Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Giải thích tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.05 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
FDI có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá và
xã hội. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ
vọng lớn nhất của việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Kỳ vọng này dường như được thể hiện trong tư tưởng của các nhà kinh tế và các
nhà hoạch định chính sách với ba lý do chính.
Một là, FDI góp phần làm tăng thặng dư của tài sản vốn, góp phần cải thiện
cán cân thanh toán nói chung cà ổn định kinh tế vĩ mô.
Hai là, các nước đang phát triển thường có tỷ lệ tích luỹ vốn thấp và vì vậy,
FDI thường được coi là nguồn vốn quan trọng để bổ sung đầu tư trong nước nhằm
mục đtiêu tăng trưởng kinh tế.
Ba là, FDI tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn, dễ
dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc đẩy quá trình phổ biến kiến thức, nâng cao
kỹ năng quản lý và trình độ lao động.v.v…
Tác động này được xem là các tác động tràn của FDI, góp phần làm tăng năng
suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế nói chung. Trên thực tế không phải nước nào cũng đạt được cùng một lúc
hai kỳ vọng này. Một số nước thu hút được dòng vốn FDI khá lớn nhưng tác động
tràn hầu như không xảy ra. Ở một tình thế khác, vốn FDI vào một nước có thể làm
tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế nhưng đóng góp của nguồn vốn này vào tăng
trưởng là thấp. Cả hai trường hợp trên đều được coi là không thành công với chính
sách thu hút FDi chưa tận dụng triệt để và lãng phí nguồn lực này dưới góc độ tăng
trưởng kinh tế, đặc biệt là của các nước đang phát triển.
Đề tài “Giải thích tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước” sẽ tập
trung giải thích và làm rõ tác động gián tiếp của FDI tới tăng trưởng kinh tế.
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
Phần một: LÝ LUẬN CHUNG
I. FDI
1. Các khái niệm 4


2. Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế ở các nước
đang phát triển 5
II. Tác động tràn của fdi:
1. Khái niệm 8
2. Các kênh chủ yếu xuất hiện tác động tràn 8
Phần hai: TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH
TẾ TRONG NƯỚC
I. Tình hình thu hút FDI của Việt Nam trong những năm qua 10
II. Tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước
1. Kênh di chuyển lao động 14
2. Kênh phổ biến và chuyển giao công nghệ 15
3. Kênh liên kết sản xuất 16
4. Kênh cạnh tranh 18
III. Phân tích định lượng tác động tràn
1. Tác động tràn của FDI tới năng suất lao động của doanh nghiệp 20
trong nước
2. Khả năng hấp thụ tác động tràn của khu vực kinh tế trong nước 22
Phần ba: MỘT SỐ GIẢI PHÁP 26
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phần một
LÝ LUẬN CHUNG
I. FDI
1. Các khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư
và người sử dụng vốn đầu tư là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá
nhân người nước ngoài trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu
tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra.
Theo IMF thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là một tổ chức kinh tế (nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác.

Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý
doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế đó.
Theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ
chức, cá nhân người nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài
sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
theo quy định của luật này.
Kể từ năm 1996 thì khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là việc
nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào
khác để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một
nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ một tài sản nào khác vào quốc gia đó để
có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại
quốc gia đó với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế
có nhân tố nước ngoài: chủ đầu tư, vốn đầu tư, địa điểm đầu tư từ các quốc gia
khác nhau. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc
tịch hoặc lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong đầu tư trực tiếp
vượt ra khỏi biên giới một quốc gia.
Qua đó ta có thể thấy được đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay có hai đặc
điểm nổi bật đó là: có sự di chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư trực
tiếp tham gia vào quá trình hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Trong thực tiễn, FDI được thực hiện theo những hình thức khác nhau, trong đó
những hình thức được áp dụng phổ biến bao gồm:
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Ngoài những hình thức đầu tư trên, còn một vài hình thức đầu tư 100% vốn
nước ngoài khác như BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), BTO (xây dựng

