TÊN ĐỀ TÀI:
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN
1939-1945 VÀ BÀI HỌC RÚT RA TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
MỤC LỤC
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dân tộc Việt Nam chúng ta trước đây đã có những năm tháng vơ cùng khó khăn.
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, mọi khó khăn vướng mắc đều
được giải quyết một cách tài tình. Đảng đã có nhiều đóng góp cho nền độc lập và dân
chủ của Việt Nam. và dân tộc Việt Nam ngày nay.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã vạch ra chủ trương hiện thực hóa Cương lĩnh
chủ đề nổi bật trong từng thời kỳ lịch sử: Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc,
Đường lối kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Đường lối của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng quyết định những vấn đề và phương pháp
chiến lược cách mạng. Đảng là người tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng thực
hiện con đường dẫn đến thắng lợi hồn tồn.
Một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử Việt Nam là từ năm 1939
đến năm 1945, khi Đảng thúc đẩy chiến thắng của Việt Nam. Đồng thời, những bài học
kinh nghiệm để lại cho thế hệ sau và cách áp dụng chúng vào công trường quốc gia
trong bối cảnh thế giới đang thay đổi, bị ảnh hưởng bởi chiến tranh thương mại Mỹ Trung và dịch bệnh tấn cơng hiện nay.Vì vậy, hơm nay em xin trình bày đề tài: “Sự lãnh
đạo của Đảng giai đoạn 1939-1945 và bài học từ giai đoạn hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
Do còn hạn chế về kiến thức và lý thuyết nên trong quá trình thực hiện bài báo
này khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của giảng
viên để tác phẩm được hoàn thiện hơn, xin chân thành cảm ơn.
3
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRONG GIAI ĐOẠN 1939 – 1945
1.1 Tình hình thế giới giai đoạn 1939 – 1945
Vào tháng 9-1939, Đức tấn công Ba Lan, Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến với
Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Tháng 4 -1940, Quân Đức đánh thẳng vào Pháp. Nước Pháp bại trận sau 6 tuần
chiến đấu và phải ký hiệp định đình chiến vào ngày 20 – 6 – 1940. Theo đó, chính phủ
Pháp, do Pê-Tanh làm Quốc trưởng, nắm quyền tự trị và làm tay sai cho Đức.
Tại châu Á, Nhật Bản ráo riết chuẩn bị nhảy vào cuộc chiến, sau khi chiếm được
phần Đông Bắc Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Tháng 9 – 1940, quân Nhật nhảy vào
chiếm khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
1.2 Tình hình Việt Nam trước năm 1939
Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1939, cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển
biến quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập đánh dấu một bước ngoặt
trọng đại trong lịch sử cách mạng nước ta, đánh một nốt son chói lọi trên con đường phát
triển của dân tộc. Năm 1930-1931, phong trào Xô Viết nổ ra ở Nghệ An, Hà Tĩnh, nhân
dân nổi dậy giành chính quyền, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giành
độc lập của cả nước.
Nhiều hội nghị đã được tổ chức như Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam (10-1930) đã đưa ra Cương lĩnh chính trị và đề
ra đường lối cách mạng của dân tộc. Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông
Dương (3-1935) đã khôi phục một hệ thống gồm tổ chức từ trung ương đến địa phương
và tồn thể các chức quần chúng.
Nói chung, đây là một giai đoạn khó khăn của Đảng, thách thức một lực lượng
chính trị mới thành lập ,cịn non trẻ trước sự áp bức tàn bạo của thực dân, Nguyễn Ái
Quốc đã bị bắt giam ở Trung Quốc. và tình hình thế giới có nhiều thay đổi.
