô tả những đặc điểm môi trường có liên quan. Từ đó, đối
-
tượng điều tra có hình dung về những giá trị môi trường mà họ đánh giá, từ
đó đưa ra mức giá sẵn sàng chi trả phù hợp.
Phần câu hỏi được thiết kế để thu thập thơng tin, phản hồi về giá sẵn
-
lịng trả của đối tượng điều tra.
Thông qua bảng hỏi, người nghiên cứu phải nhận được đánh giá của đối
tượng điều tra về đặc điểm mơi trường đang nghiên cứu có giá trị như thế
nào đối với họ. Điều này được thể hiện qua giá mà đối tượng điều tra sẵn
lòng trả tối đa để được tiếp tục sử dụng tài sản môi trường này so với việc
mà họ không được sử dụng nữa. Con số mà đối tượng điều tra đưa ra chính
là giá trị lợi ích rịng của hàng hóa, dịch vụ mơi trường đang cần đánh giá.
Đây chính là cách thức để lượng hóa được giá trị tài sản mơi trường – yếu tố
vốn khơng có giá trị thị trường và khơng được trao đổi, mua bán. Có rất
nhiều cách để thu được những phản hồi này. Trên bảng hỏi, các mức giá có
thể được đưa ra trước và đề nghị đối tượng điều tra đánh dấu vào con số mà
họ cho là thích hợp và sẵn sàng trả cao nhất hoặc để họ hoàn toàn tự trả giá.
1.5
Các loại câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu CVM:
Cũng như các cuộc điều tra khác, các loại câu hỏi được sử dụng trong
nghiên cứu CVM cũng phân chia theo nhiều tiêu thức. Tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu, đặc điểm thơng tin mà người nghiên cứu muốn thu thập mà
có thể sử dụng các loại câu hỏi cho phù hợp. Mỗi loại câu hỏi đều có tác
dụng, ưu điểm riêng, nên để đạt hiệu quả cao nhất khi thu thập thông tin,
người nghiên cứu nên sử dụng kết hợp linh hoạt, xen kẽ các loại câu hỏi
trong bảng hỏi, thậm chí cho cùng một thông tin cần thu thập. Bằng việc sử
8
8
dụng kết hợp các câu hỏi như vậy, người nghiên cứu có thể thu nhận được
những thơng tin chính xác, phù hợp và dễ lượng hóa khi tổng hợp.
1.5.1
Câu hỏi theo nội dung:
Câu hỏi theo nội dung thu thập thông tin về thực tế vấn đề môi trường
mà câu hỏi này đề cập đến . Có thể phân biệt cụ thể hơn 3 nhóm câu hỏi
theo nội dung:
Câu hỏi về sự kiện:
Câu hỏi sự kiện là câu hỏi về một sự kiện hiện thực nào đó đã và đang tồn
tại trong không gian. Những câu hỏi này nhằm thu thập thông tin về vấn đề
môi trường đã hoặc đang diễn ra hoặc chỉ đơn thuần là có hiểu biết về đối
tượng điều tra.
Câu hỏi sự kiện thường được sử dụng phổ biến trong hầu hết các bảng
hỏi, các phiếu điều tra do tính ứng dụng cao của nó. Nó mang lại thông tin về
những sự kiện liên quan đến vấn đề điều tra từ đơn giản đến phức tạp. Đối
với những sự kiện thông thường, câu hỏi sự kiện thường được sử dụng để
bắt đầu hỏi trong phỏng vấn nhằm giúp người được hỏi quen dần với cuộc
phỏng vấn. Hoặc khi đi chuyển sang một ý khác, câu hỏi sự kiện cũng được
sử dụng để gợi mở, dẫn dắt tới vấn đề mới.
Các câu hỏi sự kiện thường dễ trả lời vì thế thơng tin thu được từ câu hỏi
có độ chính xác cao, thơng thường có độ tin cậy cao nhất so với các loại câu
hỏi khác. Tuy vậy, cũng cần chú ý rằng đối với những sự kiện đã xảy ra khá lâu
trong q khứ thì độ chính xác của câu hỏi cũng giảm xuống. Những câu hỏi
khai thác cụ thể, chi tiết về sự kiện đã xảy ra (như ngày tháng năm xảy ra sự
kiện, địa điểm xảy ra,…) cần kết hợp những câu hỏi sự kiện liền nhau để dần
tái hiện về sự kiện này bằng cách hỏi về các sự kiện quá khứ nổi bật xảy ra
gắn liền với sự kiện ta cần hỏi. Hoặc khi câu hỏi mang tính chất riêng tư, nhạy
cảm, kín đáo thì cần đặc biệt chú ý tới cách diễn đạt tế nhị, gián tiếp, tránh
gây bối rối, khó xử cho người được hỏi để thu được thơng tin chính xác.
9
9
Ứng dụng trong CVM, các câu hỏi về sự kiện có thể được sử dụng trong
phần đầu của bảng hỏi để thu thập thông tin về đối tượng điều tra như tên,
tuổi, nghề nghiệp, nơi ở, thu nhập,… Ngoài ra cũng có tác dụng dẫn dắt đối
tượng vào vấn đề được hỏi bằng cách hỏi đối tượng điều tra về các sự kiện
có liên quan tới vấn đề mơi trường nghiên cứu.