- chuyển giao - kinh doanh), BT (xây dựng - chuyển giao)…
2. Vai trò FDI đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước
đang phát triển:
2.1. FDI bổ sung vốn cho nền kinh tế:
Từ thế kỷ trước, nhà kinh tế học Paul Samuelson đã đưa ra lý thuyết “vòng
luẩn quẩn của sự chậm tiến và cú huých từ bên ngoài”. Theo lý thuyết này, đa số
các nước đang phát triển đều thiếu vốn, do khả năng tích luỹ vốn hạn chế. “Những
nước dẫn đầu trong chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất 20% thu nhập quốc
dân vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp lạc hậu thường chỉ có thể
tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần nhiều trong khoản tiết kiệm
nhỏ bé này phải dùng để cung cấp nhà cửa và những công cụ giản đơn cho số dân
đang tăng lên”.
Trong cuốn “Những vấn đề hình thành vốn ở các nước chậm phát triển”,
R.Nurkes đã trình bày có hệ thống việc giải quyết vấn đề vốn . Theo ông, xét về
lượng cung người ta thấy khả năng tiết kiệm ít ỏi, tình hình đó là do mức độ thấp
của thu nhập thực tế. Mức thu nhập thực tế phản ánh năng suất lao động thấp, đến
lượt mình, năng suất lao động tháp phần lớn do tình trạng thiếu tư bản gây ra.
Thiếu tư bản lại là kết quả của khả năng tiết kiệm ít ỏi đưa lại. Và thế là cái vòng
được khép kín. Trong cái “vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói” đó, nguyên nhân cơ
bản là thiếu vốn. Do vậy, mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài được ông xem là
giải pháp thực tế nhất đối với các nước đang phát triển.
Samuelson cũng cho rằng, để phát triển kinh tế phải có cú huých từ bên ngoài
nhằm phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” đó, phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước
đang phát triển. Theo ông, nếu có quá nhiều trở ngại đối với việc đi tìm nguồn tiết
kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào các nguồn bên
ngoài? “Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu
sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho mình, cũng có thể làm
lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư vào những dự án lợi nhuận
cao ra nước ngoài đó sao”.
FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luồng vốn

ổn định hơn so với các luồng vốn đầu tư quốc tế khác, bởi FDI dựa trên quan điểm
dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng và không tạo ra nợ cho chính phủ
nước tiếp nhận đầu tư, do vậy, ít có khuynh hướng thay đổi khi có tình huống bất
lợi.
2.2. FDI cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển:
Có thể nói công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát triển
của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng được khẳng
định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là một trong những mục
tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu
này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải có một trình độ phát triển nhất
định của khoa học - kỹ thuật.
Lênin cũng đã từng khẳng định: “Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được
xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ
chức nhà nước có khoa học khiến cho hàng triệu người phải tuân theo hết sức
nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản
phẩm thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”.
Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi là nguồn quan trọng để phát triển
khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh
chính là chuyển giao công nghệ sãn có từ bên ngoài vào và sự phát triển khả năng
công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những
mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực hiện chủ
yếu bởi các TNC (công ty xuyên quốc gia), dưới các hình thức chuyển giao trong
nội bộ giữa các chi nhánh của một TNC và chuyển giao giữa các chi nhánh của các
TNC. Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC sang
nước chủ nhà (nhất là các nước đang phát triển được thông qua các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mà bên nước ngoài nắm phần
lớn cổ phần dưới các hạng mục chủ yếu như tiến bộ công nghệ, sản phẩm công
nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ
quản lý, công nghệ marketing. Theo số liệu thống kê của trung tâm nghiên cứu