4
CHƯƠNG 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI PHĨNG
DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN 1939-1945
2.1 Q trình lãnh đạo và sự chuẩn bị của Đảng cho Cách mạng tháng Tám
Năm 1939, Chiến tranh Thế giới bùng nổ và cuốn nhiều quốc gia và dân tộc vào
vịng xốy của nó trong một viễn cảnh rất ảm đạm. Lúc bấy giờ, Đảng Cộng sản Đơng
Dương nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật và chuyển trọng tâm hoạt động. Tập trung
vào vùng nông thôn trong khi cũng tập trung vào thành phố. Khi phân tích cuộc Thế
chiến thứ hai , Đảng đã dự báo về một phong trào cách mạng khi tất cả những người bị
áp bức sẽ thừa cơ nổi dậy để phá bỏ xiềng xích nơ lệ kéo dài hàng thế kỷ qua. Đảng Cộng
sản đã nhận định rằng chiến tranh chính là chất xúc tác thúc đẩy thời cơ cách mạng nhanh
chóng chín muồi, đồng thời phải chuyển từ tích lũy lực lượng sang trực tiếp đấu tranh lật
đổ cường quyền.
Đối với cách mạng Việt Nam, cuộc chiến tranh này đã tác động mạnh mẽ và trực
tiếp, đặt ra nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược mới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (11-1939) họp tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định) phân tích tình hình và chỉ
rõ: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đơng Dương khơng có con đường nào khác
hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay
da vàng để giành lấy giải phóng độc lập” 1. Đảng Cộng sản Đơng Dương coi việc làm cho
mỗi cá nhân “có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự liên quan mật thiết của vận
mạng dân tộc với lợi ích cá nhân mình; đặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác,
thống nhất lực lượng dân tộc”2 là điều kiện cốt yếu, là con đường duy nhất đánh đổ đế
quốc Pháp và giành độc lập dân tộc.
Tuy nhiên, sau nhiều ý kiến trái chiều về đường lối cách mạng trong Đại hội
Trung ương 11-1940, Trung ương Đảng vẫn còn nhiều trăn trở, chưa thật dứt khoắt với
chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Phải đến tháng 5-1941,
Nguyễn Ái Quốc chủ trì phiên họp lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tạo
1 Nxb Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr.536
2 Nxb Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr.544
5
nên bước ngoặt quan trọng cả về nhận thức và phương hướng chỉ đạo hoạt động thực tiễn
của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Hội nghị đã nêu rõ những nội dung quan trọng:
Một là, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi vì nhân
dân ta đang chịu cảnh “một cổ ai trịng”, tình thế hết sức khó khăn dưới hai tầng áp bức
Pháp – Nhật, “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong
khơng lúc nào bằng”3. Từ đó, xác định rõ kẻ thù của cách mạng chính là: “Pháp - Nhật
ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đơng
Dương”.
Hai là, vận động, tổ chức và đồn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận dân
tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức của Mặt trận Việt Minh. Hội nghị quyết
định thay đổi chính sách, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết một cách
nhuần nhuyễn quan hệ giữa cách mệnh phản đế và điền địa. Đặt nhiệm vụ tập hợp mọi
lực lượng đem tất cả ra quyết giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng Cộng Sản
Đông Dương tập trung “lực lượng cách mạng tồn cõi Đơng Dương, khơng phân biệt thợ
thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ”, với tiêu chí duy nhất: u nước
thương nịi, đoàn kết là sức mạnh, chia rẽ là yếu – trên quan điểm đó, một mặt, Đảng ra
sức kêu gọi nhân dân đồn kết một lịng, mn người như một cùng chung tay vì việc
nghĩa; mặt khác, đánh giá đúng thái độ của các lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội
để có chủ trương đồn kết, tập hợp, “thêm bạn bớt thù”. Đảng Cộng sản Đông Dương
nhất quán thực hiện chính sách hợp tác giữa các lực lượng cách mạng trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Đây là tư duy mới xem tất cả mọi người dân Việt Nam yêu
nước là thành phần nồng cốt, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc so với lối chủ
trương cũ xem hai lực lượng công – nông là lực lượng chính.
Ba là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của mỗi nước ở Đông Dương,
thực hiện chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật, các dân tộc trên
cõi Đông Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành lập
3 Nxb Chính trị Quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 112
6
một quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng” 4.
Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đơng Dương một mặt trận
riêng, đồn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc cùng chống kẻ thù chung.
