CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG
I. TỔNG QUAN VỀ FDI :
1. Các khái niệm :
Theo quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF), FDI được định nghĩa là “ một khoản đầu tư
với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế ( nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác.
Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý
doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế đó.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu
tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một
khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thế kinh tế của nước ngoài để có ảnh
hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong
thực thể kinh tế ấy.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “ Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: “ đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà
đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để
có quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia
đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình
( máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy
phép có giá trị…), tài sản vô hình ( quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm
quản lý,…) hoặc tài sản tài chính ( cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ,…). Như
vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc
điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu
tư ( pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lý
đối tượng đầu tư.
2. Các hình thức đầu tư nước ngoài :
1
- Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức
được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến
nay. Nó công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có
hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động
đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có
tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở
tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của
chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường
kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, mức độ
cạnh tranh…
- Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành
lập pháp nhân mới
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giứa đại diện có thẩm
quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc thực hiện
phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong qúa trình kinh
doanh các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc
thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp
doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh
chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh thực
hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh
là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh
của pháp luật nước sở tại, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hơp doanh được ghi
trong hợp đồng hợp tác kinh doanh
2
- Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô
hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhan để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng
vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một
doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà thường
do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu
đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu
dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
- Ngoài ra còn có các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài khác như :
+ Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con ( Holding company)
+ Hình thức công ty cổ phần
+ Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
+ Hình thức công ty hợp danh
+ Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập ( M&A)
3. Vai trò của vốn FDI đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước
đang phát triển :
a, FDI đem đến cho các nước nhận đầu tư những nguồn lực bổ xung quan
trọng để phát triển KT- XH, trong đó phải kể đến ba nguồn lực cơ bản nhất:
vốn, kinh nghiệm và công nghệ quản lý
- FDI bổ sung vốn cho nền KT:
Đối với các nước đang phát triển ( ĐPT), FDI được coi là một “ cú huých”
giúp các nước này thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo”. Muốn tạo ra sự
tăng trưởng KT và thoát ra khỏi cảnh đói nghèo, không còn cách nào khác là phải đầu
tư phát triển sản xuất. Tuy nhiên, các nước này đã vấp phải một trở ngại là thiếu vốn
đầu tư ( VĐT) do tích lũy nội bộ của nền KT thấp. Nhưng thay vì đó các nước ĐPT
lại có TNTN và nguồn nhân lực giá rẻ, đó lại là những thứ mà các nhà đầu tư nước
ngoài đang cần. Vì vậy, hoạt động FDI đã diễn ra, mang lại cho các nước ĐPT nguồn
vồn bổ xung quan trọng.
- Phát triển khoa học và công nghệ ( KH & CN)
FDI góp phần thúc đẩy vào sự phát triển KH & CN của nước chủ nhà thông
qua hoạt động chuyển giao công nghệ ( CGCN) và hoạt động nghiên cứu triển khai
( R&D) của nước tiếp nhận đầu tư.
3
Hoạt động CGCN thông qua FDI sẽ góp phần làm giảm những khoản chi phí
rất lớn nếu mua một công nghệ hoàn toàn mới. Việc này đã tác động tích cực đối với
sự phát triển của KH& CN của nước chủ nhà.
Tại các nước ĐPT, công nghệ trong nước thường là những công nghệ lạc hậu
với năng suất thấp. Trong khi đó khả năng tự nhập khẩu công nghệ hoặc tự nghiên
cứu phát minh ra công nghệ của các nước này còn rất hạn chế do thiếu vốn đầu tư,
thiếu trình độ. Do vậy, đối với các quốc gia này, việc thực hiện chính sách đa dạng
hóa các kênh CGCN từ bên ngoài, đặc biệt là công nghệ đối với FDI có ý nghĩa quan
trọng với quá trình CNH- HĐH đất nước, đem lại cho các nước này một cơ hội tốt để
rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí đổi mới công nghệ sản xuất nhờ các hoạt động
CGCN. Tuy nhiên, cũng có những vấn đề đặt ra đòi hỏi phía tiếp nhận phải có những
cân nhắc và phải có trình độ nhất định trong quá trình tiếp nhận CGCN
- Về kinh nghiệm quản lý:
Kinh nghiệm quản lý của nước ngoài được cung cấp thông qua FDI cũng tạo ra
những lợi ích quan trọng đối với nước nhận đầu tư. Những lợi ích này xuất hiện khi
những nhân viên địa phương, những người được đào tạo để đảm nhiệm những vị trí
quản lý, tài chính và kỹ thuật trong một chi nhánh của công ty đa quốc gia rời khỏi
công ty và tham gia thành lập các công ty khác.