TNC của Liên hợp quốc, các TNC đã cung cấp khoảng 95% trong số các hạng mục
công nghệ mà các chi nhánh của TNC ở các nước đang phát triển nhận được trong
năm 1993.
Cùng với hình thức chuyển giao trên, chuyển giao công nghệ giữa các chi
nhánh của các TNC cũng tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Trong
giai đoạn 80-96 các TNC đã thực hiện khoảng 8254 hợp đồng chuyển giao công
nghệ theo kênh này, trong đó 100 TNC lớn nhất thế giới chiếm bình quân khoảng
35%.
Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các TNC còn
góp phần làm tăng năng lực ngiên cứu và phát triển (R&D) công nghệ của nước
chủ nhà. Đến năm 1993 đã có 55% chi nhánh của các TNC lớn và 45% chi nhánh
của các TNC vừa và nhỏ thực hiện các hoạt động R&D ở các nước đang phát triển.
Trong những năm gần đây, xu hướng này còn tiếp tục tăng nhanh ở các nước đang
phát triển châu Á.
Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài (nhất là ở các
doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp trong nước học được cách thiết kế, chế
tạo từ công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của
mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với việc
phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển.
2.3. FDI giúp phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm:
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài là thu được lợi nhuận tối đa,
củng cố chỗ đứng và duy trì thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do đó, họ đặc
biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nước tiếp nhận đầu tư. Số
lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng nhanh ở
các nước đang phát triển. Ngoài ra, các hoạt động cung ứng dịch vụ và gia công
cho các dự án FDI cũng tạo ra thêm nhiều cơ hội việc làm. Trên thực tế, ở các
nước đang phát triển, các dự án FDI sử dụng nhiều lao động đã tạo nhiều việc làm
cho phụ nữ trẻ. Điều này không chỉ mang lại cho họ lợi ích về thu nhập cao mà còn
góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở các nước này.

FDI cũng có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nước chủ
nhà thông qua các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Các cá nhân làm
việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội học hỏi, nâng cao
trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến. Các
doanh nghiệp FDI cũng có thể tác động tích cực đến việc cải thiện nguồn nhân lực
ở các công ty khác mà họ có quan hệ, đặc biệt là các công ty bạn hàng. Những cải
thiện về nguồn nhân lực ở các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể đạt hiệu quả lớn
hơn khi những người làm việc trong các doanh nghiệp FDI chuyển sang làm việc
cho các doanh nghiệp trong nước hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp mới.
Đầu tư nước ngoài còn có vai trò đáng kể đối với tăng cường sức khoẻ và dinh
dưỡng cho người dân nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào ngành y tế,
dược phẩm, công nghệ sinh học và chế biến thực phẩm.
2.4. FDI giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu:
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu,
những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác có hiệu
quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nước đang phát triển tuy có khả
năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó khăn
trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước ngoài
hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút FDI của các
nước này. Thông qua FDI các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường
thế giới, vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các TNC thực hiện. Ở tất cả các nước
đang phát triển, các TNC đều đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất
khẩu do vị thế và uy tín của chúng trong hệ thống sản xuất và thương mại quốc tế.
Đối với các TNC, xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua sử dụng
các yếu tố đầu vào rẻ, khai thác được hiệu quả theo quy mô sản xuất (không bị hạn
chế bởi quy mô thị trường của nước chủ nhà) và thực hiện chuyên môn hoá sâu
từng chi tiết sản phẩm ở những nơi có lợi thế nhất, sau đó lắp ráp thành phẩm.
2.5. FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát
triển nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh

tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động
kinh tế đối ngọi, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá
trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi qgh phải thay đổi cơ
cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế
giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngược lại, chính FDI lại góp
phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà, vì nó
làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới và góp phần nâng cao
nhanh chóng trình độ kỹ thuật và công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, phát triển năng
suất lao động của các ngành này. Mặt khác, dưới tác động của FDI, một số ngành
nghề được kích thích phát triển, nhưng cũng có một số ngành nghề bị mai một và
dần bị xoá bỏ.
II. TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI:
1. Khái niệm:
Kỳ vọng lớn nhất của các nước đang phát triển trong việc thu hút đầu tư nước
ngoài là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế với hai lý do chính.
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài được coi là một nguồn vốn quan trọng để bổ sung
vốn đầu tư trong nước.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận công nghệ
tiên tiến hơn, dễ dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc đẩy quá trình phổ biến kiến
thức, nâng cao kỹ năng quản lý và trình độ lao động...
Tác động này được xem là tác động tràn của đầu tư nước ngoài, góp phần làm
tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế nói chung.
Vậy Tác động tràn là tác động gián tiếp xuất hiện khi có mặt của các doanh
nghiệp FDI làm cho các doanh nghiệp trong nước thay đổi hành vi của mình như
thay đổi công nghệ, thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh…
Có 4 kênh xuất hiện tác động tràn nhiều nhất: kênh di chuyển lao động, kênh
phổ biến & chuyển giao công nghệ, kênh liên kết sản xuất và kênh cạnh tranh.
2. Các kênh chủ yếu xuất hiện tác động tràn:

2.1. Kênh di chuyển lao động:
Lao động có kỹ năng chuyển từ doanh nghiệp FDI tới doanh nghiệp trong
nước được coi là một kênh quan trọng có thể tạo ra tác động tràn tích cực. Tác
động tràn xảy ra nếu như số lao động này sử dụng kiến thức đã học được trong thời
gian làm việc tại các doanh nghiệp FDI vào công việc trong doanh nghiệp trong
nước. Có hai cách để tạo ra tác động tràn. Đó là số lao động này tự thành lập Công
ty riêng hoặc làm thuê cho các doanh nghiệp trong nước, nhất là trong cùng ngành
mà doanh nghiệp FDI đang hoạt động.
2.2. Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ:
Đây là một kênh rất quan trọng để tạo ra tác động tràn tích cực của FDI.
Sự chuyển giao có 3 loại: Chuyển giao trong nội bộ doanh nghiệp là hình thái
chuyển giao giữa công ty đa quốc gia (MNC) với công ty con tại nước ngoài tức
doanh nghiệp FDI.
Hình thái thứ hai là chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp bản xứ hoạt động trong cùng ngành. Người quản lý bản xứ làm việc trong
doanh nghiệp FDI sau khi học hỏi được nhiều kinh nghiệm có thể mở công ty riêng
cạnh tranh lại với công ty FDI. Đối với doanh nghiệp FDI đây là một sự tổn thất
nhưng đối với kinh tế của nước nhận FDI thì đây là hiện tượng tốt vì công nghệ
được lan truyền sang toàn xã hội góp phần tăng cường nội lực. Một thí dụ khác của
hình thái này là xí nghiệp bản xứ đã có sẵn và hoạt động cạnh tranh trong cùng
lãnh vực với doanh nghiệp FDI có thể quan sát, nghiên cứu hoạt động của doanh
nghiệp FDI từ đó cải thiện hoạt động của mình. Có thể gọi hình thái thứ hai liên
quan đến chuyển giao công nghệ là sự chuyển giao hàng ngang giữa các doanh
nghiệp vì là sự chuyển giao giữa các doanh nghiệp độc lập và ở trong cùng một
ngành.
Hình thái thứ ba là chuyển giao hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong đó
doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ sang các doanh nghiệp bản xứ sản xuất
sản phẩm trung gian (điển hình là sản phẩm công nghiệp phụ trợ như phụ tùng,
linh kiện xe máy) cung cấp cho doanh nghiệp FDI, hoặc trường hợp doanh nghiệp
bản xứ dùng sản phẩm của doanh nghiệp FDI để sản xuất ra thành phẩm cuối cùng