Bốn là, phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng
một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến đẩy nhanh công tác
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo
một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Những ước chuyển biến lớn nhất mà hội nghị đã mang lại khơng chỉ là mang lại
làn gió đổi mới trong sự nghiệp cách mạng mà còn là thống nhất về việc thành lập Việt
Nam Độc lập Đồng minh Hội, hay còn gọi là Việt Minh.
Trong giai đoạn 1941-1943, Phát – Nhật tăng cường đàn áp phong trào cách
mạng Việt Nam, nhiều quyết định sai lầm được đưa ra dẫn đến các cuộc khởi nghĩa thất
bại, nhiều chiến sĩ cấp cao tại mặt trận Việt – Minh bị xử bắn, Hồ Chí Minh bị tống giam
tại Trung Quốc trong một năm, tình thế rất khó khăn. Trước kẻ thù tàn bạo, các chiến sĩ
cộng sản đã nêu cao ý chí kiên cường, bất khuất và giữ vững niềm tin vào thắng lợi tất
yếu của cách mạng.
Mặc dù trải qua nhiều khó khăn, nhưng với chủ trương “liên hiệp hết thảy các
giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn
giáo và xu hướng chính trị”5, mặt trận Việt Minh đã nhanh chóng có được sự ủng hộ
khơng chỉ của các tầng lớp cơng nhân, nơng dân lao động, mà cịn của tầng lớp trí thức,
địa chủ yêu nước tiến bộ, tư sản dân tộc, tăng ni, giáo sĩ, phật tử. Tầng lớp trí thức tiến bộ
nghiêng về phía Việt Minh, hoạt động trong các hội truyền bá chữ quốc ngữ. Từ miền núi
đến miền xi, từ ngồi Bắc vào trong Nam, một cao trào cứu nước phát triển mạnh mẽ,
4 Nxb Chính trị Quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 113
5 Nxb Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Hà Nội, 2000, tr.461
7
khối đồn kết dân tộc lớn mạnh chưa từng có, tạo bước đột phá về chất cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
Trên quan điểm “cuộc cách mạng Đông Dương phải được kết liễu bằng một cuộc
khởi nghĩa võ trang”6, về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Trung ươngĐảng
quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội du kích
hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu bảo vệ nhân dân, vừa phát
triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm
trung tâm. Tháng 11-1941, tiểu đội du kích thoát ly đầu tiên ở Cao Bằng (gồm 13 người)
được thành lập. Cuối 1944, trước yêu cầu cấp bách của tình hình, khi ngày khởi nghĩa
đang đến gần, căn cứ vào điều kiện thực tiễn, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập lực
lượng vũ trang làm đòn bẩy cho cao trào cách mạng toàn quốc bùng nổ. Chọn trong hàng
ngũ những đội du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ, đội viên kiên quyết, hăng hái nhất,
tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực. Tháng12-1944, Đội Việt Nam Tuyên
truyền giải phóng quân ra đời. Sau khi thành lập vào ngày, Đội Việt Nam tun truyền
giải phóng qn đã lập hai chiến cơng vang dội hạ đồn Phai Khắt (ngày 25-12) và đồn Nà
Ngần (ngày 26-12).
Lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có một loại hình quân đội kiểu mới do Đảng
Cộng Sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện.
Một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mang bản chất
giai cấp cơng nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; chiến đấu vì mục tiêu đấu tranh
dành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.2 Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày khởi nghĩa
Đầu năm 1945,Thế chiến thứ hai đang dần khép lại, quân Đồng Minh thắng chỉ
còn là vấn đề thời gian. Ở Việt Nam, Pháp ráo riết chuẩn bị, chờ qn Đồng Minh vào
Đơng Dương đánh Nhật thì sẽ khơi phục lại quyền thống trị cho Pháp. Nhật đã tiên liệu
trước điều này, ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính Pháp, độc chiếm Đơng Dương,
6 Nxb Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr.129
8
dựng chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim lên làm bù nhìn, phục vụ cho nền thống trị
của chủ nghĩa phát xít.
Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ngày 123- 1945 đưa ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị nhận
định: cuộc đảo chính đã tạo nên khủng hoảng chính trị sâu sắc, song những điều kiện của
cuộc tổng khởi nghĩa vẫn chưa chín muồi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân
dân Đơng Dương. Khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật” được thay thế bằng “Đánh đuổi
phát xít Nhật”.
Ở khu căn cứ địa Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và
Cứu quốc quân phối hợp lại thành một lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng
hàng loạt xã, châu, huyện.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh rời Pác Bó về Tân Trào (Tuyên Quang) làm trung
tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước. Ngày 15-5-1945, Việt Nam Cứu quốc quân
và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam Giải phóng qn.
Dựa vào tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng đã ra sức tổ chức
một cách bài bản, quy mô rộng lớn, thống nhất từ Bắc xuống Nam, và chỉ đợi thời cơ
chín mùi để lần đầu tiên thốt khỏi ách thống chính của chủ nghĩa thực dân – phát xít.
2.3 Cách mạng tháng Tám bùng nổ
Giữa tháng 8-1945, cục diện thế chiến thứ hai đã ngã mũ, quân đồng minh
tiếncông mạnh mẽ vào các vị trí của quân đội Nhật Bản ở Châu Á – Thái Bình Dương.
Giữa trưa 15-8-1945, Nhật hồng tun bố đầu hàng Đồng minh vơ điều kiện trên sóng
phát thanh của Nhật bản.
Tuy nhiên, thách thức mới lại đến, Hội nghị Ianta tháng 2 – 1945 và Hội nghị
Posdam tháng 7-1945 đều thống nhất cho Pháp tiếp tục cai quản Đông Dương và quân
Đồng minh sẽ vào Việt Nam để áp giải lính Nhật. Sau khi vào được Việt Nam, quân
Đồng minh sẽ phối hợp với Pháp đặt lại chế độ thực dân cũ là rất cao. Vì thế thời cơ cách
9
mạng chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định: từ khi Nhật đầu hàng Đồng minh đến
trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
Ngày 12-8-1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu.
Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ba Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, phát
đi lệnh tổng khởi nghĩa trên cả nưóc.
Diễn biến cuộc tổng khởi nghĩa:
Tại miền Bắc, chiều 16 – 8 – 1945, theo lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, một đơn vị
Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về giải phóng
thị trấn Thái Nguyên. Ngày 18-8-1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng
Nam giành được chính quyền tỉnh luỹ sớm nhất cả nước.
Uỷ ban Khởi nghĩa Hà Nội quyết định giành chính quyền vào ngày 19-81945,hàng vạn dân nội, ngoại thành xuống đường biểu tình. Quần chúng cách mạng đã
lần lượt chiếm được Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh Sát Trung ương, Sở Bưu điện,…
Ngay trong đêm, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội dành thắng lợi.
Ở Huế, ngày 20 – 8, Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Ngày 23-8, Uỷ ban
lãnh đạo quần chúng nhân dân đã chiếm chính quyền thành cơng.
Tại Sài Gịn, Xứ uỷ Nam Kì quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh vào
ngày 25-8. Các đơn vị “Xung phong cơng đồn”, “Thanh niên tiền phong”, cơng nhân,
nơng dân các tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, kéo về thành phố. Quần chúng
chiếm Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Bưu điện,… giành được chính quyền ở Sài Gịn.
Nhiều nơi, từ rừng núi, nông thôn, thành thị tiếp nối nhau khởi nghĩa. Đồng Nai
Thượng và Hà Tiên là các tỉnh giành lấy chính quyền sau cùng vào ngày 28 – 8.
Ngày 2 – 9 – 1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ lầm thời Việt Nam, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế
giới: nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành lập.