b, FDI góp phần tạo ra sự tăng trưởng KT
Tác động của FDI đối với tăng trưởng KT là hệ quả tất yếu của sự di chuyển
vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý vào nước nhận đầu tư. Những nhân tố này
không chỉ bổ xung những nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng mà còn làm tăng hiệu
quả của sự tăng trưởng KT. Khi có hoạt động FDI tại một nước thì tất yếu có nhu
cầu về đất đai, nhân công và tạo ra SP. Do đó, nước chủ nhà sẽ thu được những
khoản tiền từ hoạt động này như tiền thuê đất, tiền thuế,… mà các DN FDI phải nộp
cho nhà nước. Những khoản này cũng đóng góp không nhỏ vào GDP của một nước
mà từ đó thúc đẩy tăng trưởng KT.
c, FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu KT
Ở các nước ĐPT, trước khi tiến hành CNH thường là những nền KT nông
nghiệp lạc hậu, nhưng sau khi có FDI thì ngành công nghiệp phát triển với sự ra đời
của hàng loạt các nhà máy, các xí nghiệp… FDI chảy vào lĩnh vực nào thì thúc đẩy
4
lĩnh vực đấy phát triển. Thông thường ở các nước đang phát triển, FDI thường đổ vào
các ngành công nghiệp hay các ngành dịch vụ mà ít chú tâm vào ngành nông nghiệp.
Điều này đã có tác động rất tích cực tới quá trình CNH ở các nước ĐPT, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Hơn thế nữa, FDI còn tạo ra môi trường cạnh tranh mạnh mẽ ở các nước ĐPT:
giữa các công ty FDI với nhau, giữa các DN trong nước và DN nước ngoài, giữa các
DN trong nước với nhau.
FDI làm cho hoạt động đầu tư trong nước phát triển, tính năng động và khả năng
cạnh tranh của sản xuất trong nước ngày càng được tăng cường, các tiềm năng cho
phát triển KT – XH của đất nước có điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều
đó có tác dụng mạnh mẽ đến chuyển dịch CCKT. Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ,
cơ cấu SP lao động, cơ cấu lãnh thổ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp
ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển KT – XH của đất nước, phù hợp với xu thế chung
của thời đại, của các nước trong khu vực; nước chủ nhà có thêm điều kiện để mở
rộng quan hệ quốc tế, có chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
d, FDI góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho NLĐ và tăng chất
lượng NNL.
FDI có thể tạo thêm nhiều việc làm cho nước nhận đầu tư, bao gồm cả việc làm
trực tiếp và gián tiếp. Việc làm trực tiếp được tạo ra khi các công ty nước ngoài trực
tiếp tuyển dụng lao động của nước nhận đầu tư. Việc làm gián tiếp được tạo ra bởi
DN có liên quan bao gồm các DN cung cấp các yếu tố đầu vào, tiêu thụ SP đầu ra
cho DN FDI. Có nhiều việc làm là điều kiện tiên quyết đảm bảo thu nhập ổn định cho
NLĐ.