(chẳng hạn doanh nghiệp bản xứ dùng nguyên liệu chất dẻo - plastic - do doanh
nghiệp FDI cung cấp để sản xuất các loại đồ dùng trong nhà). Trong cả hai trường
hợp, công nghệ được chuyển giao từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp bản xứ,
và đây là hiệu quả lan toả lớn nhất, quan trọng nhất nên các nước đang phát triển
đặc biệt quan tâm và đưa ra các chính sách làm tăng hiệu quả này.
2.3. Kênh liên kết sản xuất
Kênh liên kết sản xuất là một kênh rất quan trọng tạo ra tác động tràn. Tác
động “ngược chiều” có thể xuất hiện nên các doanh nghiệp trong nước cung cấp
nguyên liệu hoặc phân phối sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài. Mức độ
tác động càng cao nếu khối lượng sản phẩm phân phối hoặc nguyên liệu cung cấp
càng nhiều, tức là quan hệ tỷ lệ thuận.
Liên kết sản xuất bao gồm hai hình thức là liên kết dọc (sản phẩm của doanh
nghiệp này là nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp kia) và liên kết ngang (các
doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm).
2.4. Kênh cạnh tranh
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể tạo ra áp lực cạnh tranh lớn cho
các doanh nghiệp trong nước, trước hết là đổi mới doanh nghiệp trong cùng nhóm
ngành. Trong khu vực doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh tranh lớn nhất giữa các
doanh nghiệp này với nhau thì các doanh nghiệp trong nước lại cho rằng họ đang
chịu sức ép cạnh tranh mạnh ngang nhau từ các doanh nghiệp FDI và chính các
doanh nghiệp trong nước. Trong khi doanh nghiệp FDI chịu áp lực mạnh nhất về
sản phẩm như chủng loại, mẫu mã, thì các doanh nghiệp trong nước lại đánh giá
cao nhất về công nghệ có trình độ cao hơn từ các doanh nghiệp FDI
Phần hai
TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH TẾ
TRONG NƯỚC
I. TÌNH HÌNH THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM
QUA:
Từ đầu thập niên 1990, kinh tế vĩ mô của Việt Nam được ổn định, tốc độ phát
triển kinh tế cũng lên quỹ đạo và ở mức tương đối cao. Quan hệ với Trung Quốc

và các nước khác trong khu vực đã bình thường hoá. Nhật đã quyết định viện trợ
trở lại (1992) và Hội nghị các nhà tài trợ giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng đã
được quyết định sẽ tổ chức hằng năm (bắt đầu năm 1993). Sự chuyển biến thuận
lợi nầy cùng với vị trí địa lý tốt, tình hình chính trị, xã hội ổn định và một nước có
dân đông, có nguồn lao động phong phú đã làm cho Việt Nam trở thành môi
trường đầu tư nhiều tiềm năng. Theo kết quả thăm dò hằng năm về kế hoạch đầu tư
nước ngoài của vài ngàn doanh nghiệp lớn Nhật Bản do Ngân hàng hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JBIC) thực hiện, Việt Nam đã sớm trở thành một trong những môi
trường mà doanh nghiệp Nhật chú ý. Việt Nam xếp thứ 5 trong lần thăm dò năm
1992. Năm 1993 Việt Nam ở vị trí thứ 4 và trong 2 năm liên tiếp sau đó đã vươn
lên vị trí thứ 2. Từ năm 1996 vị trí của Việt Nam giảm nhưng hầu như năm nào
cũng nằm trong 5 nước được doanh nghiệp Nhật đánh giá cao về tiềm năng.
Việt Nam tiếp tục được nước ngoài đánh giá cao về tiềm năng nhưng dòng chảy
FDI vào Việt Nam từ nửa sau thập niên 1990 đã giảm nhanh và hiện nay cũng
chưa hồi phục (Xem Hình 2)
Tuy các yếu tố về kinh tế vĩ mô, về dân số, lao động, về vị trị địa lý vẫn thuận
lợi nhưng chính sách liên quan đến FDI của Việt Nam chưa ổn định, thiếu nhất
quán, hay thay đổi và chưa có chiến lược phát triển công nghiệp lâu dài. Đến năm
2000, Việt Nam mới sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài theo hướng cạnh tranh được
với các nước chung quanh. Hơn nữa, việc vận dụng luật vào việc quản lý thực tế
vẫn chưa có hiệu quả.
Biểu 1 cho thấy vị trí của FDI trong các chỉ tiêu của kinh tế Việt Nam. So với
kinh nghiệm các nước Á châu khác, vị trí nầy khá cao. Chẳng hạn tỉ trọng của FDI
trong tổng đầu tư của Việt Nam xấp xỉ với Malaixia và cao hơn Thái Lan nhiều
(trong giai đoạn 1988-93, xem Biểu 2). So với Trung Quốc những năm gần đây thì
con số của Việt Nam cũng cao hơn.
Tuy ở mức cao trong tổng đầu tư, FDI ở Việt Nam vẫn còn ít nếu xét trên một
số chỉ tiêu khác. Biểu 3 so sánh Việt Nam với Trung Quốc nói chung và tỉnh
Quảng Đông (một tỉnh có nhiều điều kiện như dân số, vị trí địa lý giống Việt Nam)
nói riêng. FDI tính trên đầu nguời ở Việt Nam chỉ bằng 60% của nước Trung Quốc