10
Sự kiện này đã mở ra một bước ngoặc lớn cho lịch sử dân tộc ta. Nó đã phá tan
xiềng xích nơ lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm và ách thống trị của phát xít Nhật trong 5
năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị hàng chục thế kỷ và thành lập nên nhà nước
Việt Nam – nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương trong giai đoạn 1939 – 1945 đã
chứng tỏ đường lối cách mạng đúng đắn dựa trên cơ sở lý luận Mác – Lênin được vận
dụng sáng tạo vào hoàn cảnh ở Việt Nam. Đội ngũ các cán bộ Đảng và Việt Minh từ
trung ương đến địa phương đã linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát
động quần chúng dành chính quyền. Do đó, Cách mạng tháng Tám là một chiến thắng tất
yếu và có tính lịch sử, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. Kỷ nguyên nhân
dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, vận mệnh dân tộc, kỷ nguyên giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.
11
CHƯƠNG 3: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
3.1 Vận dụng sáng tạo, và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin gắn liền thực
tiễn và nắm bắt tình hình thế giới
Trong giai đoạn 1930-1938, chủ trương đường lối, chính sách của Đảng cịn
mang tính rập khn, đặt nặng lý thuyết, chưa nắm bắt được thực tiễn của xã hội. Khác
với Liên Xô – trước cách mạng tháng Mười, dù người dân Nga vẫn bị bốc lột nặng nề
nhưng nước Nga vẫn là nước độc lập, do người Nga làm chủ. Nhiệm vụ cấp thiết của họ
là phải lật độ giai cấp thống trị là phong kiến – tư sản, đưa giai cấp công nhân lao động
Nga lên nắm quyền. Vì vậy mâu thuẫn chính của nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên là
mâu thuẫn giai cấp. Trong khi đó, người dân Việt Nam khơng chỉ bị bốc lột bởi giai cấp
địa chủ phong kiến, mà còn bởi đế quốc thực dân. Luận cương chính trị tháng 10- 1930
muốn giải quyết hai mâu thuẫn đó đồng thời. Tuy nhiên, với lực lượng cịn mỏng, ta yếu
địch mạnh thì khơng thể thực hiện theo chủ trương đã đề ra. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí
Minh, Đảng ta đã thấy được thực tiễn của Việt Nam,coi độc lập dân tộc là trên hết, đoàn
kết tất cả các tầng lớp yêu nước Việt Nam lại và đi đến thắng lợi cuối cùng.
Trước mắt, trong giai đoạn cơng nghiệp hố – hiện đại hoá hiện nay, Đảng ta phải
xác định mục tiêu theo tình hình thực tiễn xã hội, đổi mới và hồn thiện hệ thống chính
trị. Dựa vào thực tiễn cho thấy nước ta không thể bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa mà
tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa được, mà phải dựa vào tư bản chủ nghĩa để có bước nhảy
lên chủ nghĩa xã hội. Chính phủ đã vận dụng kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – lênin và thực
tiễn bằng cách cho phép nền kinh tế nhiều thành phần được hoạt động, thu hút FDI(Đầu
tư trực tiếp nước ngồi) từ khác nơi trên thế giới, khơng chỉ làm bạn với các nước xã hội
chủ nghĩa mà còn chủ động giao lưu học hỏi, chuyển giao công nghệ với tất cả các nước
trên thế giới. Trong bối cảnh mới, Việt Nam cần tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại Cách mạng công nghiệp
4.0. Theo đó, Việt Nam cần phát huy vị thế chiến lược về địa - chính trị, địa - kinh tế, địa
- công nghệ... để xây dựng chiến lược tăng cường kết nối, như kết nối hạ tầng “cứng” (về
12
giao thông, cảng biển,...) và hạ tầng “mềm” (về kỹ thuật số, dữ liệu, nhân lực...). Kết nối
giữa các nhóm nước, tiểu vùng trong ASEAN và các nước trong Liên Hiệp Quốc.