Ở các nước ĐPT, LLLĐ rất dồi dào nhưng trình độ lại không cao. Vì thế, họ
thường có chính sách thu hút FDI vào những ngành nghề sử dụng nhiều lao động
như: công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng… Mặt khác, chính
các nước đầu tư cũng có xu hướng đầu tư vào đây để tìm kiếm TT mới với nguồn
nhân lực giá rẻ. Các DA FDI đi vào hoạt động giải quyết một lượng lớn lao động của
địa phương nước sở tại, tạo thu nhập và tác phong làm việc công nghiệp cho NLĐ.
5
Mặc khác, các DA FDI còn có tác động lan tỏa, thúc đẩy sự phát triển của các xí
nghiệp vệ tinh, gián tiếp tạo thêm việc làm cho lao động. Tức là, nếu DN đó chỉ đơn
thuần lắp ráp linh kiện cho các công ty mẹ hoặc sử dụng hoàn toàn nguyên liệu nhập
thì chí ít nó cũng phải tạo điều kiện hoạt động cho các công ty XNK, các đơn vị hải
quan… của nước sở tại. Nhưng trên thực tế, hầu hết các DA FDI đều muốn sử dụng
nguồn nguyên liệu trong nước, vì thế mà thúc đẩy hoạt động của các DN cung cấp
đầu vào, hay các công ty quảng cáo, hệ thống phân phối…
Không chỉ góp phần vào việc giải quyết việc làm, FDI còn nâng cao chất lượng
NNL. Để phù hợp với trình độ KHCN của các thiết bị chuyển giao và phương thức
quản lý mới, nước chủ nhà phải đầu tư phát triền NLL. Hiệu quả làm việc của lao
động quyết định tới lợi ích mà chủ đầu tư thu được. Một LLLĐ chất lượng cao là mối
quan tâm thu hút các nhà ĐTNN. Bên cạnh việc tự đào tạo của nước chủ nhà, FDI
đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này.
Thông qua các khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo dạy nghề, FDI
đã góp phần thúc đẩy nền giáo dục của nước sở tại từ giáo dục phổ thông đến đào tạo
nghề , hay nâng cao năng lực quản lý.
Đây là những tác động rất tích cực đến ổn định tình hình chính trị- xã hội, thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
II. Tác động tràn của FDI :
1. Khái niệm :
Các chuyên gia thực hiện nghiên cứu tác động của đầu tư nước ngoài tới tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam cho rằng, kỳ vọng lớn nhất của các nước đang phát triển
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế với hai lý
do chính:
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài được coi là một nguồn vốn quan trọng để bổ sung
vốn đầu tư trong nước.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận công nghệ
tiên tiến hơn, dễ dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc đẩy quá trình phổ biến kiến
thức, nâng cao kỹ năng quản lý và trình độ lao động, mở rộng thị trường và đẩy mạnh
xuất khẩu...
6
Tác động này được xem là tác động tràn của đầu tư nước ngoài, góp phần làm
tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế nói chung.
Vậy Tác động tràn là tác động gián tiếp xuất hiện khi có mặt của các doanh
nghiệp FDI làm cho các doanh nghiệp trong nước thay đổi hành vi của mình như
thay đổi công nghệ, thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh…
2. Các kênh chủ yếu xuất hiện tác động tràn :
Có 4 kênh xuất hiện tác động tràn nhiều nhất: kênh di chuyển lao động, kênh
phổ biến & chuyển giao công nghệ, kênh liên kết sản xuất và kênh cạnh tranh.
a, Kênh di chuyển lao động:
Di chuyển lao động ở đây có nghĩa là sự chuyển dịch của những lao động có kỹ
năng từ các DN FDI sang các DN trong nước, đây được coi là một kênh quan trọng
có thể tạo ra tác động tràn tích cực. Tác động tràn này xảy ra khi lao động trong nước
làm việc cho các DN FDI, từ đó họ tiếp thu được những kinh nghiệm, kiến thức, kỹ
năng làm việc của các DN này và áp dụng vào những công việc trong DN trong nước.
Có 2 cách để tạo ra được tác động tràn này đó là : lao động đã làm việc cho các DN
FDI ra mở công ty riêng của họ hoặc là làm việc cho các DN trong nước, đặc biệt là
cùng ngành mà doanh nghiệp FDI đang hoạt động.