Ví dụ như hỏi đối tượng về việc sử dụng các hàng hóa dịch vụ mơi trường
trước đây hoặc việc thay đổi về hiện trạng của hàng hóa dịch vụ môi trường
đang/đã xảy ra, cách thức người được hỏi đối xử với hàng hóa mơi trường,…
Câu hỏi về tri thức:
Sau khi thu được thông tin về sự kiện, người nghiên cứu có thể muốn tìm
hiểu rõ hơn về nhận thức của người được hỏi về vấn đề này. Câu hỏi tri thức
nhằm giúp người nghiên cứu thu được thông tin về mức độ hiểu biết, trình
độ nhận thức của người được hỏi về vấn đề. Điều này là vô cùng cần thiết,
đặc biệt là trong nghiên cứu CVM. Do đặc điểm của hàng hóa mơi trường là
việc phân định giữa ảnh hưởng tích cực và tiêu cực chỉ mang tính tương đối
nên trình độ nhận thức của người được hỏi có ảnh hưởng rất quan trọng tới
giá mà họ sẵn sàng chi trả cho hàng hóa mơi trường này. Với những đối
tượng điều tra có nhận thức cao về vấn đề mơi trường, họ thường có nhận
định, đánh giá chính xác hơn về giá trị của hàng hóa mơi trường đang nghiên
cứu. Ví dụ như một người có nhận thức về vấn đề cân bằng sinh thái sẽ đánh
giá cao việc bảo vệ loài sếu đầu đỏ đang bị tuyệt chủng hơn là một người
khơng có hiều biết về vấn đề này.
Khi sử dụng câu hỏi tri thức nên hạn chế việc dùng câu hỏi lưỡng cực:
Có/Khơng, Đã biết/Chưa biết,… Do người được hỏi có thể bị ngộ nhận, ngại
ngùng về mục đích sử dụng câu hỏi là để đánh giá nhận thức của họ nên họ
có xu hướng chọn câu trả lời “Có” hoặc “Đã biết”,… làm sai lệch thông tin thu
thập. Trong trường hợp này, nên sử dụng các câu hỏi phụ để kiểm tra thêm
về mức độ hiểu biết thực sự của đối tượng về vấn đề đó như thế nào.
Câu hỏi về quan điểm, thái độ, động cơ:
10
10
Loại câu hỏi cuối cùng trong nhóm câu hỏi theo nội dung là câu hỏi về
quan điểm, thái độ, động cơ. Có thể nói hai loại câu hỏi trên thường chỉ
nhằm mục đích dẫn dắt đối tượng điều tra để thu được thông tin quan trọng
nhất từ câu hỏi này. Câu hỏi này nhằm tìm hiểu quan điểm, sự đánh giá, mức
độ quan tâm, phản ứng, thái độ, nguyên nhân và động cơ của đối tượng điều
tra về sự kiện đang nghiên cứu.
Trên thực tế, những đánh giá, mong muốn mà đối tượng điều tra bộc lộ
trong câu trả lời thường có tính ổn định thấp, dễ thay đổi, tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế xã hội khách quan hay tâm lí, nhận thức chủ quan của đối tượng
điều tra. Vì vậy, nếu như câu hỏi sự kiện thường cho câu trả lời có độ chính
xác cao, ổn định, khơng thay đổi theo thời gian, từ cuộc điều tra này tới cuộc
điều tra khác do nó gắn liền với hiện thực khách quan thì câu hỏi về quan
điểm, thái độ, động cơ lại dễ thay đổi và thiếu chính xác. Tùy thuộc vào thời
điểm điều tra mà câu trả lời này có thể biến động, nguồn dữ liệu từ câu hỏi
này vì thế khơng thể sử dụng nhiều lần ở những cuộc điều tra khác nhau. Bên
cạnh đó, khi sử dụng loại câu hỏi này về những vấn đề riêng tư, nhạy cảm
biểu hiện lập trường quan điểm cá nhân thì cịn cần chú ý đến việc diễn đạt
tế nhị, khéo léo để người được hỏi dễ dàng hiểu câu hỏi và trả lời chính xác,
đầy đủ.
Trong nghiên cứu CVM, đây chính là câu hỏi để thu được mức giá sẵn lòng
trả của đối tượng điều tra về vấn đề mơi trường đang nghiên cứu. Nói cách
khác, đây chính là đánh giá về giá trị môi trường đối với người được hỏi. Từ
đó, người nghiên cứu xác định được mức giá của hàng hóa, dịch vụ mơi
trường.
Ba loại câu hỏi theo nội dung có nhiệm vụ khác nhau trong việc thu thập
thơng tin nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, giúp người
được hỏi dần dần làm quen với bảng hỏi và vấn đề nghiên cứu, mang lại
những thơng tin đầy đủ, chính xác và hồn chỉnh. Trong nghiên cứu CVM, cần
kết hợp linh hoạt 3 loại câu hỏi này do bản thân tính phức tạp của vấn đề môi
trường và không phải lúc nào người được hỏi cũng đã biết và nhận thức về
11
11
môi trường. Cần sử dụng câu hỏi sự kiện và câu hỏi tri thức để dẫn dắt, giúp
người được hỏi có những ý niệm chung về vấn đề mơi trường rồi từ đó mới
tìm hiểu về đánh giá của họ về vấn đề này.
1.5.2
Câu hỏi theo chức năng:
Việc phân loại câu hỏi theo chức năng xuất phát từ yêu cầu về kĩ thuật
điều tra. Khi thực hiện phỏng vấn, truyền tải thông tin, đặc biệt là khi phỏng
vấn về những vấn đề nhạy cảm (trong CVM như đánh giá tác động chính sách
mơi trường, thái độ của người được hỏi về chính sách của cơ quan quản lí
mơi trường), độ chính xác của thơng tin thấp thì việc sử dụng loại câu hỏi này
rất quan trọng. Có thể phân biệt 3 loại câu hỏi chức năng: câu hỏi tâm lí, câu
học lọc và câu hỏi kiểm tra.