Tuy nhiên, Chính phủ cho phép nền kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ nhưng
không nên để một số tập đoàn trong và ngoài nước làm lũng đoạn nền kinh tế, ảnh hướng
đến chính trị Việt Nam để phục vụ mục đích các nhân của họ . Chính phủ nên và sẽ là
một trong những đầu tàu dẫn dắt các thành phần kinh tế đi theo một định hướng xã hội
chủ nghĩa chung, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
Ngay từ thời kỳ đầu của dịch bệnh, Covid-19 chỉ mới lây lan sang một vài nước
và chủ yếu tại Trung Quốc, ngay lúc các nước còn chủ quan và xem thường loại Virus
này, Đảng và Chính phủ đã chủ động phịng ngừa dịch bệnh, cách ly tồn bộ các trường
hợp F0, F1, F2, xây dựng mạng lưới y tế vững vàng trước dịch bệnh, tuyên truyền cho
toàn bộ người dân biết về độ nguy hiểm , các triệu chứng của loại bệnh này. Không
những thế, khi dịch mới xuất hiện ở một vài địa phương, nhưng chính phủ vẫn chủ trương
dãn cách toàn bộ xã hội toàn nước Việt Nam. Kết quả, dải đất hình chữ S đã là một trong
những nước phòng chống dịch tốt nhất năm 2020, tạo điều kiện ổn định kinh tế - chính trị
xã hội. Một phần của những chính sách này được lấy từ bài học lịch sử sau sắc giai đoạn
1939-1945 , thời kỳ mà Trung ương Đảng luôn luôn nắm bắt tình hình của cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai mà đưa ra những quyết định chủ trương phù hợp.
3.2 Đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh bất diệt đánh tan mọi kẻ thù
Bài học lịch sử vẫn cịn đó, khi dân tộc Việt Nam đồng lịng, đồn kết lại, có thể
đánh đuổi bất cứ quân xâm lược nào, cho dù đó có là những cường quốc Pháp, Nhật,…
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam có thể “kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”.
Mỗi người dân Việt Nam phải nhận thức được rằng Đại đoàn kết dân tộc trên cơ
sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng thực sự là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
13
quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Khi nước ta đang có sự phát triển vượt bậc, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội,
thì vẫn cịn đâu đó những thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta với những chiêu
trò “diễn biến hồ bình”. Khi mạng xã hội đang phát triển như vũ bão, người trẻ chưa đủ
kiến thức đang chê bai các chính sách của Nhà nước, lợi dụng nhiều kẻ hở chưa được giải
quyết, các thế lực phản động ra sức đăng những bài viết, video bịa đặt hoặc tự dựng lên
để xuyên tạc tình hình, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là vấn đề nhức nhối
cần được giải quyết nhất trong thời bình để bảo vệ nền độc lập và sự đoàn kết của dân tộc
Việt Nam.
Năm 2020, lũ lụt ở miền trung diễn ra liên tục, triền miên, lợi dụng tình hình khó
khăn đang diễn ra, đã có hành vi chia sẻ bài viết mang tính cóp nhặt, sao chép những hình
ảnh lấy từ những nguồn thơng tin khơng chính xác trên mạng và đổ lỗi cho đồng bào
miền Trung. Và cho rằng đồng bào miền Trung đã quay lưng một cách đáng trách với
những việc làm từ thiện của nhân dân cả nước.
Mục đích của việc này là để tạo nên sự kì thị, tạo nên những hình ảnh xấu về
người dân vùng lũ, nhằm khoét sâu vào tâm lý, tư tưởng, thái độ và cách nhìn nhận của
những người đã và đang có ý định làm từ thiện sẽ suy nghĩ lại, thậm chí dừng hành động
cứu trợ của mình. Việc này gây mất đồn kết trong nhân dân.
Do đó, nếu cứ tiếp tục để điều này diễn ra thì hậu quả sau này sẽ khơn lường.
Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách về phịng chống tin giả, tin sai sự thật, phạt nhiều
cá nhân có dấu hiệu vi phạm cụ thể. Hơn nữa, Đảng cần phải tuyên truyền, chia sẻ thơng
tin về mục đích của những thơng tin giả, sai sự thật nhằm tác động trực tiếp vào tư tưởng,
tâm lý tị mị, đổ lỗi cho chính quyền và một bộ phận người dân. Thơng qua việc kích
động, phá hoại tư tưởng, gây chia rẽ này, các đối tượng ý đồ tập hợp một bộ phận quần
chúng nhân dân thiếu hiểu biết, nhận thức sai lệch để hình thành những lực lượng chống
Đảng, Nhà nước sau này.