Với việc di chuyển lao động như thế này, lao động của nước tiếp nhận vốn FDI
sẽ nâng cao được chất lượng, tạo điều kiện tốt để đất nước tăng trưởng theo chiều
sâu.
b, Kênh phổ biến và chuyển giao công nghệ:
Đây là một kênh rất quan trọng để tạo ra tác động tràn tích cực của FDI. Cho
đến nay chỉ tiêu hay được dùng để đo khả năng hấp thụ công nghệ là trình độ học vấn
hoặc trình độ chuyên môn của lao động trong doanh nghiệp và chỉ tiêu biểu thị cho
đổi mới công nghệ của doanh nghiệp thể hiện qua chỉ tiêu cho các hoạt động R&D.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến việc xuất hiện tác động tràn là khả năng tiếp thu
công nghệ mới của chính các doanh nghiệp FDI. Nhiều nghiên cứu cho rằng công
nghệ mới chủ yếu do các công ty mẹ tạo ra, trong khi đó các công ty con ở các nước
đang phát triển hầu như chỉ tập trung đến khâu sản xuất chiếm lĩnh thị trường dựa
trên các lợi thế về công nghệ do công ty cung cấp. Do đó khả năng tiếp thu công nghệ
của các công ty con hoạt động ở nước nhận đầu tư ngày càng cao, càng có lợi cho
quá trình sinh ra tác động tràn tích cực qua rò rỉ công nghệ.
7
c, Kênh liên kết sản xuất:
Kênh liên kết sản xuất là một kênh rất quan trọng tạo ra tác động tràn. Tác
động “ ngược chiều “ có thể xuất hiện nên các doanh nghiệp trong nước cung cấp
nguyên liệu hoặc phân phối sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài . Mức độ tác
động càng cao nếu khối lượng sản phẩm phân phối hoặc nguyên liệu cung cấp càng
nhiều, tức là quan hệ tỷ lệ thuận.
Trong liên kết sản xuất tồn tại dưới hai hình thức đó là liên kết dọc và liên kết
ngang. Liên kết dọc là sản phẩm của doanh nghiệp này là nguyên liệu đầu vào của
doanh nghiệp kia. Liên kết ngang là các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản
phẩm.
d, Kênh cạnh tranh
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể tạo ra áp lực cạnh tranh lớn cho
các doanh nghiệp trong nước, trước hết là đổi mới doanh nghiệp trong cùng nhóm
ngành. Để thu được biểu hiện của kênh tác động này chúng ta cần thu thập những
thông tin về sức ép cạnh tranh thị trường của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự đánh
giá. Trong khu vực doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh tranh lớn nhất giữa các doanh
nghiệp này với nhau thì các doanh nghiệp trong nước lại cho rằng họ đang chịu sức
ép cạnh tranh mạnh ngang nhau từ các doanh nghiệp FDI và chính các doanh nghiệp
trong nước. Trong khi doanh nghiệp FDI chịu áp lực mạnh nhất về sản phẩm như
chủng loại, mẫu mã, thì các doanh nghiệp trong nước lại đánh giá cao nhất về công
nghệ có trình độ cao hơn từ các doanh nghiệp FDI
8
CHƯƠNG II
TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH TẾ
TRONG NƯỚC
I. TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM QUA :
1 Về cấp phép đầu tư :
Ngày 19/12/1987, nước ta đã chính thức ban hành luật đầu tư nước ngoài vàp
Việt Nam. Trong những năm đầu tiên, FDI tại Việt Nam mang tính chất thăm dò, vì
thế mà số dự án cấp mới cũng như số vốn đăng ký không nhiều. Tuy nhiên trong
những năm sau, nguồn vốn FDI đã tăng lên cả về số dự án và vốn đăng ký.