rộng lớn với số dân 1,3 tỉ và chỉ bằng 13% của tỉnh Quảng Đông. Như Biểu 3 cho
thấy, FDI có tương quan mật thiết với các chỉ tiêu về thành quả phát triển như
GDP trên đầu người và kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp. Từ nhận xét nầy,
có thể nói tỉ lệ của FDI trong tổng đầu tư ở Việt Nam cao là vì đầu tư vốn trong
nước (nội lực) còn quá ít. Việt Nam cần huy động vốn trong dân, cải thiện môi
trường đầu tư cho dân doanh hơn nữa để tăng nội lực. Tóm lại, tỉ lệ khá cao của
FDI không có nghĩa là Việt Nam không cần ngoại lực nhiều hơn mà vấn đề ở đây
là cả nội lực và ngoại lực đều cần tăng cường.
Xét về chất, FDI tại Việt Nam cho đến nay có các đặc tính chưa mang lại hiệu
quả tích cực cho phát triển kinh tế. Trước hết có thể thấy tỉ trọng của FDI trong sản
xuất công nghiệp khá cao (gần 40% năm 2000) nhưng chỉ chiếm độ 10% trong lao
động công nghiệp (Biểu 1). Dĩ nhiên điều đó cũng có nghĩa là năng suất lao động
của các doanh nghiệp FDI cao hơn các thành phần kinh tế khác. Nhưng FDI ít tạo
ra công ăn việc làm không phải chỉ vì lý do đó mà chủ yếu vì cho đến nay FDI có
khuynh hướng tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu và ít dùng lao động.
Như Biểu 1 cho thấy, vị trí của FDI trong tổng nhập khẩu cao hơn trong tổng xuất
khẩu. Dĩ nhiên các doanh nghiệp FDI nhập khẩu nhiều nguyên liệu và máy móc để
phục vụ cho cả các dự án đầu tư hướng về xuất khẩu nhưng nếu phần lớn FDI là
hướng về xuất khẩu thì tỉ lệ của FDI trong nhập khẩu sẽ thấp hơn nhiều.
Để phân tích sâu hơn tính chất của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, ta thử
chia khu vực công nghiệp chế biến thành 23 ngành và tính thử tỉ lệ của tư bản dùng
cho mỗi lao động (viết tắt là K/L) và tỉ lệ xuất khẩu trong tổng doanh số bán ra
(viết tắt là E/S) trong từng ngành. Thống kê về tư bản được tính bằng cách cộng tất
cả kim ngạch đầu tư đã thực hiện từ trước đến thời điểm cuối năm 2002. Thống kê
về lao động lấy số liệu vào cuối năm 2002, kim ngạch xuất khẩu và doanh số bán
ra là của năm 2002.

×