14
Tinh thần đồn kết dân tộc khơng chỉ thế hiện trong chiến tranh dành độc lập, mà
còn lan tỏa ở tất cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội ,đời sống,… từ trung ương đến địa
phương. Việc nâng cao khối đại đoàn kết đang là điều hết sức quan trọng để đất nước
giàu mạnh, nhân dân ấm no. Vì thế, Mặt trận Tổ quốc phải tiếp tục phải làm tốt hơn vai
trò tập hợp, lắng nghe ý kiến nhân dân để phản ánh với các cơ quan đảng và nhà nước ở
Trung ương cũng như các địa phương. Chủ động phối hợp với chính quyền giải quyết có
hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc ngay tại cơ sở, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân. Luôn đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết
những khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng
dân; đồng thời, phát huy quyền làm chủ của nhân dânthơng qua Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể quần chúng.
3.3 Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng sự thắng lợi của Cách
mạng
Giai đoạn 1939-1945, con đường cách mạng đang lúc đầy cam go, thử thách
nhất, trong lúc Đảng vẫn là một tổ chức chưa nhiều người dân biết đến, đến tận cuối năm
1944 mới thành lập một đội qn với vũ khí thơ sơ, lạc hậu và phải đối phó với những
bọn thực dân phát xít hùng mạnh, nhưng Đảng ta vẫn ln vững vàng chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua bao phong ba bão táp, qua bao thác ghềnh để đi tới bến bờ
vinh quang.
Trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta, niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo
của Đảng được tạo dựng từ năng lực hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị đúng
đúng đắn và những thắng lợi to lớn đạt được trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng với tất cả sự
khiêm tốn của người cách mạng, có thể nói rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, uy tín và vị thế như ngày nay.
Trong bối cảnh tồn cầu hố, khoảng cách của các quốc gia đang ngày càng bị
thu hẹp và xố nhồ, q trình giao lưu, học hỏi lẫn nhau đang diễn ra nhanh chóng. Sự
bùng nổ thơng tin đã ảnh hưởng nhất định đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
15
Khơng vì thế mà nhân dân Việt Nam đã qn nhưng công lao của Đảng, đặc biệt phần lớn
thế hệ trẻ, sinh viên vẫn đang có niềm tin tuyệt đối vào Đảng. Tuy nhiên, hiện nay một bộ
phận thanh niên đang giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng,
xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thậm chí, một số ít thanh niên bị lơi kéo, có
những việc làm đi ngược truyền thống của Đoàn, trái với mục tiêu của Đảng, của dân tộc.
Để giải quyết vấn đề cần phải phối hợp nhiều ban ngành đoàn thể lại với nhau:
Một là, tập trung vào việc xây dựng, mở rộng mạng lưới các trung tâm hoạt động
thanh niên, nhà văn hóa thiếu nhi,... trên cơ sở nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và
kinh phí xã hội hóa; tổ chức các điểm văn hóa thanh niên theo cụm dân cư; tổ chức các
hội thi, hoạt động văn hóa dân gian; tổ chức các cuộc vận động sáng tác tác phẩm văn
học, nghệ thuật dành cho thanh niên.
Hai là, làm tốt công tác truyền thông của Đồn. Trong đó, tận dụng ưu thế tích
cực của các mạng xã hội trong việc tiếp cận và truyền đạt nội dung tuyên truyền, định
hướng giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hố cho đồn viên, thanh niên.