Câu hỏi tâm lí:
Đây là thường là câu hỏi tiếp xúc ban đầu với người được hỏi, dùng để
bắt đầu bảng hỏi. Chức năng chủ yếu của câu hỏi này là để gạt bỏ nghi ngờ
có thể nảy sinh của người được hỏi, hoặc để chuyển tiếp giữa các chủ đề.
Để tiếp xúc, làm quen, các câu hỏi tâm lí được sử dụng thường là
-
những câu hỏi đơn giản, dễ trả lời và mục đích khơng nhất thiết để thu thập
thơng tin. Chức năng chủ yếu của câu hỏi tâm lí chỉ là để làm quen, tạo sự
thân thiện, thoải mái và lôi cuốn người được hỏi vào vấn đề nghiên cứu. Đối
với nhiều người, vấn đề môi trường thường không phải là vấn đề được họ
quan tâm. Bằng việc sử dụng câu hỏi tâm lí, người nghiên cứu có thể thu hút
sự chú ý của người được hỏi để họ hợp tác nhiệt tình hơn, đưa lại thơng tin
cụ thể, chính xác hơn.
Để giảm bớt sự căng thẳng, đặc biệt là khi nội dung bảng hỏi có liên
-
quan đến vấn đề chỉ đạo, chính sách,… nhạy cảm thì người nghiên cứu có thể
đan cài những câu hỏi tâm lí về cuộc sống hàng ngày, những vấn đề đơn giản.
Nội dung của những câu hỏi này có thể khơng liên quan tới vấn đề đang
nghiên cứu mà chỉ giúp tạo bầu khơng khí thoải mái, sau đó sẽ trở lại với nội
12
12
dung chính của bảng hỏi. Ví dụ như khi phỏng vấn về phản ứng của người
dân về chủ trương cải tạo công viên Thống Nhất thành khu vui chơi hiện đại
của Thành phố Hà Nội, người nghiên cứu có thể đan cài các câu hỏi về việc
vui chơi của trẻ em trong gia đình tại cơng viên.
Câu hỏi tâm lí còn được dùng để chuyển tiếp giữa các chủ đề trong
-
bảng hỏi một cách hợp lí, liền mạch nhằm duy trì sự tập trung nhưng vẫn tự
nhiên, thoải mái của người được hỏi. Việc chuyển vấn đề nhanh hoặc bất
ngờ có thể gây tâm lí nghi ngờ về logic của bảng hỏi hoặc sự hụt hẫng, đảo
lộn về tư duy từ người được hỏi. Trong bảng hỏi CVM, người nghiên cứu có
thể muốn đánh giá nhiều loại giá trị của cùng một loại hàng hóa dịch vụ mơi
trường thì việc sử dụng câu hỏi tâm lí cũng vẫn cần thiết nhằm loại bỏ sự
nhàm chán, lặp lại của các câu hỏi và tạo ra sự uyển chuyển, hợp lí giữa các
nội dung.
Do các câu hỏi tâm lí khơng u cầu thu được thông tin hoặc phải liên
quan trực tiếp tới nội dung được hỏi nên việc sử dụng cần có mức độ. Việc
sử dụng quá nhiều câu hỏi vừa làm dài bảng hỏi, vừa gây loãng nội dung
bảng hỏi, gây nhiễu về thông tin. Trên thực tế, câu hỏi tâm lí thường sử dụng
trong phỏng vấn trực tiếp nhiều hơn, do người nghiên cứu tự đặt ra khi cảm
thấy cần thiết. Tuy vậy, vẫn có thể sử dụng một cách hợp lí trong bảng hỏi.
Nghiên cứu CVM cũng khơng thường liên quan tới những vấn đề quá nhạy
cảm, căng thẳng nên việc sử dụng câu hỏi tâm lí khơng rộng rãi như trong các
cuộc điều tra xã hội học thông thường.
Câu hỏi lọc:
Trong điều tra nói chung, câu hỏi lọc luôn được sử dụng rất rộng rãi. Tác
dụng của câu hỏi lọc là tìm hiểu xem người được hỏi có thuộc nhóm người
dành cho những câu hỏi tiếp theo hay khơng. Điều này là vơ cùng quan trọng
vì nếu người được hỏi khơng thuộc nhóm này thì việc tiếp tục trả lời các câu
hỏi sau đó khơng chỉ gây lãng phí thời gian mà cịn mang lại thơng tin khơng
chính xác, khơng logic và khơng có giá trị. Bằng việc sử dụng đơn giản câu hỏi
13
13
lọc, người nghiên cứu có thể phân chia người được hỏi thành các nhóm khác
nhau, đưa ra những câu hỏi riêng cho mỗi nhóm và thu được thơng tin có giá
trị từ mỗi nhóm này.
Đặc biệt, câu hỏi lọc có ý nghĩa rất lớn trong việc tổng hợp thông tin sau
điều tra. Người nghiên cứu có thể dễ dàng chỉ ra những câu trả lời khơng
chính xác, khơng logic của người được hỏi bằng câu hỏi lọc. Trong thiết kế
bảng hỏi, câu hỏi lọc thường được sử dụng kèm theo kĩ thuật “bước nhảy”
để phân loại người được hỏi thành các nhóm và đưa họ đến thẳng tới nhóm
câu hỏi phù hợp cho mỗi nhóm. Như vậy họ khơng cần đi theo trình tự thơng
thường từ trên xuống dưới của bảng hỏi hay phải trả lời các câu hỏi vô nghĩa.