Bảng 1: Vốn FDI của cả nước từ năm 1991 - 2008
Đơn vị 1991–1995 1996–2000 2001–2005 2006- 2008 Tổng
Số dự án DA 1371 1724 3935 2673 9703
Tỷ trọng số DA % 16,71 21,02 47,98 14,27 100
Vốn đăng ký Tỷ USD 18,5 25,5 20,8 64,01 128,81
Tỷ trọng VĐK % 14,36 19,79 16,15 49,69 100
Vốn thực hiện Tỷ USD 7,1 13,5 13,92 23,6 58,12
Tỷ trọng VTH % 15,4 29,09 30,82 24,78 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Giai đoạn từ năm 1991 – 1995 : Trong thời kỳ này hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng lên nhanh chóng. trong đó chỉ riêng năm 1991, năm thấp nhất của
thời kì, cũng đạt 1,2 tỷ USD gần bằng cả ba năm của thời kì trước cộng lại. Lượng
9
vốn đăng ký tăng nhanh qua các năm. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư bình quân hàng
năm đạt 45% / năm. Thời kỳ này, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được phân bổ
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhiều ngành công nghiệp mới
xuất hiện như: công nghiệp điện tửm công nghệ sinh học, chế tạo xe máy, ô tô... Bên
cạnh đó. sự hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều
sản phẩm mới có chất lượng cao, giá thành hạ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu. Ngoài ra, các kết quả khả quan của các dự án thăm dò dầu khí đã tạo cơ sơ để
phát triển ngành công nghiệp lọc dầu, hoá dầu thành ngành công nghiệp mủi nhọn ở
nước ta.
Giai đoạn từ năm 1996 – 2000: trong giai đoạn này hoạt động FDI diễn ra khá
sôi động. Tổng vốn đăng ký cao khi đạt 25,5 tỷ USD, trong đó VTH đạt 13,5 tỷ. Nếu
so sánh với thời kỳ trước đó thì chúng ta có thể thấy được tiềm năng thu hút VĐT
của Việt Nam với các nhà nước ngoài trong giai đoạn này là rất hấp dẫn. Trong giai
đoạn này, VĐK vào Việt Nam đạt đỉnh điểm vào năm 1996 và giảm dần trong các
năm sau đó do ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Xu hướng đầu tư
trong thời kỳ có thay đổi khi chuyển từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều
sâu.
Giai đoạn từ năm 2001 – 2005: so với giai đoạn trước đã có sự thay đổi. Mặc
dù tổng VĐK giảm nhưng VTH lại tăng lên. Điều này cho thấy sự khả thi của các dự
án FDI thời kỳ này tốt hơn. Sau sự kiện khủng bố tại Mỹ vào tháng 11/ 2009, Việt
Nam với nền chính trị ít biến động đã trở thành một địa điểm thích hợp cho các nhà
đầu tư nước ngoài. Vì thế mà số dự án FDI thời kỳ này cũng tăng mạnh đạt 3935 dự
án, đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Vốn FDI vẫn tập trung vào các ngành
công nghiệp và các thành phố lớn
Giai đoạn từ năm 2006 đến nay: Làn sóng ĐTNN vào Việt Nam thực sự tăng
mạnh và trở thành làn sóng FDI thứ 2 vào Việt Nam. Bằng chứng là tính đến cuối
năm 2008, Việt Nam đã có 60,27 tỷ USD là vốn đăng ký cấp mới trong đó vốn thực
hiện là 11,5 tỷ USD tăng 143,21% so với cùng kỳ năm 2005. Số VĐK tiếp tục tăng
mạnh trong những năm sau đó.Tuy nhiên trong thời kỳ này ta thấy VTH chưa tương
10
xứng so với VĐK khi chỉ có 23,6 tỷ USD. Một trong những lý do mà vốn thực hiện
chưa tương xứng với vốn đăng ký là do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới. Dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư phải hoãn các chương trình đầu tư của họ.