Ba là, phát huy vai trò “tự phát hiện và tự chữa bệnh” của mỗi thanh niên. Theo
đó, cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho thanh niên nâng cao năng lực tự
nhận thức và chỉ ra những biểu hiện “lâm sàng” đối với bạn bè, đồng chí, đồng đội; đồng
thời, cần có cơ chế để khuyến khích thanh niên tích cực, chủ động phịng ngừa “bệnh” ở
mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện, hồn cảnh với tinh thần xung kích của tuổi trẻ.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi
các chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng
thời, quyết định vị trí, vai trị của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
3.4 Chớp lấy thời cơ để tiến đến thắng lợi
Đảng ta đã rất khôn ngoan khi lựa chọn thời cơ giữa lúc quân Phát xít đầu hàng
và quân đồng minh chưa tiến vào nước ta. Cuộc khởi nghĩa chỉ diễn ra 15 ngày nhưng đã
dành lấy chính quyền ở tồn Việt Nam mà chưa cuộc khởi nghĩa nào lúc trước thực hiện
được.
16
Nếu biết vận dụng, nắm bắt tốt cơ hội và ln nỗ lực vượt qua khó khăn, thử
thách thì sẽ biến điều bất lợi thành có lợi.Tình hình thế giới và trong nước đều có những
thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đang xen lẫn nhau.
Chúng ta cần nhìn nhận và xác định minh bạch những khó khăn, thách thức, rào
cản cần phải phá bỏ và vượt nó từ đó bắt thêm được nhiều cơ hội mới, biệt là thực trạng
nhiều cán bộ, Đảng viên có xu hướng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống được nhân
dân phản ánh qua những phương tiện truyền thống đại chúng, gây xói mịn lịng tin của
nhân dân đối với nhà nước. Nếu phá bỏ được những rào cản này, cũng chính là cơ hội để
chúng ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao sức chiến đấu của
Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Từ bài học về sự lãnh đạo Đảng, đối với những cá nhân, đặc biệt là sinh viên, có
thể tự mình nâng cao ý thức, chủ động học tập, rèn luyện một phẩm chất đạo đức cách
mạng, để có thể nắm bắt được thời cơ, đưa bản thân mình lên tầm cao mới thơng qua
những chương trình, cuộc thi mà trường, xã hội tổ chức. Từ đó, sinh viên có nền tảng
phục vụ cho cơng việc sau này, góp phần xây dựng một nước Việt Nam vững mạnh.
17
KẾT LUẬN
Sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trong giai đoạn 1939 1945 thắng lợi đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu, làm phong phú thêm hệ thống lý luận của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những bài
học kinh nghiệm của Đảng vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa tích cực đối với sự
nghiệp đổi mới đất nước Việt Nam giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc đối phó với dịch
bệnh. Với phương châm “chống dịch như chống giặc”, chúng ta tin tưởng việc phát huy
những bài học kinh nghiệm đã có để áp dụng cho giai đoạn hiện nay.
Đảng đã tổ chức nhiều hội nghị nhằm thay đổi đường lối của cách mạng Việt
Nam dựa trên thực tiễn xã hội. Với sự chuẩn bị chu đáo cộng với sự hy sinh của các đồng
chí cán bộ, Đảng đã hợp nhất nhân dân Việt Nam lại làm một, tiến tới cuộc Tổng khởi
nghĩa toàn quốc. Chứng minh được chiến thắng của cách mạng tháng Tám là chiến thắng
mang tính tất yếu của lịch sử. Cách mạng tháng Tám cũng là niềm tự hào của Đảng, Nhà
nước và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ này đã đánh dấu nhiều sự kiện trọng đó
là : Sự thành lập của Mặt trận Việt Minh và Đội tuyên truyền giải phóng quân – tiền thân
của quân đội nhân dân Việt Nam.
Đảng để lại vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa tích cực đối với sự nghiệp đổi
mới đất nước Việt Nam giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc đối phó với dịch bệnh.
Chúng ta tin tưởng việc phát huy những bài học kinh nghiệm đã có được từ cuộc giải
phóng dân tộc 1930- 1945 sẽ góp phần giúp Việt Nam “đẩy lùi cho được đại dịch COVID
- 19, “sớm đưa nước ta trở về trạng thái bình thường mới mà nhân dân cả nước đang
mong đợi. Chúng ta có thể tự hào rằng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, xứng đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh,
Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo 2017, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB
chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam 2000, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam 2000, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
19