Đối với nghiên cứu CVM nói riêng, bằng câu hỏi lọc, người nghiên cứu có
thể hạn chế sai lầm khi định giá hàng hóa mơi trường khi người được hỏi có
thể trả giá rất cao cho hàng hóa đó trong khi thực tế họ hồn tồn khơng
quan tâm đến vấn đề môi trường đang nghiên cứu.
Câu hỏi kiểm tra:
Câu hỏi kiểm tra được sử dụng để kiểm tra độ chính xác của các thông tin
đã thu thập được hoặc của các câu trả lời của các câu hỏi thường hay bị trả
lời sai, độ chính xác thấp. Câu hỏi kiểm tra có thể chỉ để xác định mức tin cậy
của từng câu hỏi hoặc của từng nội dung hay của tồn bộ bảng hỏi. Câu hỏi
kiểm tra cịn có thể giúp người nghiên cứu tìm ra câu trả lời chính xác. Có
nhiều cách để xây dựng câu hỏi kiểm tra. Có thể nêu ra câu hỏi, sau đó đưa
ra các phương án trả lời mà có cả phương án đúng và sai hoặc gài một câu trả
lời chắc chắn đúng (hoặc chắc chắn sai) để thử. Đối với các câu hỏi nội dung,
có thể sử dụng cách dùng hai câu hỏi về cùng một vấn đề nhưng diễn đạt
dưới hình thức, sắc thái khác nhau. Cũng có thể đưa ra một tình tiết, một vấn
đề hư cấu nhưng về hình thức lại gần với thực tế để kiểm tra tính xác thực
của các thông tin từ các câu hỏi trước đó,… Ngồi ra cịn một cách phổ biến
khác là kiểm tra mối liên hệ, tính logic giữa các câu hỏi để kiểm tra chéo độ
chính xác của các câu trả lời.
14
14
Việc thiết kế câu hỏi kiểm tra và đưa câu hỏi kiểm tra vào bảng hỏi tuy vậy
cần chú ý tới những vấn đề sau:
Các câu hỏi kiểm tra sẽ kéo dài độ dài bảng hỏi vì vậy cần sử dụng hợp
-
lí. Chỉ nên sử dụng câu hỏi kiểm tra với những nội dung nghiên cứu quan
trọng và những câu hỏi thường bị trả lời sai.
Câu hỏi kiểm tra không nên đi liền ngay sau câu hỏi mà nó muốn kiểm
-
tra mà phải để cách xa khoảng từ 3 đến 4 câu hỏi khác để tránh sự nghi ngờ
của người được hỏi và đảm bảo thu được thơng tin chính xác.
Việc diễn đạt, thiết kế phải khéo léo để tránh việc người được hỏi nghi
-
ngờ, tự ái dẫn đến cung cấp thông tin sai lệch.
Như đã đề cập ở phần trên, một trong những hạn chế lớn nhất của
phương pháp CVM là đôi khi người được hỏi đưa ra mức giá rất cao cho
hàng hóa mơi trường vì họ nhận định thực tế họ khơng phải trả khoản tiền
này. Vì vậy, việc sử dụng câu hỏi kiểm tra là cần thiết. Ví dụ so sánh giá sẵn
lịng chi trả với thu nhập hoặc mức giá họ đã thực tế chi trả cho các hàng hóa
mơi trường thơng thường như phí vệ sinh, vé vào công viên sinh thái,… để
kiểm tra tính hợp lí, logic trong câu trả lời.
1.5.3
Câu hỏi theo cách biểu hiện:
Dựa vào việc xây dựng câu hỏi và cách thu thập câu trả lời trong bảng hỏi
mà có thể phân chia câu hỏi thành 3 loại: câu hỏi đóng, câu hỏi mở và câu
hỏi hỗn hợp (câu hỏi nửa đóng).
Câu hỏi đóng:
Câu hỏi đóng là loại câu hỏi mà người nghiên cứu đưa kèm theo những
phương án trả lời cụ thể, người được hỏi chỉ cần chọn một hoặc một số
phương án họ cho là phù hợp nhất. Có thể phân biệt cụ thể 3 loại câu hỏi
đóng:
15
15
Câu hỏi đóng lựa chọn (câu hỏi loại trừ): Các phương án được lựa
-
chọn của câu trả lời có tính chất loại trừ nhau. Người được phỏng vấn chỉ có
thể chọn một đáp án cho câu trả lời của mình. Việc lựa chọn từ 2 đáp án trở
lên làm cho câu trả lời vô nghĩa, không hợp logic. Đối với loại câu hỏi này, có
thể có câu hỏi lưỡng cực hoặc câu hỏi cường độ. Câu hỏi lưỡng cực chỉ gồm
2 đáp án trái ngược nhau: Có/Khơng, Đúng/Sai,… và thường chịu ảnh hưởng
của tâm lí ưa thích “tích cực” của người được hỏi.
Ví dụ: Với câu hỏi “Bạn có phản đối việc cải tạo cơng viên Thống Nhất
khơng?” Thì câu trả lời có xu hướng chọn đáp án tích cực là Có. Trong khi đó,
nếu diễn đạt câu hỏi khác đi mà giữ nguyên nội dung câu hỏi: “Bạn có ủng hộ
việc hiện đại hóa cơng viên Thống Nhất khơng?” thì câu trả lời vẫn có thể là
“Có” do tâm lí ưa thích “tính tích cực” của người được hỏi.