2 Tình hình tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất :
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có
hiệu quả đú mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ
năm 2001 trở lại đây. Quá trình tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất được chia làm các
thời kỳ theo xu hướng biến động của nền kinh tế
Thời kỳ 1988-1990 : việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có, Việt Nam mới
bước đầu mở cửa với các nước trên thế giới, thêm nữa do số lượng doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài còn ít vì thế lượng tăng vốn thời kỳ này còn rất ít.
Thời kỳ từ năm 1991 – 1995 : số VĐK là 2,13 tỷ USD. Trong đó vốn tăng
thêm chủ yếu tập trung vào các dự án đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực công nghiệp
và xây dựng, đạt 40,6% vốn tăng thêm trong giai đoạn này.Do vốn đầu tư chủ yếu từ
các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà
đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995
Thời kỳ từ năm 1996 – 2000 : Trong giai đoạn này số vốn tăng thêm đã tăng
gấp hai lần so trong giai đoạn 1991-1995. Cũng giống nhau giai đoạn từ năm 1991 –
1995 thì số vốn tăng thêm cũng chỉ tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng,
chiếm 65,7% số vốn tăng thêm trong giai đoạn này. Các nhà đầu tư châu Á trong giai
đoạn này có số vốn đạt 67% tổng vốn đầu tư trong 5 năm 1996-2000. Số lượt tăng
vốn bình quân trong thời kỳ này là 165 lượt/ năm.
Thời kỳ từ năm 2001-2005 : vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18%
so dự kiến) tăng 69,7% so với 5 năm trước. Bắt đầu từ năm 2002 lượng vốn đầu tư
tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm
đạt 2,14 tỷ USD, trung bình tăng 37%/năm; trong đó ngành công nghiệp và xây dựng
chiếm 77,3% vốn tăng thêm trong thời kỳ 2001-2005. Số vốn đầu tư từ các nhà đầu
tư Châu Á cũng tăng thêm trong giai đoạn này, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005.
11
Số lượt tăng vốn bình quân cũng tăng lên so với thời kỳ khi đạt 432 lượt/năm, gấp 3
lần so với thời kỳ trước đó.
Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2008 : dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam tăng mạnh. Chỉ trong 3 năm từ năm 2006 đến năm 2008 số vốn tăng thêm đã là
8,5 tỷ USD. Vốn tăng thêm vẫn chủ yếu tập trung vào các dự án ĐTNN thuộc lĩnh
vực công nghiệp và xây dựng; trong năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17%
và 79,1% tổng vốn tăng thêm; trong đó các nhà đầu tư Châu Á có tỷ lệ vốn tăng thêm
trong năm 2006, 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% 80% tổng vốn tăng thêm. Năm 2008
thì số vốn tăng thêm trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đã lên tới mức 97,6%
tổng vốn tăng thêm tuy nhiên các nhà đầu tư Châu Á chỉ chiếm 23,6%. Tuy nhiên số
lượt tăng vốn bình quân hàng năm vẫn tương đối cao,đạt 434 lượt/năm tương đương
với thời kỳ trước đó.
Như vậy có thể thấy một xu hướng chung của dòng vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam là số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam biến động theo tình hình kinh tế
thế giới và đang có xu hướng tăng mạnh trong những năm tới. Số vốn tăng thêm
trong từng năm có lúc giảm lúc tăng tuy nhiên luôn danh một tỷ lệ lớn cho các ngành
công nghiệp và xây dựng. Một điều đang lưu ý là lượng vốn tăng thêm và những dự
án mở rộng thường diễn ra tại những vùng kinh tế trọng điểm, những thành phố lớn
có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt hơn, với tỷ lệ dành cho khu vực miền Nam thường cao
hơn cho các khu vực miền Bắc. Qua khảo sát thường niên của Tổ chức Xúc tiến
thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được
điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam; thể hiện sự tin tưởng
và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
3 . Cơ cấu FDI tại Việt Nam :
3 .1.Cơ cấu vốn ĐTNN phân theo ngành nghề :
Biểu đồ 1: Cơ cấu FDI cả nước phân theo ngành nghề
(tính tới thời điểm 31/12/2008)
12