Ngồi ra, khi sử dụng câu hỏi lưỡng cực cần chú ý tới việc sắp xếp thứ tự
câu hỏi. Việc sắp xếp một loạt các câu hỏi lưỡng cực đứng liền nhau rất dễ
gây ra “xu hướng đồng tình” của đối tượng điều tra. Đây là xu hướng khi
người được hỏi chọn một nhóm câu trả lời nhấ định mà khơng quan tâm
thực sự tới nội dung câu hỏi. Ví dụ, trong một loạt các câu hỏi “Đồng
ý/Khơng đồng ý”, “Có/Khơng”,… người được hỏi thường có xu hướng chọn
một đáp án chung cho tất cả các câu hỏi cho dù nội dung câu hỏi có thể hồn
tồn trái ngược nhau. Việc thiết kế câu hỏi như vậy gây ra tâm lí nhàm chán
cho người được hỏi khiến họ trả lời một cách máy móc cho tất cả các câu hỏi
lưỡng cực.
Ngồi ra, loại câu hỏi đóng lựa chọn cịn có câu hỏi cường độ gồm nhiều
mức độ (thang đánh giá) lựa chọn được phân chia theo thứ bậc từ thấp tới
cao (hoặc ngược lại). Vấn đề chủ yếu của loại câu hỏi này là việc nên đưa ra
bao nhiêu hạng mục là phù hợp. Trên thực tế khơng có một quy định nào về
số lượng hạng mục nên sử dụng trong phần trả lời nhưng nói chung, việc sử
dụng q ít hạng mục sẽ làm cho tính phân loại của câu trả lời thấp trong khi
sử dụng quá nhiều hạng mục lại làm mức độ khác biệt giữa các đáp án giảm
xuống, việc xử lí thơng tin kém ý nghĩa. Thơng thường, số hạng mục nên sử
16
16
dụng là từ 5-9 hạng mục. Đối với số hạng mục lẻ sẽ có một hạng mục trung
gian ở giữa. Trong trường hợp cần có một câu trả lời trung lập thì nên sử
dụng số hạng mục lẻ. Nếu người nghiên cứu muốn đối tượng điều tra cung
cấp câu trả lời có quan điểm rõ ràng thì số hạng mục chẵn có thể buộc đối
tượng khơng lựa chọn điểm giữa được. Tuy vậy, việc sử dụng số hạng mục
chắn yêu cầu tính cẩn trọng cao vì khi buộc đối tượng điều tra phải lựa chọn
những gì họ khơng chắc chắn có thể tạo ra dữ liệu sai lệch.
Dạng câu hỏi đóng thứ hai là câu hỏi đóng tùy chọn (câu hỏi tuyển).
-
Các phương án trả lời của câu hỏi này khơng loại trừ nhau và người được hỏi
có thể chọn một số khả năng nào đó họ cho là phù hợp. Đối với loại câu hỏi
này, người nghiên cứu có khả năng gặp phải “xu hướng chọn theo vị trí”. Khi
người được hỏi gặp một danh sách những đáp án cho trước thì lựa chọn của
họ có thể chịu ảnh hưởng bởi thứ tự sắp xếp các đáp án này hơn là sự nội
dung thật sự của đáp án. Thông thường, những lựa chọn đầu tiên hoặc cuối
cùng thường được ưa thích lựa chọn hơn vì nó để lại ấn tượng nhiều hơn
những đáp án ở vị trí khác đối với người được hỏi. Xu hướng này đặc biệt
phổ biến với những câu hỏi có quá nhiều lựa chọn đáp án nên người nghiên
cứu phải chú ý tới việc thiết kế số lượng đáp án vừa phải mà vẫn bao quát
được các khả năng đáp án có thể. Điều này thường rất khó, vì vậy, người ta
thường sử dụng loại câu hỏi hỗn hợp (nửa đóng).
Đối với câu hỏi đóng tùy chọn, người nghiên cứu cịn có thể kết hợp với
yêu cầu sắp xếp thứ tự quan trọng của các đáp án mà người được hỏi lựa
chọn. Từ đó đánh giá mức độ quan tâm của người được hỏi đối với vấn đề
nghiên cứu hoặc tầm quan trọng của các yếu tố thuộc vấn đề nghiên cứu.
Ưu điểm nổi bật của loại câu hỏi đóng là tạo điều kiện thuận lợi cho cả
người được hỏi và người xử lí thơng tin. Người được hỏi chỉ cần lựa chọn
trong số các phương án có sẵn nên hạn chế tâm lí chán nản, mệt mỏi. Loại
câu hỏi này cũng giúp người được hỏi hiểu câu hỏi một cách thống nhất,
theo cùng một nghĩa. Đối với người xử lí thơng tin, câu hỏi đóng rất thuận
tiện cho việc mã hóa, tổng hợp thơng tin.
17
17
Tuy nhiên, câu hỏi đóng vẫn có nhiều nhược điểm. Ngồi các xu hướng đã
phân tích ở trên có thể gây ra thông tin sai lệch, việc thiết kế câu hỏi đóng
cũng cần chú ý để tránh gặp phải các nhược điểm sau:
Các phương án đưa ra chưa đầy đủ khiến người trả lời không chọn
-
được phương án phù hợp. Người thiết kế vì thế phải lường trước cá phương
án trả lời có thể có, bao quát được các khả năng đáp án có thể xảy ra.
Các phương án khơng có mức độ đồng nhất tương đương (theo một
-
cách phân chia nào đó) làm người được hỏi có xu hướng chọn những đáp án
mà người thiết kế ưa thích, chú trọng hơn. Vì vậy các đáp án cần đảm bảo
đồng nhất với nhau và phải sắp xếp rõ ràng, phù hợp.
Câu hỏi mở:
Câu hỏi mở là loại câu hỏi không có sẵn các phương án trả lời mà hồn
tồn do người được hỏi nghĩ ra và diễn đạt. Câu hỏi mở cho phép người trả
lời tự do tư duy, trình bày ý kiến quan điểm của mình về vấn đề được hỏi,
khơng bị gị ép vào những đáp án có sẵn như câu hỏi đóng. Cũng chính vì vậy
mà câu hỏi mở gặp phải một số nhược điểm sau đây:
Người được hỏi rất dễ hiểu sai, hiểu nhầm, hiểu không chính xác ý của
-
câu hỏi, dẫn đến khơng thống nhất trong cách trả lời. Ví dụ: với câu hỏi “Bạn
đánh giá khơng khí nơi bạn đang sống như thế nào?” Có thể thu được câu trả
lời là: “Ơ nhiễm”, “Khơ, hanh”, “Ồn ào”,… Vì vậy, việc thiết kế câu hỏi địi hỏi
sự rõ ràng, chính xác cả về từ ngữ, cách hiểu càng cao, càng khó khăn và
phức tạp.
Việc tổng hợp, xử lí thơng tin địi hỏi nhiều thời gian và cơng sức hơn
-
do phải phân loại các nhóm câu trả lời có thể có.
Chính vì vậy mà câu hỏi mở chủ yếu sử dụng khi thu thập ý kiến, quan
điểm hoặc thăm dị ý kiến, tìm hiểu những vấn đề mới nảy sinh, tạo bước mở
đầu trong cuộc nghiên cứu hoặc trong điều tra thử. Thông thường, câu hỏi
mở được sử dụng để thu thập các thông tin định tính.
18
18
Câu hỏi hỗn hợp (câu hỏi nửa đóng)
Do câu hỏi đóng và câu hỏi mở đều có những ưu nhược điểm riêng của
mình nên để khắc phục các nhược điểm của mỗi loại và thu thập thông tin
một cách đầy đủ, chính xác nhất thì các nhà nghiên cứu có thể sử dụng câu
hỏi hỗn hợp. Đây là loại câu hỏi kết hợp giữa câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Sau
khi đưa ra những đáp án cho câu hỏi, người nghiên cứu có thể đưa thêm lựa
chọn “Ý kiến khác”. Người được hỏi khi khơng tìm được phương án trả lời
phù hợp với những đáp án có sẵn có thể điền câu trả lời của mình vào phần
mở này. Vì vậy, câu hỏi hỗn hợp có thể tìm được hết các phương án trả lời có
thể có và xử lí thơng tin dễ dàng hơn, định hướng được cách hiểu câu hỏi
phù hợp.
Trong nghiên cứu CVM, thông thường, câu hỏi đóng và câu hỏi hỗn hợp
được sử dụng rộng rãi hơn. Do đặc điểm của nghiên cứu CVM là dựa trên các
giả định mà người nghiên cứu đưa ra về mức giá sẵn lòng chi trả của người
được hỏi cho hàng hóa dịch vụ mơi trường nên người được hỏi thường
khơng có căn cứ nào cụ thể cho mức giá mà mình đưa ra chi trả. Cũng khơng
tồn tại một thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ mơi trường nào tương tự
để người trả lời so sánh và đặt ra mức giá thích hợp cho hàng hóa mơi
trường đang nghiên cứu. Chính vì vậy, bằng việc sử dụng câu hỏi đóng, người
nghiên cứu có thể đưa ra những mức giá phù hợp để người được hỏi có căn
cứ suy nghĩ và lựa chọn. Trong trường hợp dùng câu hỏi hỗn hợp, người
được hỏi vẫn có thể đặt ra một mức giá mà họ hài lòng dựa trên những mức
giá mà người nghiên cứu đã cho trước. Bên cạnh đó, việc sử dụng các câu hỏi
đóng lựa chọn, tùy chọn cịn có thể thu thập các đánh giá định tính về thái
độ, quan điểm của người được hỏi về các chính sách, dự án mơi trường hay
sắp xếp thứ tự quan trọng của lợi ích hàng hóa mơi trường đem lại,… Nhìn
chung, câu hỏi đóng và câu hỏi hỗn hợp có ứng dụng lớn và linh hoạt trong
nghiên cứu CVM.
1.6
19
Yêu cầu về bảng hỏi trong nghiên cứu cvm:
19
Qua những phân tích ở trên ta có thể nhận thấy việc thiết kế một bảng hỏi
là rất khó khăn. Cho dù người nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm và cẩn trọng
trong việc thiết kế bảng hỏi đến đâu thì vẫn có thể phát sinh những vấn đề
khi sử dụng bảng hỏi trong điều tra hoặc xử lí thơng tin sau điều tra. Đối với
nghiên cứu cvm, thiết kế bảng hỏi càng khó khăn và phức tạp. Vấn đề mơi
trường chưa phải là vấn đề được nhiều người quan tâm và việc định giá dựa
trên giả định là tương đối phức tạp và khó hiểu với nhiều người. Vì vậy, bảng
hỏi phải được thiết kế để có thể thu hút được sự quan tâm của người được
hỏi và thu được thơng tin chính xác.
Về hình thức:
Bảng hỏi cần đáp ứng yêu cầu về mặt thẩm mĩ, có sức hấp dẫn nhất định
với người được phỏng vấn, dễ đọc và dễ ghi câu trả lời.
Đánh số: các câu hỏi nên được đánh số thứ tự một cách đầy đủ, không
-
bị bỏ sót, nhầm lẫn hay lặp lại. Trong trường hợp bảng hỏi gồm nhiều nội
dung lớn độc lập thì nên tách ra thành nhiều phần và đánh số chương để
người được hỏi dễ theo dõi.
Khoảng trống: cần lưu ý về khoảng trống giữa các câu hỏi để tạo điều
-
kiện dễ dàng cho việc xử lí thơng tin trong trường hợp người nghiên cứu,
người mã hóa muốn chú thích thêm. Đối với câu hỏi đóng, các hộp trả lời
phải được sắp xếp thẳng hàng, hợp lí. Đối với câu hỏi mở phải có đủ chỗ
trống cho độ dài của một câu trả lời trung bình.
Phơng chữ: nhìn chung phơng chữ phải rõ ràng, dễ đọc. Trong một câu
-
hỏi, do có thể hiểu theo các nghĩa khác nhau nếu các từ khác nhau được
nhấn mạnh nên các từ quan trọng cần phải được gạch chân hoặc in đậm để
đảm bảo sự chú ý thống nhất của người nghiên cứu và cách hiểu thống nhất
của người được hỏi.
Ví dụ đối với cùng một câu hỏi:
20
20
Tại sao bạn đến thăm vườn quốc gia Ba Bể? ----> nhấn mạnh tới mục đích
(câu trả lời có thế là sở thích, u cầu cơng việc,…)
Tại sao bạn đến thăm vườn quốc gia Ba Bể? ----> nhấn mạnh tới con
người (câu trả lời có thể là gia đình, cơ quan,…)
Kí hiệu: Các kí hiệu như mũi tên, hộp,… là những cơng cụ hình ảnh tiện
-
lợi và sinh động khơng chỉ hữu ích trong việc hướng dẫn người được hỏi về
cách thức trả lời bảng hỏi mà còn tạo điều kiện cho việc mã hóa, xử lí thơng
tin thuận tiện. Bảng hỏi nên được thiết kế theo cách mỗi loại câu hỏi có một
loại biểu tượng gắn liền. Ví dụ: hình mũi tên giúp nhận ra các “bước nhảy”,
hình trịn cho các “câu hỏi kiểm tra”, hình hộp cho các “câu hỏi đóng”,…
Độ dài bảng hỏi: trên thực tế rất khó xác định độ dài bảng hỏi tối ưu.
-
Nhưng thơng thường bảng hỏi khơng nên q dài vì có thể gây áp lực, căng
thẳng và mệt mỏi cho người được hỏi. Chỉ sử dụng những câu hỏi cần thiết
nhất, liên quan trực tiếp nhất tới nội dung nghiên cứu.
-
Về nội dung:
Phần đặt vấn đề: phần này phải nêu được mục đích, ý nghĩa và lợi ích
xã hội của việc nghiên cứu. Phần này thường diễn đạt dưới dạng một bức
thư ngắn, súc tích, giới thiệu về cuộc phỏng vấn và cách thức trả lời bảng hỏi
nói chung.
Phần câu hỏi: câu hỏi mở đầu phải được thiết kế nhẹ nhàng, đơn giản
-
và đáng quan tâm để tạo niềm tin cho người được hỏi, kích thích họ tham gia
trả lời. Chuỗi các câu hỏi tiếp theo phải được thiết kế theo một logic phù hợp
với dòng ý tưởng của người trả lời. Các câu hỏi nên được sắp xếp từ đơn giản
đến phức tạp với độ tập trung tư tưởng tăng dần, sau đó giảm dần về cuối.
Các câu hỏi về vấn đề riêng tư, nhạy cảm phải được diễn đạt tế nhị, khéo léo.
Những câu hỏi đơn điệu phải được sắp xếp xen kẽ, tránh đi liền nhau.
Phần chú thích, chỉ dẫn. Các chú thích, chỉ dẫn là rất cần thiết đặc biệt
-
là với vấn đề phức tạp, chuyên môn hay các câu hỏi với yêu cầu riêng. Các chỉ
21
21
dẫn và chú thích phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, nên được đánh bằng phông
chữ khác với câu hỏi và đặt ngay trên câu hỏi có liên quan hoặc phần câu hỏi
mà nó áp dụng.
Từ ngữ sử dụng trong câu hỏi phải trong sáng, dễ hiểu (hạn chế các từ
-
chun mơn địi hỏi trình độ hiểu biết sâu, các chữ viết tắt có nhiều cách
hiểu hoặc khó hiểu), tránh các từ chung chung, trừu tượng, đa nghĩa, khó
hiểu, các trạng từ khơng xác định: “thường”, “đơi khi”, “nói chung”,… Đối với
cùng một đối tượng phải sử dụng thống nhất một định nghĩa trong toàn bộ
bảng hỏi.
Tránh cách diễn đạt vòng vo, nhiều mệnh đề, nhiều câu phụ, những
-
câu hỏi đa nghĩa, diễn đạt phủ định hoặc phủ định kép, các câu hỏi dẫn dắt,
hàm ý sẵn câu trả lời,…
Có thể tóm tắt lại 4 tiêu chí phải tn theo khi tiến hành thiết kế bảng hỏi,
đó là: Ngắn gọn, có mục đích, đơn giản và cụ thể.
1.7
Ưu điểm và nhược điểm khi vận dụng bảng hỏi trong nghiên cứu cvm và
một vài đề xuất khắc phục:
Ưu điểm: Bằng việc sử dụng bảng hỏi, người nghiên cứu có thể dễ
-
dàng thu thập giá sẵn lòng trả của các cá nhân khác nhau cho cùng một hàng
hóa dịch vụ mơi trường. Từ đó, tổng hợp và định giá chính xác giá trị của
hàng hóa mơi trường này. Điều này đảm bảo tính khách quan, xác thực của
thơng tin trong khi cách thức tiến hành là tương đối đơn giản, phạm vi ứng
dụng rộng lớn.
Nhược điểm: Đối với một bảng hỏi cvm, người trả lời hồn tồn phản
-
ứng với những tình huống giả định nêu ra trong bảng hỏi và họ cũng đưa ra
những câu trả lời về mức giá sẵn lòng trả giả định mà không bị chi phối bởi
quy luật của thị trường thực. Nhiều người khi nhận định được rằng tình
huống đưa ra hồn tồn khơng có thực và họ thực tế không phải trả bất cứ
khoản tiền nào nên sẵn sàng đưa ra mức giá rất cao hoặc rất thấp, không dựa
22
22
trên căn cứ nào. Một nhược điểm khác là vì tình huống là giả định nên người
nghiên cứu tùy theo mục đích của mình mà có thể đưa ra những chỉ dẫn, gợi
ý nhằm giúp người được hỏi hình dung cụ thể về lợi ích hàng hóa mơi trường
nhưng thực chất là định hướng câu trả lời của họ. Thông tin từ bảng hỏi vì
thế có thể bị bóp méo hoặc làm cho sai lệch.
Trong tình huống này, cần hạn chế những câu hỏi dẫn dắt của người
nghiên cứu, các gợi ý có tính chủ quan gây ảnh hưởng tới đánh giá của người
được hỏi. Bên cạnh đó cũng cần sử dụng các câu hỏi kiểm tra, logic hoặc các
câu hỏi lọc để đánh giá mức độ chính xác, phù hợp của câu trả lời.
Phiếu khảo sát giá trị của vườn quốc gia Ba Bể - Bắc Kạn
Xin bạn vui lịng cung cấp cho chúng tơi một số thơng tin bằng cách trả
lời các câu hỏi dưới đây. Chúng tôi xin đảm bảo các thông tin mà bạn
cung cấp được bảo mật và chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu
khoa học. Xin chân thành cảm ơn bạn!
Phần 1: Mức sẵn lòng chi trả của du khách:
1.
Bạn đã từng nghe nói về vườn quốc gia (VQG) Ba Bể trước đây chưa?
Có
Khơng
Vườn quốc gia (VQG) Ba Bể được thành lập năm 1992 với diện tích
7610ha. Đây là một hệ thống rừng nguyên sinh trên núi đá vôi bao bọc
23
23
xung quanh hồ nước trong xanh. VQG Ba Bể có nhiệm vụ bảo tồn hệ sinh
thái tự nhiên, bảo tồn nguồn gen động thực vật quý hiếm trên cạn, dưới
nước và cảnh quan thiên nhiên; phục hồi hệ sinh thái rừng tự nhiên; thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, tham quan du lịch và giáo dục bảo tồn.
Ở đây có tới 417 lồi thực vật và 299 lồi động vật có xương sống. Có nhiều
loại động vật quý hiếm như phượng hồng đất, gà lội, voọc mũi hếch, cá
cóc Tam Đảo…
2.
Theo bạn đâu là lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ môi trường tự nhiên và cả
tài nguyên thiên nhiên của khu vực VQG? (trực tiếp ghi 1; gián tiếp ghi 2;
không biết, không rõ ghi 0).
Thu nhập từ gỗ củi
Lợi ích từ việc ngăn ngừa xói mịn
Thu nhập từ hoạt động du lịch
Lợi ích từ việc hập thụ khí thải
Thu nhập từ cây dược liệu
Giá trị cảnh quan
Nguồn lợi thủy sản
Giá trị giáo dục và nghiên cứu
Để lại các nguồn gen quý cho thế hệ mai sau
3.
Bạn có từng nghe khái niệm Đa dạng sinh học trước đây chưa?
1. Có
2. Chưa
Đa dạng sinh học được định nghĩa như là tổng số gen, số loài và hệ sinh
thái của một vùng. Đa dạng di truyền chỉ sự đa dạng của gen trong các loài.
Đa dạng loài chỉ nhiều loài khác nhau trong một vùng. Đa dạng hệ sinh thái
chỉ sự đa dạng các hệ thống sống và môi trường của chúng trong một
vùng…
4.
Theo bạn có cần thiết phải duy trì đa dạng sinh học tại VQG Ba Bể không?
24
24
Rất cần
Cần nhưng khơng quan trọng
Khơng cần thiết
5.
Giả sử có một Quỹ bảo tồn được thành lập nhằm bảo tồn các giá trị của
VQG Ba Bể đang cần đến sự đóng góp của bạn. Vậy bản có sẵn sàng đóng
góp một khoản tiền cho mục đích đó hay khơng?
Có → chuyển tới câu 7
6.
Khơng
Nếu khơng sẵn lịng, lý do nào khiến bạn từ chối?
1. Tôi không quan tâm tới vấn đề này
2. Tôi đã mất quá nhiều tiền cho chuyến đi
3. Tôi cảm thấy việc cải thiện môi trường của VQG là không quan
trọng
4. Tôi không tin vào việc chi trả sẽ giải quyết được vấn đề
5. Tôi tin rằng các đối tượng khác cần chi trả như Chính phủ và các tổ
chức khác
6. Không rõ, không trả lời
7. Nếu đồng ý, bạn sẽ bằng lòng trả thêm mức cao nhất là bao nhiêu
trong số các mức dưới đây ngoài mức phí tham quan và chi phí du lịch của
bạn:
0.5 USD/ 7,000 đồng
1.5 USD/ 21,000 đồng
2.0 USD/ 28,000 đồng
2.5 USD/ 35,000 đồng
3.0 USD/ 42,000 đồng
3.5 USD/ 49,000 đồng
4.0 USD/ 56,000 đồng
4.5 USD/ 63,000 đồng
25
1.0 USD/ 14,000 đồng
5.0 USD/ 70,000 đồng
25